Thứ Ba, 15 tháng 6, 2021

Hội thứ II - 65. Phẩm "Vô Tận"

 

PHẨM “VÔ TẬN”

 

Phần sau quyển 458, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương phẩm cùng tên là “Vô Tận”, phần sau Q.347

cho đến hết Q.348, Hội thứ I, ĐBN)

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện nghĩ như vầy: “Bát nhã Ba la mật này rất là thẳm sâu. Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng rất thẳm sâu, ta sẽ hỏi Phật về hai nghĩa thẳm sâu này”.

Sau khi suy nghĩ xong, Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu chính là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của Phật. Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của Phật chính là Bát Nhã thẳm sâu. Như vậy, Bát nhã Ba la mật và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của Phật đều rất thẳm sâu vô cùng tận. Bạch Thế Tôn! Vì sao nói hai pháp này là vô tận?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Bát Nhã thẳm sâu và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như hư không vô cùng tận, cho nên nói là vô tận.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát làm sao lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát(1)?

Phật dạy:

- Các đại Bồ tát quán sắc là vô tận nên lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát, quán thọ, tưởng, hành, thức là vô tận nên lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát; quán mười hai xứ cho đến mười tám giới đều vô tận nên lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát; quán nhãn xúc cho đến ý xúc đều vô tận nên lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát; quán các cảm thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các cảm thọ do ý xúc làm duyên sanh ra đều vô tận nên lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát; quán địa giới cho đến thức giới đều vô tận nên lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát; quán nhân duyên cho đến tăng thượng duyên đều vô tận nên lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát; quán vô minh cho đến lão tử đều vô tận nên lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát; quán bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật đều vô tận nên Bát nhã Ba la mật để dẫn phát; quán nội không cho đến vô tính tự tính không đều vô tận nên lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát; quán chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì đều vô tận nên lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát; quán tất cả pháp Phật đều vô tận nên lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát quán sắc vô tận như hư không nên lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát; quán thọ, tưởng, hành, thức vô tận như hư không nên lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát; như vậy cho đến quán Nhất thiết trí trí vô tận như hư không nên lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát.

Lại nữa Thiện Hiện! Các đại Bồ tát quán vô minh duyên hành vô tận như hư không nên lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát, quán hành duyên thức vô tận như hư không nên lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát; quán thức duyên danh sắc vô tận như hư không nên lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát; quán danh sắc duyên lục xứ vô tận như hư không nên lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát; quán lục xứ duyên xúc vô tận như hư không nên lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát; quán xúc duyên thọ vô tận như hư không nên lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát; quán thọ duyên ái vô tận như hư không nên lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát; quán ái duyên thủ vô tận như hư không nên lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát; quán thủ duyên hữu vô tận như hư không nên lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát; quán hữu duyên sanh vô tận như hư không nên lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát; quán sanh duyên lão tử, lo buồn, thở than, khổ não đều vô tận như hư không nên lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát.

Thiện Hiện! Các đại Bồ tát nào quán sát mười hai duyên khởi như vậy, nếu lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát, thì xa lìa được hai bên (nhị biên), các đại Bồ tát khác sẽ không thể có được các diệu quán như thế.

Thiện Hiện! Các đại Bồ tát ngồi tòa kim cương dưới cội Bồ đề quán sát như thật về mười hai duyên khởi, ví như hư không vô tận, liền có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí.

Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào dùng hạnh vô tận như hư không nương Bát nhã Ba la mật để dẫn phát, quán sát như thật về mười hai duyên khởi thì không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác và mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện! Hữu tình nào trụ Bồ Tát thừa, nếu đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thối chuyển, đều là do chẳng tác ý khéo léo lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát. Do người ấy chẳng hiểu vì sao đại Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật năng đem hành trụ vô tận như hư không, nương Bát nhã Ba la mật để dẫn phát như thật quán sát mười hai duyên khởi.

Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ Bồ Tát thừa, nếu đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà có thối chuyển đều là do xa lìa phương tiện khéo léo lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát. Nếu đại Bồ tát năng đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề được bất thối chuyển, là do lấy phương tiện khéo léo này. Đại Bồ tát nhờ nương phương tiện khéo léo như thế tu hành Bát Nhã, đem hành trụ vô tận như hư không lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn phát, như thật quán sát mười hai duyên khởi, đại Bồ tát này do nhân duyên đây mau được viên mãn Bát Nhã thẳm sâu.

Thiện Hiện! Lúc quán sát các pháp duyên khởi như vậy, các đại Bồ tát chẳng thấy có pháp nào không do nhân mà sanh, chẳng thấy có pháp nào không do nhân mà diệt, chẳng thấy có pháp nào có tánh tướng thường còn không sanh, không diệt, chẳng thấy có pháp nào có ngã và hữu tình nói rộng cho đến người biết người thấy, chẳng thấy có pháp nào thường hoặc vô thường, vui hoặc khổ, có ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, vắng lặng hoặc không vắng lặng, xa lìa hoặc không xa lìa. (Q. 458, ĐBN)

Thiện Hiện! Các đại Bồ tát nên quán sát pháp duyên khởi như vậy để tu hành Bát nhã Ba la mật.

Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào quán sát như thật pháp duyên khởi để tu hành Bát Nhã thì đại Bồ tát đó sẽ không thấy sắc là thường hoặc vô thường, vui hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, vắng lặng hoặc không vắng lặng, xa lìa hoặc không xa lìa. Cũng không thấy thọ, tưởng, hành, thức, là thường hoặc vô thường, vui hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, vắng lặng hoặc không vắng lặng, xa lìa hoặc không xa lìa. Như vậy, cho đến cũng không thấy Nhất thiết trí trí là thường hoặc vô thường, vui hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, vắng lặng hoặc không vắng lặng, xa lìa hoặc không xa lìa.

Thiện Hiện! Đại Bồ tát tu hành Bát Nhã thẳm sâu như thế, khi ấy đại Bồ tát tuy hành Bát Nhã mà chẳng thấy có sở hành, cũng chẳng thấy có năng hành, cũng chẳng thấy có “cái thấy” như thế. Tuy hành tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật mà chẳng thấy có sở hành tĩnh lự cho đến bố thí Ba la mật, cũng lại chẳng thấy có năng hành tĩnh lự cho đến bố thí Ba la mật. Cũng chẳng thấy có “cái thấy” như thế.

Thiện Hiện! Các đại Bồ tát lấy vô sở đắc làm phương tiện để thực hành Bát Nhã. Đại Bồ tát nào lấy vô sở đắc làm phương tiện để tu hành Bát Nhã thì ác ma(2) rất buồn rầu, phiền não, oán hận, đau khổ như bị tên bắn vào tim. Giống như có người cha mẹ mới chết thì thân tâm đau đớn, ác ma cũng vậy. 

Lúc đó Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Chỉ có một ác ma thấy các đại Bồ tát lấy vô sở đắc làm phương tiện để tu hành Bát Nhã nên rất buồn rầu, phiền não, oán hận, đau khổ như bị tên bắn vào tim hay là tất cả ác ma ở khắp Tam thiên đại thiên thế giới cũng đều như vậy?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Tất cả ác ma khắp Tam thiên đại thiên thế giới đều như vậy, đều không thể ngồi yên ổn trên tòa của mình.

Thiện Hiện! Các đại Bồ tát thường an trụ vào việc thực hành Bát Nhã thẳm sâu. Đại Bồ tát nào có thể an trụ như vậy thì thế gian, trời, người, A tu la không thể tìm được chỗ yếu của họ, cũng không thể làm não loạn chướng ngại họ. Vì vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào muốn đạt được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì phải siêng năng an trụ việc thực hành Bát Nhã thẳm sâu.

Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào có thể an trụ việc thực hành Bát Nhã thẳm sâu vi diệu thì có thể tu viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Đại Bồ tát nào có thể tu hành chân chánh Bát Nhã thẳm sâu liền có thể tu đầy đủ viên mãn tất cả Ba la mật.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ tát có thể tu hành chân chánh Bát nhã Ba la mật liền có thể tu tập viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đại Bồ tát nào tu hành đúng đắn Bát Nhã thẳm sâu, dùng tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí mà thực hành bố thí, lại đem công đức bố thí này ban cho các hữu tình, rồi hồi hướng Nhất thiết trí trí thì đó là đại Bồ tát có thể tu hành chân chánh Bát Nhã thẳm sâu, tu hành viên mãn bố thí Ba la mật.

Đại Bồ tát nào tu hành đúng đắn Bát nhã Ba la mật, dùng tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí để thực hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, lại đem công đức của việc giữ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật ban cho các hữu tình và cùng nhau hồi hướng Nhất thiết trí trí thì đó là đại Bồ tát có thể tu hành Bát Nhã thẳm sâu, tu hành viên mãn tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật.

Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào có thể tu hành chân chánh Bát Nhã thẳm sâu liền có thể tu viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Ba la mật.

 

Thích nghĩa:

(1). Dẫn phát: Gây ra, căn nguyên, đưa đến, đem lại.

(2). Ác ma (惡魔), Phạm: Màra. Dịch âm là Ma la. Chỉ loại ác thần, ác quỉ hay phá hoại tâm chí cầu đạo, ngăn trở việc thiện và phá hoại thân mệnh của mình và người. Tức cũng gọi chung những người ác, việc ác, thần ác quấy phá người tu hành. Các Kinh điển Nam, Bắc truyền, nhất là Kinh A Hàm, miêu tả rất tường tận và sinh động các việc ác ma quấy nhiễu thân tâm của đức Phật và các đệ tử. Như Kinh Tạp A Hàm quyển 39, đức Phật dùng kệ tụng thuyết minh cảnh giới ma (Đại 2, 290 thượng): Sắc, thụ, tưởng, hành, thức, phi ngã và ngã sở; nếu biết nghĩa chân thực, không đắm những thứ đó. Tâm không đắm trước pháp, vượt thoát sắc trói buộc, biết rõ tất cả chốn, không trú cảnh giới ma. Ác ma tương ứng (Pāli: Màrasaôyutta) trong Kinh Tương Ưng Bộ Nam truyền, cũng có ghi chép tương tự, và căn cứ theo các điều được trình bày trong đó, cũng có thể khảo sát tính cách của ác ma. Có lần, Ngài La Đà hỏi đức Phật: Thế nào là ác ma?. Đức Phật trả lời: Sắc (có hình) là ma, thụ (cảm giác) là ma, tưởng (biểu tượng) là ma, hành (sức cấu tưởng của ý chí) là ma, thức (tác dụng phán đoán) là ma. Mà phàm những cái tưởng tượng, thấy, nghe v.v... đều là nguồn gốc của sự chấp trước, cho nên đều có thể được coi là ma. Đức Phật thành đạo chưa được bao lâu, đang ngồi yên lặng tư duy dưới gốc cây Bồ đề, lúc ấy ác ma Ba tuần liền đến trước mặt quấy nhiễu, nó nói với đức Phật (Đại 2, 286 hạ): Cù Đàm nếu tự biết, đạo Niết Bàn an ẩn, vui một mình là tốt, tại sao cưỡng hóa người?. Bài kệ tụng này, trong Ác ma tương ưng của Tương Ưng Bộ là: Người đã liễu ngộ đạo bất tử yên ổn, một mình ngươi thực hành là được rồi, tại sao còn giáo hóa cho người khác, độ cho người khác? Ác ma tương ứng còn chép, một ngày nọ, đức Phật vào làng khất thực không được, mang bát trở về, Ác ma thấy thế bèn nói: Lần sau nếu đi xin, Đại sư chắc chắn sẽ có ăn. Đức Phật ngâm thơ, đáp: Tuy không có ăn, nhưng ta vẫn vui, như trời Quang Âm, nhờ vui mà sống. Có người bảo đây là đức Phật đối với thực dục, biểu hiện hai mặt tâm cảnh. Bài kệ trên đây, Kinh Tạp A Hàm quyển 3 (Đại 2, 288 thượng) chép là: Dù cho chẳng được gì, ta yên vui mà sống, như trời Quang Âm kia, thường ăn bằng thú vui. Dù cho chẳng được gì, yên vui mà tự sống; thường ăn bằng niềm vui, không tùy thuộc cái thân. Ác Ma Tương Ưng lại chép, có lần ác ma nói: Người có con nhờ con mà mừng, người có bò nhờ bò mà mừng, nhân người ta có cái nhờ cậy mới được vui mừng, nếu không có cái nhờ cậy, thì làm sao được vui mừng?. Đức Phật nghe vậy liền nói: Có con vì con mà lo, có bò vì bò mà lo; vì người ta có cái nhờ cậy nên lo, nếu không có cái nhờ cậy thì không lo. Hai quan điểm đối với thân tình và của cải có cái nhờ cậy thì mừng, có cái nhờ cậy thì lo hoàn toàn trái ngược nhau kể ở trên, bao nhiêu học giả giải thích là trong tâm đức Phật đã nảy sinh hai lớp tâm cảnh. Ngoài Kinh điển A Hàm ra, trong các Kinh luận khác như Kinh Phổ Diệu quyển 6 phẩm Hàng Ma, Kinh Phật Bản Hạnh Tập quyển 25, Kinh Đại Phẩm Bát Nhã quyển 13 phẩm Ma Sự, Kinh Đại Phật Đính Thủ Lăng Nghiêm quyển 6, Kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm quyển 7 phẩm Vãng Ni Liên Hà, quyển 9 phẩm Hàng Ma; luận Đại Tì Bà Sa quyển 44, quyển 197, luận Đại Trí Độ quyển 56, quyển 58 v.v... đều có chép nhiều về sự tích danh tướng và lời nói của ác ma (hoặc ma Ba Tuần) nhiễu hại đức Phật hoặc những người tu hành, và phá hoại các thiện pháp. (xt. Ba Tuần, Ma).

 

Sơ giải:

 

Phẩm “Vô Tận” của Hội thứ II quá ngắn, tương đương với phẩm cùng tên là “Vô Tận”, phần sau Q.347 cho đến hết Q.348, Hội thứ I, ĐBN. Quý vị có thể quay lại Hội thứ I, tham cứu nếu muốn.

 

---o0o---