XXII. PHẨM
“THIỆN HỮU”
(Phần sau Q. 551 đến đầu Q. 552, Hội thứ IV, TBBN).
Gợi ý:
Phẩm “Thiện
Hữu” của TBBN này không chỉ thuyết riêng về “bạn lành chơn tịnh của Bồ tát” mà
còn thuyết về tướng và tánh Không Bát nhã Ba la mật nữa.
Bấy giờ đức Thế Tôn lại bảo Thiện
Hiện:
- Nếu đại Bồ tát hết lòng muốn chứng
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thường nên gần gũi, cúng dường, cung kính,
tôn trọng, khen ngợi bạn lành chơn tịnh.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Những bậc nào gọi là
bạn lành chơn tịnh của các đại Bồ tát?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác
là bạn lành chơn tịnh của các chúng đại Bồ tát. Tất cả đại Bồ tát Bất thối
chuyển cũng là bạn lành chơn tịnh của các chúng đại Bồ tát. Nếu các Bồ tát khác
cùng các Thanh văn và thiện sĩ khác thường vì Bồ tát giảng thuyết, chỉ dạy pháp
môn tương ưng với Bát nhã sâu xa, khuyên răn, dạy bảo các chúng Bồ tát, làm cho
gieo trồng căn lành, tu Bồ tát hạnh mau được viên mãn, thì cũng là bạn lành
chơn tịnh của chúng Bồ tát. Kinh điển tương ưng với Bát nhã sâu xa cũng là bạn
lành chơn tịnh của chúng đại Bồ tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bố thí, tịnh
giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật , nên biết đó cũng là bạn
lành chơn tịnh của các chúng đại Bồ tát.
Thiện Hiện nên biết! Như vậy, sáu
pháp Ba la mật cũng là thầy của đại Bồ tát. Sáu pháp Ba la mật cũng là
bậc dẫn đường của đại Bồ tát. Sáu pháp Ba la mật cũng là
ánh sáng của đại Bồ tát. Sáu
pháp Ba la mật cũng là sự chiếu soi của đại Bồ tát. Sáu pháp Ba la mật cũng là
nhà cửa của đại Bồ tát. Sáu pháp Ba la mật cũng là
sự hộ trì của đại Bồ tát. Sáu pháp Ba la mật cũng là sự
quy y của đại Bồ tát. Sáu pháp Ba la mật cũng là
sự hướng đến của đại Bồ tát. Sáu pháp Ba la mật cũng là
hòn đảo của đại Bồ tát. Sáu pháp Ba la mật cũng là
cha lành của đại Bồ tát. Sáu pháp Ba la mật cũng là
mẹ hiền của đại Bồ tát. Sáu pháp Ba
la mật thường làm cho chúng đại Bồ tát
đắc được trí vi diệu, sanh giác ngộ chơn thật, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì tất cả chúng đại Bồ tát đều nhờ sáu pháp Ba la mật mà tu tập Bát nhã Ba la mật viên mãn hoàn
toàn.
Thiện Hiện
nên biết! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở quá khứ đã chứng quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề đã vào Bát Niết bàn. Phật Thế Tôn kia đều nương vào sáu pháp Ba la
mật mà sanh Nhất thiết trí. Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác ở vị lai sẽ chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, sẽ vào Bát
Niết bàn. Phật Thế Tôn kia cũng nương vào sáu pháp Ba la mật mà sanh Nhất thiết trí. Tất cả Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác hiện tại trong mười phương vô lượng, vô số, vô biên thế giới
hiện đang chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, hiện đang vì các hữu tình
giảng thuyết chánh pháp. Phật Thế Tôn kia cũng nương sáu pháp Ba la mật mà sanh Nhất thiết trí. Nay Ta, Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác hiện đang chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, hiện đang
tuyên thuyết chánh pháp cho các hữu tình cũng nương sáu pháp Ba la mật mà sanh Nhất thiết trí. Vì sao? Vì sáu pháp Ba
la mật này có thể bao gồm khắp tất cả ba
mươi bảy Bồ đề phần pháp, hoặc bốn phạm trụ, hoặc bốn nhiếp sự, hoặc vô lượng,
vô biên Phật pháp khác, hoặc trí chư Phật, hoặc trí tự nhiên, trí bất tư nghì,
trí không đối địch, Nhất thiết trí trí, tất cả đều bao gồm ở trong sáu pháp Ba
la mật này. Thế nên, Ta nói sáu pháp Ba
la mật này là bạn lành chơn tịnh của các
chúng đại Bồ tát, là thầy chỉ dạy, là bậc dẫn đường, là ánh sáng, là chiếu soi,
là nhà cửa, là hộ trì, là nơi quy y, là nơi hướng đến, là hòn đảo, là cha lành,
là mẹ hiền cho các chúng đại Bồ tát, luôn làm cho chúng đại Bồ tát đắc trí tuệ
vi diệu, sanh giác ngộ như thật, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề,
làm bạn bè chẳng mong đền ơn trả ơn của các hữu tình.
Thế nên, này
Thiện Hiện! Các đại Bồ tát nên học sáu pháp Ba la mật .
Lại nữa,
Thiện Hiện! Các đại Bồ tát muốn học sáu pháp Ba la mật nên đối với Kinh điển Bát nhã sâu xa chí tâm
lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, quán sát nghĩa lý, cầu xin xác quyết sự nghi ngờ.
Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật này thường cùng các Ba la mật là tôn trưởng, là đạo sư, là chỉ dạy, là hoán
chuyển, là mẹ sanh mẹ dưỡng. Vì sao? Vì nếu lìa Bát nhã Ba la mật thì không có
năm Ba la mật trước. Tuy có bố thí, tịnh
giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, nhưng không được gọi là đến bờ kia.
Thế nên, này
Thiện Hiện! Các đại Bồ tát muốn được hạnh chẳng theo người khác chỉ dạy, muốn
trụ bậc chẳng theo người khác chỉ dạy, muốn dứt nghi cho tất cả hữu tình, muốn
mãn nguyện cho tất cả hữu tình, muốn nghiêm tịnh cõi Phật, muốn thành thục hữu
tình thì nên học Bát nhã Ba la mật . Vì sao? Vì trong Kinh Bát nhã sâu xa này
rộng nói về pháp cần nên học của chúng đại Bồ tát, tất cả chúng đại Bồ tát đối
với Kinh ấy đều nên siêng năng tu học. Nếu siêng năng tu học phương tiện thiện
xảo của Bát nhã sâu xa thì nhất định chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề,
luôn làm lợi ích an vui cho chúng sanh cùng tận đời vị lai. (Q.551, TBBN)
Bát nhã Ba la mật lấy gì làm tướng?
Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:
- Kính bạch Thế Tôn! Bát nhã sâu xa
lấy gì làm tướng?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Bát nhã sâu xa lấy vô trước làm tướng.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Kính bạch Thế Tôn! Có nhân duyên
khiến tất cả các pháp cũng có tướng vô trước như tướng vô trước của Bát nhã Ba
la mật không?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Có nhân duyên
nên Bát nhã sâu xa có tướng vô trước. Tất cả các pháp khác có thể nói cũng có
tướng vô trước này. Vì sao? Vì tất cả
các pháp đều như Bát nhã sâu xa, là Không là Ly.
Thế nên, này Thiện Hiện! Bát nhã sâu xa do tướng vô trước, nên Không
nên Ly. Tất cả các pháp khác do tướng vô trước cũng Không, cũng Ly.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Kính bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp
đều Không, đều Ly thì tại làm sao hữu tình có thể tạo ra có nhiễm có tịnh?
Chẳng phải pháp Không, Ly, có thể nói có nhiễm có tịnh? Chẳng phải Không, Ly,
có thể chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Chẳng phải xa lìa Không, Ly
mà có pháp khác có thể chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Bạch Thế
Tôn! Làm thế nào con hiểu nghĩa thú thậm thâm của Phật đã dạy?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ý ngươi thế nào? Hữu tình từ lâu
tâm có ngã - ngã sở và chấp trước ngã - ngã sở không?
Thiện Hiện
thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện thệ! Đúng vậy! Hữu tình từ lâu tâm có ngã - ngã sở và chấp trước ngã - ngã sở.
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ý ngươi thế nào? Sự chấp trước về
ngã và ngã sở của hữu tình Không xa lìa, phải không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện
thệ! Đúng vậy! Hữu tình chấp ngã và ngã sở đều Không xa lìa.
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ý ngươi thế nào? Có phải chăng hữu
tình do chấp ngã, ngã sở nên luân hồi sanh tử phải không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện
thệ! Đúng vậy! Các loài hữu tình do vì chấp ngã, ngã sở nên luân hồi sanh
tử(1).
Phật bảo Thiện Hiện:
- Hữu tình luân hồi sanh tử như vậy,
nên tạo ra có tạp nhiễm và thanh tịnh. Do các hữu tình chấp trước sai lầm về
ngã và ngã sở nói có tạp nhiễm, nhưng ở trong đó không có sự tạp nhiễm. Do các
hữu tình không bị chấp trước về ngã và ngã sở một cách sai lầm nên nói có thanh
tịnh, nhưng trong đó không có sự thanh tịnh.
Thế nên, này Thiện Hiện! Tuy tất cả
pháp đều Không đều Ly, nhưng các hữu tình cũng có thể tạo ra có nhiễm có tịnh.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát
luôn thực hành như thế thì gọi là thực hành Bát nhã Ba la mật .
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Thật kỳ lạ thay, kính bạch Thế
Tôn! Thật hy hữu thay, kính bạch Thiện Thệ! Tuy tất cả pháp đều Không đều Ly,
mà các hữu tình có nhiễm có tịnh. Bạch Thế Tôn! Nếu các đại Bồ tát luôn thực
hành như thế thì chẳng hành sắc, cũng chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức. Bạch
Thế Tôn! Nếu các đại Bồ tát luôn thực hành như vậy thì thế gian, trời, người, A
tu la v.v… đều chẳng thể hàng phục được. Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát luôn thực
hành như vậy thì liền hơn sự tu hành của Thanh văn, Độc giác, đạt đến chỗ không
ai hơn. Vì sao? Vì tánh chư Phật và tánh Như Lai, tánh tự nhiên giác, tánh Nhất
thiết trí đều chẳng thể hơn được.
Kính bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát do
phát sanh ý nghĩ tương ưng với Bát nhã Ba la mật này nên ngày đêm an trụ phương
tiện thiện xảo, hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, mau chứng quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Phật bảo Thiện Hiện:
- Đúng như vậy! Đúng như lời ngươi
nói.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ý người thế
nào? Giả sử tất cả hữu tình trong châu Thiệm bộ này chẳng trước, chẳng sau
đều được thân người, được thân người rồi đều phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề. Đã phát tâm rồi, tu các Bồ tát hạnh, đều chứng quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề. Có các thiện nam, thiện nữ trọn đời đem các nhạc cụ thượng
diệu trên thế gian cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi các đấng Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác này, lại đem thiện căn đã tu tập như thế bình đẳng ban cho
các hữu tình cùng hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Thiện nam, thiện
nữ nhờ nhân duyên này được phước có nhiều không?
Thiện Hiện thưa:
- Rất nhiều, Thế Tôn! Rất nhiều,
Thiện Thệ!
Phật bảo Thiện Hiện:
- Những thiện nam, thiện nữ nào ở
giữa đại chúng giảng thuyết Bát nhã sâu
xa, trình bày, kiến lập, phân biệt, chỉ dạy, làm cho họ dễ hiểu và trụ ý
nghĩ tương ưng với Bát nhã sâu xa. Các thiện nam, thiện nữ nhờ nhân duyên này
đạt được công đức nhiều hơn trước vô lượng vô số.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ý ngươi thế
nào? Giả sử tất cả hữu tình ở trong châu Thiệm bộ này chẳng trước chẳng sau đều
được thân người. Được thân người rồi, đều phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề. Đã phát tâm rồi, trọn đời đem tất cả nhạc cụ ở thế gian cung kính bố thí
cho tất cả hữu tình, lại đem thiện căn bố thí như vậy bình đẳng ban cho các hữu
tình và hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Các chúng đại Bồ tát này
do nhân duyên này được phước có nhiều không?
Thiện Hiện thưa:
- Rất nhiều, Thế Tôn! Rất nhiều!
Phật bảo Thiện Hiện:
- Nếu các đại Bồ tát cho đến chỉ một ngày an trụ ý nghĩ tương ưng với Bát
nhã Ba la mật thì công đức đạt được nhiều hơn trước vô lượng vô số. Vì sao?
Vì các đại Bồ tát này ngày đêm an trụ ý nghĩ tương ưng với Bát nhã Ba la mật như
thế. Đúng như vậy! Có thể làm ruộng phước cho tất cả hữu tình. Vì sao? Vì lòng
từ của các đại Bồ tát này phát sanh thì các loại hữu tình không ai kịp được,
chỉ trừ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác không có ai ngang bằng. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không có ai để
thí dụ được. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã thành tựu pháp không thể
nghĩ bàn.
Thế nên, này Thiện Hiện! Vì lẽ gì mà
đại Bồ tát này có thể phát khởi được công đức thù thắng chừng ấy.
Thiện Hiện nên biết! Vì đại Bồ tát
này thành tựu Bát nhã Ba la mật thù thắng như thế. Nhờ Bát nhã Ba la mật này
thấy các hữu tình chịu các khổ não như là: Bị hình phạt chém giết nên sanh lòng
đại bi. Lại dùng thiên nhãn xem các thế gian thấy có vô biên các loài hữu tình
chiêu cảm nghiệp vô gián, đọa địa ngục vô gián, chịu các khổ dữ dội, hoặc bị
lưới tà kiến che khuất chẳng thấy được chánh đạo. Hoặc lại thấy có các loài hữu
tình đọa địa ngục vô gián, xa lìa các chỗ an vui. Thấy các hữu tình v.v… như
vậy rồi sanh lòng rất chán nản, sợ sệt; đối với tất cả hữu tình ở thế gian phát
sinh ý nghĩ tương ưng với đại từ bi: Ta phải làm chỗ nương tựa cứu giúp lớn cho
tất cả hữu tình. Ta phải giải thoát tất cả khổ não mà hữu tình đang chịu. Mặc
dù nghĩ như vậy nhưng chẳng trụ ý tưởng này, cũng chẳng trụ tưởng khác.
Thiện Hiện nên biết! Đấy gọi là ánh
sáng trí tuệ lớn của chúng đại Bồ tát có thể chứng được quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết! đại Bồ tát này
do trụ ở chỗ này thường làm được ruộng phước cho tất cả thế gian. Tuy chưa
chứng được Nhất thiết trí trí nhưng đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề
được chẳng thối lui, có thể nhận lãnh y phục, thực phẩm, chỗ ở, thuốc men và
những vật dụng khác của thí chủ.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát này
khéo trụ Bát nhã Ba la mật nên có thể đền trả hoàn tất ơn thí chủ, cũng đạt đến
Nhất thiết trí trí.
Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ
tát muốn thọ hưởng vật dụng tín thí của các hữu tình và quốc vương, đại thần
một cách không uổng phí, muốn chỉ dẫn cho hữu tình con đường chơn tịnh, muốn
làm ánh sáng lớn chiếu soi cho hữu tình, muốn giải thoát cho hữu tình khỏi lao
ngục sanh tử, muốn cho hữu tình pháp nhãn thanh tịnh thì nên thường an trụ ý
nghĩ tương ưng Bát nhã sâu xa.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát
thường trụ ý nghĩ tương ưng Bát nhã Ba la mật , đại Bồ tát này đối với ý nghĩ
này thường luôn ghi nhớ chẳng để cho các ý nghĩ khác tạm thời phát sanh, thì có
nói ra điều gì cũng tương ưng với lý thú Bát nhã Ba la mật .
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát này
ngày đêm siêng năng tinh tấn, thường trụ nơi ý nghĩ tương ưng với Bát nhã Ba la
mật không lúc nào tạm bỏ. Ví như có người trước kia chưa từng có ngọc báu
ma-ni, sau đó có được, vui mừng, sung sướng; vì duyên cớ gì bị mất nên sanh tâm
rất buồn khổ, thường than thở, tiếc nuối không nguôi, suy nghĩ phải làm phương
kế nào để tìm được ngọc ấy lại. Do đó nên ý nghĩ người kia luôn hướng đến ngọc
quý. Các đại Bồ tát cũng như vậy, thường an trụ ý nghĩ tương ưng với Bát nhã
sâu xa. Nếu chẳng an trụ ý nghĩ tương ưng với Bát nhã sâu xa thì bị quên mất ý
nghĩ tương ưng với Nhất thiết trí trí.
Vậy nên này Thiện Hiện! Các đại Bồ
tát đối với ý nghĩ tương ưng Bát nhã sâu xa nên thường an trụ không được tạm
lìa. (Q.551, TBBN)
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp và
các ý nghĩ đều lìa tự tánh Không, vô sở hữu thì đại Bồ tát làm thế nào chẳng
lìa ý nghĩ tương ưng Bát nhã Ba la mật và Nhất thiết trí trí?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Nếu đại Bồ tát biết tất cả pháp và
các ý nghĩ đều lìa tự tánh Không, vô sở hữu thì đại Bồ tát này chẳng lìa ý nghĩ tương ưng Bát nhã Ba la
mật và Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì Bát nhã sâu xa cùng Nhất thiết trí
trí và các ý nghĩ đều lìa tự tánh Không, vô sở hữu, trong đó hoàn toàn không có
tăng giảm. Ai thông đạt đúng như vậy gọi là không xa lìa.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu Bát nhã sâu xa
tự tánh thường Không, không tăng, không giảm, thì chúng đại Bồ tát làm sao tu
chứng Bát nhã Ba la mật để đắc được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Các đại Bồ tát tu chứng Bát nhã Ba
la mật , đối với tất cả pháp chẳng tăng chẳng giảm, đối với đại Bồ tát cũng
chẳng tăng chẳng giảm. Như Bát nhã sâu xa tự tánh Không, nên không tăng, không
giảm. Chư Phật Bồ tát cũng lại như vậy. Nếu đại Bồ tát thường biết được như vậy
thì gọi đó là tu chứng Bát nhã Ba la mật . Do nhân duyên này thường mau chứng
được sự mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát nào
khi nghe thuyết Bát nhã sâu xa không tăng giảm, như vậy mà không kinh, không
sợ, không mê muội, không thối lui và cũng không do dự, thì Bồ tát này là người
thực hành Bát nhã sâu xa, đã đạt đến cứu cánh, an trụ địa vị Bồ tát Bất thối
chuyển, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, có thể độ các hữu tình
cùng đời vị lai. (Hết Q.551, TBBN)
Quyển thứ
552
Bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Chính nơi Bát nhã Ba
la mật mà có thể thực hành Bát nhã Ba la mật phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Xa lìa Bát nhã Ba la
mật có pháp khả đắc có thể thực hành Bát nhã Ba la mật phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Chính nơi Không của Bát
nhã mà có thể thực hành Bát nhã Ba la mật phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Xa lìa Không của Bát
nhã có pháp khả đắc có thể thực hành Bát nhã Ba la mật không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Chính nơi Không mà
có thể thực hành Bát nhã Ba la mật phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Xa lìa Không, có
pháp khả đắc có thể thực hành Bát nhã Ba la mật phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Chính nơi Không mà
có thể thực hành Không, phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Xa lìa Không, có
pháp khả đắc có thể thực hành Không, phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Chính nơi Bát nhã Ba
la mật mà có thể thực hành Không, phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Xa lìa Bát nhã Ba la
mật có pháp khả đắc có thể thực hành Không, phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Chính nơi sắc mà có
thể thực hành Bát nhã Ba la mật phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Xa lìa sắc có pháp
khả đắc có thể thực hành Bát nhã Ba la mật phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Chính nơi thọ,
tưởng, hành, thức mà có thể thực hành Bát nhã Ba la mật phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Xa lìa thọ, tưởng,
hành, thức có pháp khả đắc có thể thực hành Bát nhã phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Chính nơi Không của
sắc mà có thể thực hành Bát nhã Ba la mật phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Xa lìa Không của
sắc, có pháp khả đắc có thể thực hành Bát nhã không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Chính nơi Không của
thọ, tưởng, hành, thức mà có thể thực hành Bát nhã không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Xa lìa Không của
thọ, tuởng, hành, thức có pháp khả đắc có thể thực hành Bát nhã không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Chính nơi sắc có thể
thực hành Không, phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Xa lìa sắc, có pháp
khả đắc có thể thực hành Không, phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Chính nơi thọ, tưởng,
hành, thức có thể thực hành Không, phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Xa lìa thọ, tưởng,
hành, thức có pháp khả đắc có thể thực hành Không, phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi Không
của sắc mà có thể thực hành Không, phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Xa lìa Không của
sắc, có pháp khả đắc có thể thực hành Không, phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Chính nơi Không của
thọ, tưởng, hành, thức mà có thể thực hành Không, phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Xa lìa Không của
thọ, tưởng, hành, thức, có pháp khả đắc có thể thực hành Không, phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Ngay nơi tất cả pháp
mà có thể thực hành Bát nhã Ba la mật phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa tất cả
pháp, có pháp khả đắc có thể thực hành Bát nhã Ba la mật không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Chính nơi Không của
tất cả pháp có thể thực hành Bát nhã Ba la mật không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Xa lìa Không của tất
cả pháp, có pháp khả đắc có thể thực hành Bát nhã không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Chính nơi tất cả
pháp mà có thể thực hành Không, phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Xa lìa tất cả pháp,
có pháp khả đắc có thể thực hành Không, phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Chính nơi Không của
tất cả pháp có thể thực hành Không, phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Xa lìa Không của tất
cả pháp, có pháp khả đắc có thể thực hành Không, phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu vậy, các đại Bồ
tát dùng những pháp nào để thực hành Bát nhã và thực hành Không?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ý ngươi thế nào? Ngươi thấy có
pháp thực hành Bát nhã và thực hành Không, không?
Thiện Hiện bạch:
- Thưa không, bạch Thế Tôn!
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ý ngươi thế nào? Ngươi thấy Bát
nhã và thấy Không là chỗ sở hành của đại Bồ tát phải không?
Thiện Hiện bạch:
- Thưa không, bạch Thế Tôn!
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ý ngươi thế nào? Pháp mà ngươi
không thấy, pháp này có thể đắc được không?
Thiện Hiện bạch:
- Thưa không, bạch Thế Tôn!
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ý ngươi thế nào? Pháp chẳng thể
đắc đó có sanh diệt phải không?
Thiện Hiện bạch:
- Thưa không, bạch Thế Tôn!
Phật bảo Thiện Hiện:
- Thật tướng của pháp mà ngươi chẳng thấy, chẳng đắc, đó là Vô sanh pháp
nhẫn của Bồ tát. Đại Bồ tát thành tựu Vô sanh pháp nhẫn như vậy thì được thọ ký
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát này
đối với mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại
từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và mười tám pháp Phật bất cộng cùng vô lượng, vô
biên công đức thù thắng, gọi là người
luôn tinh tấn, như thật tu hành. Nếu thường tinh tấn tu hành như vậy mà
chẳng đắc Vô thượng Bồ đề trí, Nhất thiết tướng trí, đại vi diệu trí, Nhất
thiết trí trí… thì quả thật không có lẽ đó. (Q.
552, TBBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát nhờ
vào pháp tánh vô sanh của tất cả
pháp mà được Phật thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát nhờ
vào pháp tánh hữu sanh của tất cả
pháp mà được Phật thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát nhờ
vào pháp tánh hữu sanh vô sanh của tất cả pháp mà được Phật thọ ký quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát nhờ
vào pháp tánh phi hữu sanh, phi vô sanh của tất cả pháp mà được Phật thọ ký quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề phải không?
- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!
Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu vậy thì làm sao
các đại Bồ tát có thể được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của Phật?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ý ngươi thế nào? Ngươi thấy có
pháp để thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của Phật không?
Thiện Hiện bạch:
- Thưa không, bạch Thế Tôn! Con không thấy pháp nào có thể được thọ ký
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật, cũng không thấy pháp đối với
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật có thể chứng, thời chứng, nơi
chứng và do đây chứng, hoặc pháp sở chứng đều không thấy. Vì sao? Vì tất cả
pháp đều vô sở đắc; ngay trong tất cả pháp vô sở đắc thì người chứng, pháp
chứng, thời chứng, xứ chứng và do đây chứng đều bất khả đắc.
Phật bảo Thiện Hiện:
- Đúng như vậy! Đúng như lời ngươi
nói!
Thiện Hiện phải biết! Nếu đại Bồ tát
khi đối tất cả pháp vô sở đắc, thì không nghĩ thế này: Ta đối Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề sẽ năng chứng được. Ta dùng pháp ấy với thời như vậy, chốn như vậy
chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. (Q.552,
TBBN)
Thích nghĩa:
(1). Đoạn Kinh
in đậm nét trên khó hiểu, nguyên văn chữ Hán là:
“佛Phật 告cáo 善thiện 現hiện.
於ư 意ý 云vân 何hà. 有hữu 情tình 長trường 夜dạ 有hữu 我ngã. 我ngã 所sở. 心tâm 執chấp 我ngã. 我ngã 所sở 不phủ.
善thiện 現hiện 答đáp 言ngôn.
如như 是thị. 世Thế 尊Tôn. 如như 是thị. 善Thiện 逝Thệ. 有hữu 情tình 長trường 夜dạ 有hữu 我ngã. 我ngã 所sở. 心tâm 執chấp 著trước 我ngã. 我ngã 所sở.
佛Phật 告cáo 善thiện 現hiện.
於ư 意ý 云vân 何hà. 有hữu 情tình 所sở 執chấp 我ngã 及cập 我ngã 所sở 空không. 遠viễn 離ly 不phủ.
善thiện 現hiện 答đáp 言ngôn.
如như 是thị. 世Thế 尊Tôn. 如như 是thị. 善Thiện 逝Thệ. 有hữu 情tình 所sở 執chấp 我ngã 及cập 我ngã 所sở 皆giai 空không. 遠viễn 離ly.
佛Phật 告cáo 善thiện 現hiện.
於ư 意ý 云vân 何hà. 豈khởi 不bất 有hữu 情tình 由do 我ngã. 我ngã 所sở 執chấp 流lưu 轉chuyển 生sanh 死tử.
善thiện 現hiện 答đáp 言ngôn.
如như 是thị. 世Thế 尊Tôn. 如như 是thị. 善Thiện 逝Thệ. 諸chư 有hữu 情tình 類loại 由do 我ngã. 我ngã 所sở 執chấp 流lưu 轉chuyển 生sanh 死tử”.
Tạm dịch:
Phật bảo
Thiện Hiện:
- Ý ông thế
nào? Hữu tình từ lâu (cho là) có ngã
- ngã sở, tâm mới chấp ngã - ngã sở phải không?
Thiện Hiện
đáp:
- Như vậy,
Thế Tôn! Như vậy, Thiện Thệ! Hữu tình từ lâu (cho là) có ngã - ngã sở, tâm mới chấp ngã - ngã sở.
Phật bảo
Thiện Hiện:
- Sở chấp
hữu tình ngã cùng ngã sở đều Không, đều viễn ly (xa lìa) chăng?
Thiện Hiện
đáp:
- Như vậy,
Thế Tôn! Như vậy, Thiện Thệ! Sở chấp hữu tình ngã cùng ngã sở đều Không, đều
Viễn ly.
Phật bảo
Thiện Hiện:
- Ý ông thế
nào? Phải chăng hữu tình do chấp ngã - ngã sở nên lưu chuyển trong sanh tử
chăng?
Thiện Hiện
đáp:
- Như vậy,
Thế Tôn! Như vậy, Thiện Thệ! Tất cả các loại hữu tình do chấp ngã - ngã sở nên
lưu chuyển trong sanh tử.
Kinh Phật
Mẫu Bát nhã, do Thí Hộ dịch, diễn tả đoạn này đơn giản như sau:
“Phật bảo Tu
bồ đề:
- Ý ông thế
nào? Tất cả chúng sinh, trong dòng sinh tử, có chấp trước Ngã, Ngã sở không?
Tu bồ đề
nói:
- Đúng vậy,
Thế Tôn! Chúng sinh, trong dòng sinh tử, chấp trước Ngã, Ngã sở.
Phật bảo Tu
bồ đề:
- Ý ông thế
nào? Ngã, Ngã sở có phải Không không?
Tu bồ đề
nói:
- Đúng vậy,
Thế Tôn. Ngã, Ngã sở là Không!
Phật bảo Tu
bồ đề:
- Ý ông thế
nào? Có phải vì chúng sinh chấp trước Ngã, Ngã sở nên luân chuyển sinh tử phải
không?
Tu bồ đề nói:
- Đúng vậy,
Thế Tôn. Vì chúng sinh chấp trước Ngã, Ngã sở nên bị luân chuyển trong sinh tử!”
Lược giải:
1. Thiện tri
thức:
Kinh nói muốn chứng quả vị Giác ngộ thì phải thân cận,
cung kính, cúng dường, tôn trọng ngợi khen thiện hữu tri thức tốt nhất. Nhưng
ai là những thiện hữu tốt nhất của Bồ tát? Đó là Như Lai, đó là đại Bồ tát kể
cả Thanh văn hay Duyên giác và Thiện hữu tri thức
khác có khả năng tuyên thuyết khai thị, phân biệt rõ ràng các pháp tương ưng
sáu pháp Ba la mật khiến cho dễ hiểu,
nên biết, đó là thiện hữu tốt nhất của đại Bồ tát.
Ba mươi bảy pháp trợ đạo cũng là thiện hữu tốt nhất
của đại Bồ tát; bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát, tám
thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng là thiện hữu tốt nhất của đại Bồ
tát; Tứ đế cũng là thiện hữu tốt nhất của đại Bồ tát; pháp nội không, không
không cho đến pháp vô tánh tự tánh không cũng là thiện hữu tốt nhất của đại Bồ
tát; chơn như, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh,
ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới
cũng là thiện hữu tốt nhất của đại Bồ tát; pháp môn giải thoát không, vô tướng,
vô nguyện cũng là thiện hữu tốt nhất của đại Bồ tát; thập địa Bồ tát cũng là
thiện hữu tốt nhất của đại Bồ tát; năm loại mắt, sáu phép thần thông cũng là
thiện hữu tốt nhất của đại Bồ tát; pháp môn Tam ma địa, pháp môn Đà la ni cũng
là thiện hữu tốt nhất của đại Bồ tát; Như Lai mười lực, bốn điều không sợ, bốn
sự hiểu biết thông suốt, đại từ đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất
cộng cũng là thiện hữu tốt nhất của đại Bồ tát; Nhất thiết trí, Đạo tướng trí,
Nhất thiết tướng trí cũng là thiện hữu tốt nhất của đại Bồ tát… cho đến tất cả
Bồ tát hạnh, quả vị Giác ngộ tối cao của chư Phật cũng là thiện hữu tốt nhất
của đại Bồ tát.
Phật bảo Tu Bồ Đề: “Này Thiện Hiện! Nên biết, bố thí
đối với các chúng đại Bồ tát là thầy, là hướng đạo, là ánh sáng, là đuốc, là
đèn, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là hộ, là thất, là nhà, là bờ,
là bến, là về, là đến, là cha, là mẹ; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát
nhã cũng đối với chúng đại Bồ tát là thầy, là hướng đạo, là ánh sáng, là đuốc,
là đèn, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là hộ, là thất, là nhà, là
bờ, là bến, là về, là đến, là cha, là mẹ.
Này Thiện Hiện! Nên biết, ba mươi bảy pháp trợ đạo,
mười tám pháp bất cộng, tứ vô sở úy, đại từ, đại bi v.v… đối với các chúng đại
Bồ tát là thầy, là hướng đạo, là ánh sáng, là đuốc, là đèn, là hiểu, là biết,
là trí, là tuệ, là cứu, là hộ, là thất, là nhà, là bờ, là bến, là về, là đến,
là cha, là mẹ”.
Nói tóm lại, tất
cả Phật pháp đối với chúng đại Bồ tát là thầy, là hướng đạo, là ánh sáng,
là đuốc, là đèn, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là hộ, là nhà, là
thất… cho đến, là cha, là mẹ. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác của quá khứ,
vị lai, hiện tại đều lấy bố thí Ba la mật , nói đủ cho đến cảnh giới bất tư
nghì làm thầy, làm hướng đạo, làm ánh sáng, làm đuốc, là đèn, làm hiểu, làm
biết... làm cha, làm mẹ. Vì sao? Vì chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều từ
bố thí Ba la mật … nói đủ cho đến cảnh giới bất tư nghì mà xuất sanh. Vì vậy,
này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát ý thích muốn chứng quả vị Giác ngộ tối cao,
thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật thì nên học lục Ba la mật , nên học
tất cả pháp Phật hay nói khác là nên học Bát nhã Ba la mật . Vì sao? Vì ở trong
Kinh Bát nhã sâu xa nầy, rộng nói tất cả pháp tướng nên học của chúng đại Bồ
tát. Tất cả chúng đại Bồ tát đối với pháp nầy đều phải siêng năng tin cần tu
học”.
2. Bát nhã lấy vô trước làm tướng?
Bát nhã Ba la mật lấy gì làm tướng mà Bồ tát cần phải
học? Chúng ta thấy câu trả lời trước đây là Bát nhã lấy tam muội Không, Vô
tướng, Vô nguyện làm tướng. Bát nhã cũng lấy tánh Không làm tướng, vì đó là
Chánh pháp của chư Phật. Ở đây câu trả lời là Bát nhã sâu xa lấy vô trước làm tướng, không những Bát nhã
sâu xa lấy vô trước làm tướng mà tất cả các pháp đều lấy vô trước làm tướng. Vì tất cả các
pháp đều như Bát nhã là Không, là Ly (viễn ly). Thế nên, Bát nhã sâu xa do
tướng vô trước, nên Không nên Ly. Tất cả các pháp khác cũng do tướng vô trước
nên Không, nên Ly.
Nếu tất cả pháp đều Không đều xa lia thì không có
nhiễm có tịnh, hay nói khác vì có ngã và ngã sở nên bám chặt danh sắc nên sanh
chấp trước. Tâm còn phân chia năng sở, chủ khách là còn chấp. Đã chấp là có giữ
có bỏ nghĩa thì vẫn bị trói buộc bởi pháp phân hai. Nếu còn hệ thuộc pháp lưỡng
nguyên, thì “đâu còn Không đâu còn xa lìa” nữa. Nếu không còn Không còn xa lìa
nữa thì phải bị lưu chuyển trong sanh tử. Như vậy, lưu chuyển chẳng qua là do
phân biệt chấp trước mà ra. Do phân biệt chấp trước nhiễm tịnh mà có nhiễm có
tịnh, không thật có pháp nhiễm tịnh.
Để tránh phân biệt chấp trước thì không nên hành nơi
sắc; không hành nơi thọ tưởng hành thức; không hành mười hai xứ, mười tám giới;
không hành nơi tứ thiền, bát định, mười tám pháp bất cộng v.v… Các đại Bồ tát
nếu tu hành như thế thì cũng chẳng hành ở Nhất thiết
trí, cũng chẳng hành ở Đạo tướng
trí, Nhất thiết chủng trí. Tánh Không không hành có, cũng không hành không,
cũng không hành chẳng có, cũng không hành chẳng không. Tất cả pháp đều vô sở hữu, bất khả đắc nên nói là
không. Đó chính là cái không tuyệt đối của Bát nhã, trong đó người chứng, pháp
chứng, xứ chứng, thời chứng... tất cả đều bất khả đắc, vô sở hữu! Nếu hành Bát
nhã sâu xa như vậy là có thể xa lìa được chấp trước.
Nên biết, đại Bồ tát ấy do tinh cần tăng tiến nầy mà
đưa được các hữu tình
đến bờ phước điền bên kia. Đại Bồ tát ấy tu hành sâu sắc Bát nhã Ba la mật thấy
các hữu tình không được nhiều phúc lợi nên
khởi đại từ, thấy các hữu tình khổ đau nên khởi đại bi, thấy các hữu tình được
hạnh phúc nên khởi đại hỷ, thấy các hữu
tình không có tánh tướng nên khởi đại xả.
Đại Bồ tát ấy, tuy đối với hữu tình, bình đẳng phát
khởi đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, nhưng đối với tất cả không chấp trước, tu
hành sâu sắc Bát nhã nên được hào quang lớn. Đó là hào quang bố thí, hào quang
tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã. Đại Bồ tát ấy tuy
chưa chứng đắc Nhất thiết trí, nhưng đối với quả vị Giác ngộ tối cao được Bất
thối chuyển, nên có thể đưa hữu tình đến được bờ bên kia, có thể thọ nhận của
tín thí v.v…
Đại Bồ tát ấy an trụ tác ý tương ưng Bát nhã nên có
khả năng báo ân thí chủ một cách rốt ráo, cũng có khả năng gần gũi Nhất thiết
trí. Đại Bồ tát không muốn lừa dối để nhận đồ cúng dường của quốc vương, đại
thần, trưởng giả, cư sĩ… mà trái lại đại Bồ tát chỉ muốn chỉ cho hữu tình con
đường chơn thiện, chỉ muốn vì hữu tình làm ánh sáng thanh tịnh, chỉ muốn cứu
thoát hữu tình khỏi lao ngục ba cõi, chỉ muốn ban cho hữu tình pháp nhãn thanh
tịnh. Nên đại Bồ tát ấy ngày đêm tinh cần an trụ tác ý tương ưng Bát nhã không
ngừng nghỉ. Giống như người, trước chưa từng có bảo châu Mạt ni, khi gặp được,
quá đỗi vui mừng, ngắm xem không chán; bỗng nhiên bị mất, lòng rất đau khổ,
luôn luôn than tiếc. Người ấy lúc nào cũng nghĩ đến viên bảo châu này. Nên
biết, các đại Bồ tát nầy cũng giống như thế, thường tinh cần an trụ tác ý tương
ưng Bát nhã Ba la mật ; nếu lìa tác ý tương ưng Bát nhã Ba la mật tức là đánh
mất tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí.
3. Tánh
Không Bát nhã:
Đây là đối thoại lý thú giữa Phật và cụ thọ Thiện Hiện
về Tánh Không mà phẩm này diễn đạt thay vì giải thích thẳng thế nào là Tánh
Không Bát nhã và tất cả pháp. Cuộc đối thoại tự nó làm nổi bật Tánh Không như
thế nào? Hãy lắng nghe:
- “Bạch Thế
Tôn! Chính nơi Không của Bát nhã mà có thể thực hành Bát nhã Ba la mật không?
- Không
phải, Thiện Hiện!
- Bạch Thế
Tôn! Xa lìa Không của Bát nhã có pháp khả đắc có thể thực hành Bát nhã Ba la
mật không?
- Không
phải, Thiện Hiện!
- Bạch Thế
Tôn! Chính nơi Không mà có thể thực hành Bát nhã Ba la mật không?
- Không
phải, Thiện Hiện!
- Bạch Thế
Tôn! Xa lìa Không, có pháp khả đắc có thể thực hành Bát nhã Ba la mật không?
- Không
phải, Thiện Hiện!
- Bạch Thế
Tôn! Chính nơi Không mà có thể thực hành Không không?
- Không
phải, Thiện Hiện!
- Bạch Thế
Tôn! Xa lìa Không, có pháp khả đắc có thể thực hành Không, không?
- Không
phải, Thiện Hiện!
- Bạch Thế
Tôn! Chính nơi Bát nhã Ba la mật mà có thể thực hành Không, không?
- Không
phải, Thiện Hiện!
- Bạch Thế
Tôn! Xa lìa Bát nhã Ba la mật có pháp khả đắc có thể thực hành Không không?
- Không
phải, Thiện Hiện!”
Tánh Không
tự nó không thể thực hành Bát nhã và chính Bát nhã cũng không thể thực hành
Không. Lìa Không cũng không có pháp khả đắc có thể thực hành Bát nhã, lìa Bát
nhã cũng không thể có pháp khả đắc có thể thực hành Không. Bát nhã cái gì cũng nói là không. Bát nhã
không đem lại kết quả trực tiếp nào hay thành tựu bất cứ thứ gì. Bát nhã chỉ
hoạt dụng qua phương tiện thiện xảo.
- “Bạch Thế
Tôn! Chính nơi Không của tất cả pháp có thể thực hành Bát nhã không?
- Không
phải, Thiện Hiện!
- Bạch Thế
Tôn! Lìa Không của tất cả pháp, có pháp khả đắc có thể thực hành Bát nhã không?
- Không
phải, Thiện Hiện!
- Bạch Thế
Tôn! Chính nơi tất cả pháp mà có thể thực hành Không, không?
- Không
phải, Thiện Hiện!
- Bạch Thế
Tôn! Lìa tất cả pháp, có pháp khả đắc có thể thực hành Không, không?
- Không
phải, Thiện Hiện!
- Bạch Thế
Tôn! Chính nơi Không của tất cả pháp có thể thực hành Không, không?
- Không
phải, Thiện Hiện!
- Bạch Thế
Tôn! Lìa Không của tất cả pháp, có pháp khả đắc có thể thực hành Không, không?
- Không
phải, Thiện Hiện!”
Tất cả pháp Không chẳng thể thực hành Bát nhã. Lìa
Không cũng chẳng có pháp thực hành Bát nhã. Chính tất cả pháp cũng không thể
hành Không. Lìa tất cả pháp cũng chẳng có pháp hành Không. Chính tất cả pháp
Không cũng chẳng thể hành Không. Lìa Không cũng chẳng có pháp có thể hành
Không. Rốt ráo, không thấy có pháp hành Bát
nhã và Không. Không thấy Bát nhã và Không là sở hành của đại Bồ tát. Bát nhã và
pháp Không này cũng chẳng thể đắc được.
Phật bảo Thiện Hiện:
- “Thật tướng của pháp mà ngươi chẳng thấy,
chẳng đắc, đó là Vô sanh pháp nhẫn của Bồ tát. Đại Bồ tát thành tựu Vô sanh
pháp nhẫn như vậy thì được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.
Giữa Không và Bát nhã cùng tất cả pháp tuy không có
một liên hệ ách yếu nào. Tuy nhiên, rời Không và tất cả pháp mầu Phật đạo thì
không thể đắc Bát nhã và cũng không thể đạt Nhất thiết trí trí. Chỉ do vô sanh
pháp nhẫn và thực hành phương tiện thiện xảo mà có thể được thọ ký Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề.
---o0o---