PHẨM “VÔ BIÊN TẾ”
Cuối quyển 420 đến đầu quyển 423,
Hội thứ II, ĐBN.
(Tương đương phẩm “Vô Sở Đắc”, cuối
Q.61 đến đầu Q.70, Hội thứ I, ĐBN)
Tóm lược:
(Tất cả pháp Phật vô biên tế nên
phải biết đại Bồ tát cũng vô biên tế)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật
rằng:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát thời
trước, thời sau, giữa, ba thời đều vô sở hữu bất khả đắc.
Bạch Thế Tôn! Sắc vô biên tế, nên
phải biết đại Bồ tát cũng vô biên tế; thọ tưởng hành thức vô biên tế, nên phải
biết Bồ tát cũng vô biên tế. Mười hai xứ, mười tám giới vô biên tế, nên phải
biết đại Bồ tát cũng vô biên tế. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ vô biên tế,
nên phải biết đại Bồ tát cũng vô biên tế; nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên
sanh ra các thọ vô biên tế, nên phải biết đại Bồ tát cũng vô biên tế.
Bạch Thế Tôn! Nội không cho đến
không tánh tự tánh, chơn như cho đến an ẩn giới vô biên tế, nên phải biết đại
Bồ tát vô biên tế; sáu Ba la mật cho đến 37 pháp trợ đạo vô biên tế, nên phải
biết đại Bồ tát cũng vô biên tế; tam giải thoát môn cho đến Phật mười lực vô
biên tế, nên phải biết đại Bồ tát cũng vô biên tế; bốn vô sở úy, bốn vô ngại
giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng vô biên tế,
nên phải biết đại Bồ tát cũng vô biên tế. Thanh văn thừa vô biên tế, nên phải
biết Bồ tát cũng vô biên tế; Độc giác thừa, Đại thừa vô biên tế, nên phải biết
đại Bồ tát cũng vô biên tế. (Tất cả pháp Phật vô biên tế nên đại Bồ tát cũng
vô biên tế)
(Nơi tất cả pháp Phật, đại Bồ tát vô
sở hữu bất khả đắc,
lìa tất cả pháp Phật, đại Bồ tát
cũng vô sở hữu bất khả đắc).
Bạch Thế Tôn! Ngay nơi(1) sắc, đại
Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc; ly sắc, đại Bồ tát vô sở hữu bất khả
đắc. Ngay nơi (ở) thọ tưởng hành thức, đại Bồ tát vô sở hữu bất khả
đắc; ly(lìa) thọ tưởng hành thức, đại Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay
nơi mười hai xứ, mười tám giới đại Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc; ly mười hai
xứ, mười tám giới, đại Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi nhãn xúc đại
Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc, ly nhãn xúc đại Bồ tát vô sở hữu bất khả
đắc. Ngay nơi nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc đại Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc, ly
nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc đại Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi nhãn xúc làm
duyên sanh ra các thọ đại Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc, ly nhãn xúc làm duyên
sanh ra các thọ đại Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi nhĩ tỷ thiệt thân ý
xúc làm duyên sanh ra các thọ đại Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc, ly nhĩ tỷ thiệt
thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ đại Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc.
Bạch Thế Tôn! Ngay nơi nội không cho
đến vô tánh tự tánh không, đại Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc; ly nội không cho
đến vô tánh tự tánh không, đại Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi pháp
giới đại Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc; ly pháp giới đại Bồ tát vô sở hữu bất
khả đắc. Ngay nơi chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới… đại Bồ
tát vô sở hữu bất khả đắc; ly chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới…
đại Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc.
Bạch Thế Tôn! Ngay nơi bố thí Ba la
mật, đại Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc; ly bố thí, đại Bồ tát vô sở hữu bất khả
đắc. Ngay nơi tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã, đại Bồ tát
vô sở hữu bất khả đắc; ly tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã, đại
Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi ba mươi bảy pháp trợ đạo, đại Bồ tát vô
sở hữu bất khả đắc; ly ba mươi bảy pháp trợ đạo đại Bồ tát vô sở hữu bất khả
đắc. Ngay nơi tam giải thoát môn, đại Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc; ly tam
giải thoát môn đại Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi Phật mười lực, đại Bồ
tát vô sở hữu bất khả đắc; ly Phật mười lực, đại Bồ tát vô sở hữu bất khả
đắc. Ngay nơi bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại
xả, mười tám pháp Phật bất cộng, đại Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc; ly bốn vô sở
úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, đại Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc. (Ngay
trong tất cả pháp Phật hay ly tất cả pháp Phật đại Bồ tát vô sở hữu bất khả
đắc).
Bạch Thế Tôn! Ngay nơi Thanh văn
thừa, Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc; ly Thanh văn thừa, Bồ tát vô sở hữu bất khả
đắc. Ngay nơi Độc giác thừa, Đại thừa Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc; ly Độc
giác thừa, Đại thừa Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc.
Bạch Thế Tôn! Con đối tất cả pháp
đây, dùng tất cả chủng, tất cả xứ, tất cả thời tìm các Bồ tát đều không thấy,
trọn chẳng khá được, làm sao khiến con đem Bát nhã Ba la mật dạy bảo trao
truyền cho các Bồ tát được!
Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát, Bồ tát chỉ
giả danh, đều không tự tánh. Như nói ngã, chúng sanh, thọ giả… rốt ráo
chẳng sanh, chỉ có giả danh đều không tự tánh. Các pháp cũng vậy rốt ráo
chẳng sanh, chỉ có giả danh đều không tự tánh. (Q. 420, ĐBN)
(Tất cả pháp rốt ráo chẳng sanh thời
chẳng gọi là tất cả pháp.
Lìa rốt ráo chẳng sanh cũng không có
Bồ tát năng hành Vô Thượng Bồ đề)
Bạch Thế Tôn! Sao là sắc rốt ráo
chẳng sanh, sao là thọ tưởng hành thức rốt ráo chẳng sanh? Bạch Thế Tôn!
Nếu rốt ráo chẳng sanh thời chẳng gọi sắc, cũng chẳng gọi thọ tưởng hành thức.
Sao là mười hai xứ, mười tám giới rốt ráo chẳng sanh? Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo
chẳng sanh thời chẳng gọi mười hai xứ, cũng chẳng gọi mười tám giới.
Bạch Thế Tôn! Sao là nội không rốt
ráo chẳng sanh, sao là ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không rốt ráo chẳng
sanh? Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo chẳng sanh thời chẳng gọi nội không, cũng chẳng
gọi ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không. Sao là pháp giới rốt ráo chẳng
sanh, sao là chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới thảy rốt ráo chẳng
sanh? Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo chẳng sanh thời chẳng gọi pháp giới, cũng chẳng
gọi chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới thảy.
Bạch Thế Tôn! Sao là sáu Ba la mật
rốt ráo chẳng sanh? Sao là ba mươi bảy pháp trợ đạo, tam giải thoát môn rốt ráo
chẳng sanh? Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo chẳng sanh thời chẳng gọi sáu Ba la mật;
cũng chẳng gọi là ba mươi bảy pháp trợ đạo cho đến tam giải thoát môn. Sao là
Phật mười lực rốt ráo chẳng sanh? Sao là bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp
Phật bất cộng rốt ráo chẳng sanh? Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo chẳng sanh thời
chẳng gọi Phật mười lực, cũng chẳng gọi bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật
bất cộng.
Bạch Thế Tôn! Sao là Thanh văn thừa
rốt ráo chẳng sanh, sao là Độc giác thừa, Đại thừa rốt ráo chẳng sanh? Bạch Thế
Tôn! Nếu rốt ráo chẳng sanh thời chẳng gọi Thanh văn thừa, cũng chẳng gọi Độc
giác thừa hay Đại thừa.
Bạch Thế Tôn! Con đâu có thể đem Bát
nhã Ba la mật rốt ráo chẳng sanh dạy bảo trao truyền cho các Bồ tát rốt ráo
chẳng sanh được. Bạch Thế Tôn! Lìa rốt ráo chẳng sanh cũng không có Bồ tát năng
hành Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.(Rốt ráo tất cả pháp Phật cũng chẳng sanh,
lìa rốt ráo chẳng sanh cũng không có Bồ tát năng hành Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề)
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát nghe thuyết
như thế tâm chẳng chìm đắm, cũng chẳng ưu hối; tâm kia chẳng kinh, chẳng e,
chẳng sợ, phải biết Bồ tát này năng hành Bát nhã Ba la mật.
Bấy giờ, Tôn giả Xá lợi Tử hỏi cụ
thọ Thiện Hiện rằng:
- Vì duyên cớ gì nói các Bồ tát
ba thời đều vô sở hữu bất khả đắc?
Xá Lợi Tử! Các hữu tình vô sở hữu
nên các Bồ tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc. Hữu tình không nên các
Bồ tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc. Hữu tình xa lìa nên các Bồ tát ba
thời vô sở hữu bất khả đắc. Hữu tình vô tự tánh nên các Bồ tát ba thời
vô sở hữu bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Sắc vô sở hữu nên
các Bồ tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc; thọ tưởng hành thức vô sở hữu nên các
Bồ tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc. Sắc không nên các Bồ tát Ma ha tát
ba thời vô sở hữu bất khả đắc; thọ tưởng hành thức không nên các Bồ tát ba thời
vô sở hữu bất khả đắc. Sắc xa lìa nên các Bồ tát ba thời vô sở hữu bất
khả đắc; thọ tưởng hành thức xa lìa nên các Bồ tát ba thời vô sở hữu bất khả
đắc. Sắc vô tự tánh nên các Bồ tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc; thọ
tưởng hành thức vô tự tánh nên các Bồ tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Mười hai xứ, mười tám
giới vô sở hữu nên các Bồ tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc; mười hai xứ, mười
tám giới vô sở hữu nên các Bồ tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc; mười hai xứ,
mười tám giới không nên các Bồ tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc; mười hai xứ,
mười tám giới xa lìa nên các Bồ tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc; mười hai xứ,
mười tám giới vô tự tánh nên các Bồ tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc. Tất cả
pháp Phật vô sở hữu nên các Bồ tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc; tất cả pháp
Phật không nên các Bồ tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc; tất cả pháp Phật xa
lìa nên các Bồ tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc; tất cả pháp Phật vô tự tánh
nên các Bồ tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc. Vì sao?
Xá Lợi Tử! Trong không như thế, thời
trước chẳng khá được, thời sau chẳng khá được, thời giữa chẳng khá được, Bồ tát
cũng chẳng khá được. Xá Lợi Tử! Hoặc không như thế, hoặc thời trước, hoặc thời
sau, hoặc thời giữa, hoặc Bồ tát, tất cả pháp như thế đều không hai không hai
phần. Xá Lợi Tử! Bởi nhân duyên đây tôi tác thuyết này: Các Bồ tát thời trước
vô sở hữu bất khả đắc, các Bồ tát thời sau vô sở hữu bất khả đắc, các Bồ tát
thời giữa vô sở hữu bất khả đắc. (Ở trong không ba thời không
thể nắm bắt được, Bồ tát cũng chẳng có gì nắm bắt được, nên nói Bồ tát ba thời
đều vô sở hữu bất khả đắc)
Tôn giả Xá lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hiện rằng:
- Vì duyên cớ gì nói sắc vô biên tế
nên phải biết Bồ tát cũng vô biên tế; thọ tưởng hành thức vô biên tế nên phải
biết Bồ tát cũng vô biên tế? Cho đến Thanh văn thừa vô biên tế
nên phải biết Bồ tát cũng vô biên tế; Độc giác thừa, Đại thừa vô biên tế nên
phải biết Bồ tát cũng vô biên tế ?
Cụ thọ Thiện Hiện đáp:
- Xá Lợi Tử! Sắc như hư không, thọ
tưởng hành thức như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Như hư không ba thời bất khả
đắc. Do giới biên bất khả đắc, nên nói là hư không. Sắc cho đến
thức cũng lại như thế, ba thời bất khả đắc. Vì sao? Vì sắc cho đến thức đều
tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Trong không thời trước bất khả đắc, thời sau,
thời giữa bất khả đắc, vì giới biên đều bất khả đắc, nên nói là
không. Xá Lợi Tử! Bởi nhân duyên đây tôi tác thuyết này: Sắc vô biên tế, nên
phải biết Bồ tát cũng vô biên tế; thọ tưởng hành thức vô biên tế, nên phải biết
Bồ tát cũng vô biên tế. Cho đến Tam thừa cũng lại như vậy.(trong Tánh không
như hư không rộng lớn, chẳng có gì có thể nắm bắt được, Không ai có thể nắm bắt
được hư không)
Tôn giả Xá lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện
Hiện rằng:
-Vì duyên cớ nào nói tức sắc, Bồ tát
vô sở hữu bất khả đắc; ly sắc, Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc. Tức thọ tưởng hành thức,
Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc; ly thọ tưởng hành thức, Bồ tát vô sở hữu bất khả
đắc. Cho đến tức Thanh văn thừa, Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc; ly Thanh văn
thừa, Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc. Tức Độc giác thừa, Đại thừa, Bồ tát vô sở
hữu bất khả đắc; ly Độc giác thừa, Đại thừa, Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc?
Cụ thọ Thiện Hiện đáp:
- Xá Lợi Tử! Sắc, tánh sắc không;
thọ tưởng hành thức, tánh thọ tưởng hành thức không. Vì sao? Trong sắc tánh
không, sắc vô sở hữu bất khả đắc, nên các Bồ tát cũng vô sở hữu bất khả đắc.
Trong thọ tưởng hành thức tánh không, thọ tưởng hành thức vô sở hữu bất khả
đắc, nên các Bồ tát cũng vô sở hữu bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Phi sắc, tánh phi sắc
không. Phi thọ tưởng hành thức, tánh phi thọ tưởng hành thức không. Vì sao?
Trong phi sắc tánh không, phi sắc vô sở hữu bất khả đắc, nên các Bồ tát cũng vô
sở hữu bất khả đắc. Trong phi thọ tưởng hành thức tánh không, phi thọ tưởng
hành thức vô sở hữu bất khả đắc, nên các Bồ tát cũng vô sở hữu bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Bởi nhân duyên đây tôi
tác thuyết này: Ngay nơi sắc, Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc; ly sắc, Bồ tát vô
sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi thọ tưởng hành thức, Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc;
ly thọ tưởng hành thức, Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc. Cho đến Tam thừa cũng lại
như vậy.
Tôn giả Xá lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện
Hiện rằng:
- Vì duyên cớ gì nói tôi đối tất
cả pháp, đem tất cả chủng, tất cả xứ, tất cả thời, tìm các Bồ tát đều không
thấy, trọn chẳng khá được, làm sao khiến tôi đem Bát nhã Ba la mật-đa dạy bảo
trao truyền cho các Bồ tát?
Cụ thọ Thiện Hiện đáp:
- Xá Lợi Tử! Sắc, tánh sắc không,
nên sắc đối sắc vô sở hữu bất khả đắc. Sắc đối thọ tưởng hành thức vô sở hữu
bất khả đắc. Thọ, tưởng, hành, thức trong sắc cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thọ,
tánh thọ không, nên thọ đối thọ vô sở hữu bất khả đắc. Thọ đối sắc, tưởng,
hành, thức vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, tưởng, hành, thức trong thọ cũng vô sở
hữu bất khả đắc. Tưởng, tánh tưởng không, nên tưởng đối tưởng vô sở hữu bất khả
đắc. Tưởng đối sắc, thọ, hành, thức vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, thọ, hành, thức
trong tưởng cũng vô sở hữu bất khả đắc. Hành và thức cũng lại như vậy v.v… Xá
Lợi Tử! Mười hai xứ, mười tám giới tánh mười hai xứ, mười tám giới không, nên
mười hai xứ, mười tám giới đối mười hai xứ, mười tám giới vô sở hữu bất khả đắc
cũng giống như vậy.
Xá Lợi Tử! Nhãn xúc, tánh nhãn xúc
không, nên nhãn xúc đối nhãn xúc vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn xúc đối nhĩ tỷ
thiệt thân ý xúc vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc trong nhãn xúc
cũng vô sở hữu bất khả đắc.
Nhĩ xúc, tánh nhĩ xúc không, nên nhĩ
xúc đối nhĩ xúc vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ xúc đối nhãn tỷ thiệt thân ý xúc vô
sở hữu bất khả đắc. Nhãn tỷ thiệt thân ý xúc trong nhĩ xúc cũng vô sở hữu bất
khả đắc. Tỷ xúc, tánh tỷ xúc không, nên tỷ xúc đối tỷ xúc vô sở hữu bất khả
đắc. Tỷ xúc đối nhãn nhĩ thiệt thân ý xúc vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn nhĩ thiệt
thân ý xúc trong tỷ xúc cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thiệt xúc, thân xúc, ý xúc…
cũng lại như vậy.
Xá Lợi Tử! Nhãn xúc làm duyên sanh
ra các thọ, tánh nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ không, nên nhãn xúc làm
duyên sanh ra các thọ đối nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ vô sở hữu bất khả
đắc. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên
sanh ra các thọ vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh
ra các thọ trong nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng vô sở hữu bất khả đắc.
Nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ, tánh nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ
không, nên nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ đối nhĩ xúc làm duyên sanh ra các
thọ vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ đối nhãn tỷ thiệt
thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn tỷ thiệt thân
ý xúc làm duyên sanh ra các thọ trong nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng vô
sở hữu bất khả đắc. Tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc… cũng lại như vậy.
Xá Lợi Tử! Sáu Ba la mật, tánh sáu Ba
la mật không, nên sáu Ba la mật đối sáu Ba la mật vô sở hữu bất khả đắc. Sáu Ba
la mật đối ba mươi bảy pháp trợ đạo, vô sở hữu bất khả đắc. Ba mươi bảy pháp
trợ đạo trong sáu Ba la mật cũng vô sở hữu bất khả đắc. Như vậy cho đến Phật
mười lực, tánh Phật mười lực không, nên Phật mười lực đối Phật mười lực vô sở
hữu bất khả đắc. Phật mười lực đối bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại
bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng vô sở hữu bất khả đắc. Bốn vô
sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng trong Phật mười lực cũng vô sở hữu
bất khả đắc. Như vậy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, tánh mười tám pháp
Phật bất cộng không, nên mười tám pháp Phật bất cộng đối mười tám pháp Phật bất
cộng vô sở hữu bất khả đắc. Mười tám pháp Phật bất cộng đối Phật mười lực cho
đến đại từ đại bi đại hỷ đại xả vô sở hữu bất khả đắc. Phật mười
lực cho đến… đại xả trong mười tám pháp Phật bất cộng cũng vô sở hữu bất khả
đắc.
Xá Lợi Tử! Nhất thiết trí, tánh Nhất
thiết trí không, nên Nhất thiết trí đối Nhất thiết trí vô sở hữu bất khả đắc.
Nhất thiết trí đối Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí vô sở hữu bất khả đắc.
Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí trong Nhất thiết trí cũng vô sở hữu bất khả
đắc. Đạo tướng trí, tánh Đạo tướng trí không, nên Đạo tướng trí đối Đạo tướng
trí vô sở hữu bất khả đắc. Đạo tướng trí đối Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng
trí vô sở hữu bất khả đắc. Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng trí trong Đạo tướng
trí cũng vô sở hữu bất khả đắc. Nhất thiết tướng trí, tánh Nhất thiết tướng trí
không, nên Nhất thiết tướng trí đối Nhất thiết tướng trí vô sở hữu bất khả đắc.
Nhất thiết tướng trí đối Nhất thiết trí, Đạo tướng trí vô sở hữu bất khả đắc.
Nhất thiết trí, Đạo tướng trí trong Nhất thiết tướng trí cũng vô sở hữu bất khả
đắc.
Xá Lợi Tử! Dự lưu, tánh Dự lưu
không, nên Dự lưu đối Dự lưu vô sở hữu bất khả đắc. Dự lưu đối Nhất lai, Bất
hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ tát, Như Lai vô sở hữu bất khả đắc. Nhất lai cho
đến Như Lai trong Dự lưu cũng vô sở hữu bất khả đắc. Như vậy, cho đến Như Lai,
tánh Như Lai không, nên Như Lai đối Như Lai vô sở hữu bất khả đắc. Như Lai đối
Dự lưu cho đến Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc. Dự lưu cho đến Bồ tát trong Như
Lai cũng vô sở hữu bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Bồ tát, tánh Bồ tát
không, nên Bồ tát đối Bồ tát vô sở hữu bất khả đắc. Bồ tát đối Bát nhã Ba la
mật dạy bảo trao truyền vô sở hữu bất khả đắc. Bát nhã Ba la mật dạy bảo trao
truyền trong Bồ tát cũng vô sở hữu bất khả đắc. Bát nhã Ba la mật, tánh Bát nhã
Ba la mật không, nên Bát nhã Ba la mật đối Bát nhã Ba la mật vô sở hữu bất khả
đắc. Bát nhã Ba la mật đối Bồ tát tát dạy bảo trao truyền vô sở hữu bất khả đắc.
Bồ tát dạy bảo trao truyền trong Bát nhã Ba la mật cũng vô sở hữu bất khả đắc.
Dạy bảo trao truyền, tánh dạy bảo dạy trao không, nên dạy bảo trao truyền đối
dạy bảo trao truyền vô sở hữu bất khả đắc. Dạy bảo trao truyền đối Bồ tát, Bát
nhã Ba la mật vô sở hữu bất khả đắc. Bồ tát, Bát nhã Ba la mật trong dạy bảo
trao truyền cũng vô sở hữu bất khả đắc. (không có pháp nào trong pháp nào có
sở hữu, nên nói tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc, không cộng với không cũng là
không)
Xá Lợi Tử! Tôi đối tất cả pháp đây
thảy, đem tất cả chủng, tất cả xứ, tất cả thời tìm Bồ tát đều vô sở hữu cũng
bất khả đắc. Vì sao? Vì tự tánh không vậy. Bởi nhân duyên đây tôi tác thuyết:
Đối với tất cả pháp
đây, đem tất cả chủng, tất cả xứ, tất cả thời tìm các Bồ tát đều không thấy đâu,
trọn chẳng khá được, làm sao khiến tôi đem Bát nhã Ba la mật-đa dạy bảo trao
truyền cho các Bồ tát!
Tôn giả Xá lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện
Hiện rằng:
- Vì duyên cớ gì nói các Bồ tát,
các Bồ tát chỉ có giả danh đều vô tự tánh?
Cụ thọ Thiện Hiện đáp:
- Xá Lợi Tử! Vì danh các Bồ tát chỉ
nhiếp khách danh.
Khi ấy, Tôn giả Xá Lợi Tử hỏi cụ thọ
Thiện Hiện rằng:
- Do duyên nào nên nói: Tên các Bồ
tát chỉ là tạm mượn mà có?
Thiện Hiện đáp:
- Xá lợi Tử! Như tên sắc chỉ là tạm
mượn mà có, tên thọ, tưởng, hành, thức cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì
sắc chẳng phải là tên, tên chẳng phải là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải
là tên, tên chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức. Trong sắc v.v... không có
tên, trong tên không có sắc v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì
sao? Vì tự tánh của sắc v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc
sắc v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.
Này Xá lợi Tử! Tên các Bồ tát cũng
như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói các Bồ tát chỉ có giả danh hoàn
toàn không có tự tánh.
Xá lợi Tử! Như tên mười hai xứ chỉ
tạm mượn mà có, tên mười tám giới chỉ tạm mượn mà có. Vì sao? Vì mười hai xứ
chẳng phải tên, tên chẳng phải mười hai xứ. Mười tám giới chẳng phải tên, tên
chẳng phải mười tám giới. Trong xứ, giới không có tên, trong tên không có xứ
giới. Chẳng hợp chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh của xứ, giới và
tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc xứ, giới hoặc tên đều vô sở hữu bất
khả đắc.
Xá Lợi Tử! Như tên sáu Ba la mật chỉ
tạm mượn mà có; tên ba mươi bảy pháp trợ đạo chỉ tạm mượn mà có. Vì sao? Vì sáu
Ba la mật chẳng phải tên, tên chẳng phải sáu Ba la mật; Ba mươi bảy pháp trợ
đạo chẳng phải tên, tên chẳng phải ba mươi bảy pháp trợ đạo. Trong sáu Ba la
mật, ba mươi bảy pháp trợ đạo không có tên, trong tên không có sáu Ba la mật,
ba mươi bảy pháp trợ đạo. Chẳng hợp chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự
tánh của sáu Ba la mật, ba mươi bảy pháp trợ đạo và tên là không. Trong tự tánh
không hoặc sáu Ba la mật, hoặc 37 pháp trợ đạo hoặc tên đều vô sở hữu bất khả
đắc vậy. Xá Lợi Tử! Tên Bồ tát cũng lại như thế, chỉ tạm mượn mà có. Do đấy nên
nói các Bồ tát chỉ có giả danh đều vô tự tánh.
Xá lợi Tử! Cho đến như tên Nhất
thiết trí chỉ là tạm mượn mà có; tên Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng
chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì Nhất thiết trí chẳng phải là tên, tên chẳng
phải là Nhất thiết trí. Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chẳng phải là tên,
tên chẳng phải là Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Trong Nhất thiết trí
v.v... không có tên, trong tên không có Nhất thiết trí v.v... Chẳng hợp, chẳng
tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh Nhất thiết trí v.v... và tên đều là
không. Trong tự tánh không, hoặc Nhất thiết trí v.v... hoặc tên đều vô sở hữu
bất khả đắc. Xá lợi Tử! Tên Bồ tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây
nên nói các Bồ tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.
Tôn giả Xá lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hiện rằng:
- Vì duyên cớ nào nói như nói ngã,
chúng sanh, thọ mạng… rốt ráo chẳng sanh, chỉ có giả danh đều vô tự tánh.
Cụ thọ Thiện Hiện đáp:
- Xá Lợi Tử! Ngã rốt ráo vô sở hữu
bất khả đắc, làm sao có sanh. Cho đến kiến giả cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả
đắc, làm sao có sanh?
Xá Lợi Tử! Sắc rốt ráo vô sở hữu bất
khả đắc, làm sao có sanh; thọ tưởng hành thức cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả
đắc, làm sao có sanh. Mười hai xứ, mười tám giới rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc,
làm sao có sanh. Nhãn xúc rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; nhĩ
tỷ thiệt thân ý xúc cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh. Nhãn
xúc làm duyên sanh ra các thọ rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh;
nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng rốt ráo vô sở hữu bất
khả đắc, làm sao có sanh. Sáu Ba la mật rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao
có sanh. Nội không rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; ngoại không
cho đến vô tánh tự tánh không cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có
sanh. 37 pháp trợ đạo rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh. Như
vậy cho đến Phật mười lực rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; bốn
vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả
đắc, làm sao có sanh. Thanh văn thừa rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có
sanh; Độc giác thừa, Đại thừa cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có
sanh. Xá Lợi Tử! Do nhân duyên đây tôi tác thuyết: Như nói ngã, chúng sanh, thọ
giả v.v… rốt ráo chẳng sanh, chỉ có giả danh đều vô tự tánh. (Tất cả pháp
rốt ráo đều vô sở hữu bất khả đắc làm sao có sanh)
Tôn giả Xá Lợi Tử lại hỏi cụ thọ
Thiện Hiện:
- Do duyên nào nên nói: Các pháp
cũng vậy, rốt ráo không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh?
Cụ thọ Thiện Hiện đáp:
- Xá Lợi Tử! Tự tánh các pháp hoàn
toàn không hòa hợp. Vì sao? Vì tự tánh pháp hòa hợp cũng không.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:
- Tự tánh pháp nào hoàn toàn không
có hòa hợp?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Xá Lợi Tử! Tự tánh của sắc hoàn
toàn không có hòa hợp; tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức cũng hoàn toàn
không có hòa hợp. Tự tánh của mười hai xứ, mười tám giới hoàn toàn không có hòa
hợp. Tự tánh của nhãn xúc hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của nhĩ, tỷ,
thiệt, thân, ý xúc cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Tự tánh của các thọ do nhãn
xúc làm duyên sanh ra hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của các thọ do nhĩ,
tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Tự
tánh của sáu Ba la mật hoàn toàn không có hòa hợp. Tự tánh của ba mươi bảy pháp
trợ đạo cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Cho đến tự tánh mười lực của Phật hoàn
toàn không có hòa hợp; tự tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông
suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng hoàn
toàn không có hòa hợp. Cho đến tự tánh của Thanh văn thừa hoàn toàn không có
hòa hợp; tự tánh của Độc giác thừa, Đại thừa hoàn toàn cũng không có hòa hợp.
Xá lợi Tử! Do nhân duyên này tôi
nói: Các pháp cũng vậy, rốt ráo không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không có
tự tánh. (Tự tánh của tất cả pháp hoàn toàn không có hòa hợp, nên rốt
ráo không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh)
Lại nữa, Xá lợi Tử! Các pháp
chẳng phải thường cũng không có chỗ đi.
Bấy giờ, Tôn giả Xá lợi Tử hỏi Thiện
Hiện:
- Pháp nào chẳng phải thường cũng
không có chỗ đi?
Thiện Hiện đáp:
- Xá lợi Tử! Sắc chẳng phải thường
cũng không có chỗ đi, thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải thường cũng không
có chỗ đi. Vì sao? Vì pháp chẳng thường tự tánh tận vậy. Do đây nên nói pháp
nào chẳng phải thường cũng không có chỗ đi.
Xá lợi Tử! Pháp hữu vi chẳng phải
thường cũng không có chỗ đi, pháp vô vi chẳng phải thường cũng không có chỗ đi.
Pháp hữu lậu chẳng phải thường cũng không có chỗ đi, pháp vô lậu chẳng phải
thường cũng không có chỗ đi, pháp thiện chẳng phải thường cũng không có chỗ đi,
pháp ác chẳng phải thường cũng không có chỗ đi v.v... Vì sao? Xá lợi Tử! Vì
pháp chẳng thường tự tánh tận vậy.
Xá lợi Tử! Do đây nên nói nếu pháp
chẳng phải thường cũng không có chỗ đi.
Lại nữa, Xá lợi Tử! Các pháp chẳng
thường cũng không hoại diệt.
Bấy giờ, Tôn giả Xá lợi Tử lại hỏi
cụ thọ Thiện Hiện:
- Pháp nào chẳng thường cũng không
hoại diệt(2)?
Thiện Hiện đáp:
- Xá lợi Tử! Sắc chẳng thường cũng
không hoại diệt, thọ, tưởng, hành, thức chẳng thường cũng không hoại diệt. Vì
sao? Vì bản tánh như vậy là như vậy.
Xá lợi Tử! Pháp hữu vi chẳng thường
cũng không hoại diệt, pháp vô vi chẳng thường cũng không hoại diệt. Pháp hữu
lậu chẳng thường cũng không hoại diệt, pháp vô lậu chẳng thường cũng không hoại
diệt. Pháp thiện chẳng thường cũng không hoại diệt, pháp ác chẳng thường cũng
không hoại diệt v.v… Vì sao? Vì bản tánh như vậy là như vậy.
Xá lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi
nói: Các pháp cũng vậy, rốt ráo không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không có
tự tánh.
Tôn giả Xá lợi Tử lại hỏi cụ thọ
Thiện Hiện:
- Do duyên nào nên nói: Những sắc
nào rốt ráo không sanh, những thọ, tưởng, hành, thức nào rốt ráo không sanh,
cho đến những Thanh văn thừa nào rốt ráo không sanh; những Độc giác thừa, Đại
thừa nào rốt ráo không sanh?
Cụ thọ Thiện Hiện đáp:
- Xá lợi Tử! Bản tánh tất cả sắc
không sanh, bản tánh tất cả thọ, tưởng, hành, thức không sanh. Vì sao? Vì tất
cả sắc cho đến thức không có tạo tác nên không có sanh khởi. Vì sao? Vì
tất cả sắc cho đến thức tác giả, khởi giả bất khả đắc.
Xá lợi Tử! Cho đến bản tánh tất cả
Thanh văn thừa không sanh; bản tánh tất cả Độc giác thừa, Đại thừa không sanh.
Vì sao? Vì tất cả Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Đại thừa không có tạo tác nên
không có sự sanh khởi. Vì sao? Vì tất cả Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Đại
thừa tác giả, khởi giả bất khả đắc.
Xá lợi Tử! Do nhân duyên này nên
tôi nói: Sắc rốt ráo không sanh, thọ, tưởng, hành, thức rốt ráo không sanh, cho
đến Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Đại thừa rốt ráo không sanh.
Tôn giả Xá lợi Tử lại hỏi cụ thọ
Thiện Hiện:
- Do duyên nào nên nói: Nếu rốt
ráo không sanh thì không gọi là sắc, cũng không gọi là thọ, tưởng, hành, thức,
cho đến nếu rốt ráo không sanh thì không gọi là Thanh văn thừa; cũng không gọi
là Độc giác thừa, Đại thừa?
Cụ thọ Thiện Hiện đáp:
- Xá lợi Tử! Sắc bản tánh không. Nếu
bản tánh là không, thì không thể thi thiết, hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc trụ,
hoặc dị. Do duyên này nên nói: Nếu rốt ráo chẳng sanh thì chẳng gọi là sắc. Vì
sao? Vì không chẳng phải sắc(3).
Xá lợi Tử! Thọ, tưởng, hành, thức
bản tánh không. Nếu bản tánh là không, thì không thể lập hoặc sanh, hoặc diệt,
hoặc trụ, hoặc dị. Do duyên này nên nói: Nếu rốt ráo chẳng sanh thì chẳng gọi
là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì không chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức.
Xá lợi Tử! Cho đến Thanh văn thừa
bản tánh không. Nếu bản tánh là không, thì không thể lập, hoặc sanh, hoặc diệt,
hoặc trụ, hoặc dị. Do duyên này nên nói: Nếu rốt ráo chẳng sanh thì chẳng gọi
là Thanh văn thừa. Vì sao? Vì không chẳng phải Thanh văn thừa. Xá lợi Tử! Bản
tánh của Độc giác thừa, Đại thừa cũng lại như vậy. Do nhân duyên này tôi nói: Nếu
rốt ráo không sanh thì không gọi là sắc, cũng không gọi là thọ, tưởng, hành,
thức, cho đến nếu rốt ráo không sanh thì không gọi là Thanh văn thừa, cũng
không gọi là Độc giác thừa, Đại thừa.
Tôn giả Xá lợi Tử lại hỏi cụ thọ
Thiện Hiện:
- Do duyên nào nên nói: Lẽ nào
tôi có thể đem Bát nhã Ba la mật rốt ráo không sanh, dạy bảo, truyền trao cho
các Bồ tát rốt ráo không sanh?
Cụ thọ Thiện Hiện đáp:
- Xá lợi Tử! Rốt ráo chẳng sanh tức
là Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật tức rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì rốt
ráo chẳng sanh và Bát nhã Ba la mật không hai, không hai phần(4). Rốt ráo không
sanh tức là Bồ tát, Bồ tát tức là rốt ráo không sanh. Vì sao? Vì rốt ráo không
sanh và Bồ tát cũng không hai, không hai phần.
Xá lợi Tử! Do nhân duyên này tôi nói
như vầy: Lẽ nào tôi có thể đem Bát nhã Ba la mật rốt ráo không sanh dạy bảo
truyền trao cho các Bồ tát rốt ráo không sanh.
Lại nữa, Xá lợi Tử! Theo lời Tôn giả
hỏi:
- Do duyên gì nên nói: Lìa rốt
ráo chẳng sanh cũng không có Bồ tát có thể hành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác?
- Xá lợi Tử! Các Bồ tát khi tu hành Bát
Nhã, không thấy lìa rốt ráo chẳng sanh mà có Bát nhã Ba la mật. Cũng không thấy
không lìa rốt ráo chẳng sanh
mà có Bồ tát. Vì sao? Vì hoặc Bát nhã Ba la mật, hoặc Bồ tát cùng với rốt ráo
chẳng sanh, không hai, không hai phần.
Xá lợi Tử! Các Bồ tát khi tu hành Bát
Nhã, không thấy lìa rốt ráo chẳng sanh có sắc, cũng không thấy lìa rốt ráo
chẳng sanh có thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì hoặc sắc, hoặc thọ, tưởng,
hành, thức cùng với rốt ráo chẳng sanh, không hai, không hai phần.
Xá lợi Tử! Các Bồ tát khi tu hành Bát
Nhã, không thấy lìa rốt ráo chẳng sanh có 12 xứ, cũng không thấy lìa rốt ráo
không sanh có 18 giới. Vì sao? Vì hoặc mười hai xứ, hoặc mười tám giới cùng
với rốt ráo chẳng sanh, không hai, không hai phần.
Xá lợi Tử! Các Bồ tát khi tu hành Bát
Nhã, không thấy lìa rốt ráo chẳng sanh có nhãn xúc, cũng không thấy lìa rốt ráo
chẳng sanh có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Vì sao? Vì hoặc nhãn xúc, hoặc nhĩ,
tỷ, thiệt, thân, ý xúc cùng với rốt ráo chẳng sanh, không hai, không hai phần.
Xá lợi Tử! Các Bồ tát khi tu hành Bát
Nhã, không thấy lìa rốt ráo chẳng sanh có các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh
ra, cũng không thấy lìa rốt ráo chẳng sanh có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì hoặc các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra,
hoặc các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cùng với rốt ráo
chẳng sanh, không hai, không hai phần.
Xá lợi Tử! Nói rộng ra, các Bồ tát
khi tu hành Bát Nhã, không thấy lìa rốt ráo chẳng sanh có sáu Ba la mật, ba
mươi bảy pháp trợ đạo cho đến Phật mười lực; cũng không thấy lìa rốt ráo chẳng
sanh có bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ,
đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì hoặc sáu Ba la mật, hoặc ba
mươi bảy pháp trợ đạo, hoặc bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất
cộng cùng với rốt ráo chẳng sanh, không hai, không hai phần.
Xá lợi Tử! Các Bồ tát khi tu hành Bát
Nhã, không thấy lìa rốt ráo chẳng sanh có Nhất thiết trí; cũng không thấy lìa
rốt ráo chẳng sanh có Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Vì sao? Vì hoặc Nhất
thiết trí; hoặc Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cùng với rốt ráo chẳng
sanh, không hai, không hai phần.
Xá lợi Tử! Các Bồ tát khi tu hành Bát
Nhã, không thấy lìa rốt ráo chẳng sanh có Thanh văn thừa, cũng không thấy lìa rốt
ráo chẳng sanh có Độc giác thừa, Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Thanh văn thừa, hoặc
Độc giác thừa, Đại thừa cùng với rốt ráo chẳng sanh, không hai, không hai phần.
Xá lợi Tử! Do nhân duyên này tôi
nói: Lìa rốt ráo chẳng sanh cũng không có Bồ tát có thể hành Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác.
Lại nữa, Xá lợi Tử! Theo lời Tôn giả
hỏi: Do duyên nào nên nói: Bồ tát nào nghe nói như vậy, tâm không hoang
mang, cũng chẳng lo lắng, hối hận, không kinh hãi, sợ sệt. Nên biết Bồ tát này
có thể hành Bát Nhã.
Xá lợi Tử! Các Bồ tát khi tu hành Bát
Nhã, không thấy các pháp thật có tác dụng, chỉ thấy các pháp như mộng, như
huyễn, như tiếng vang, như bóng sáng, như sóng nắng, như ảnh ảo, như thành tầm
hương (Càn thát bà), như việc biến hóa, tuy hiện như có,
nhưng không thật dụng. Nghe nói bản tánh
các pháp đều không, sanh tâm rất hoan hỷ, xa lìa hoang mang.
Xá lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi
nói: Bồ tát nào nghe nói như vậy, tâm không hoang mang, cũng không lo lắng, hối
hận, không kinh hãi, không sợ sệt. Nên biết Bồ tát này có thể hành Bát nhã Ba
la mật. (Q.422, ĐBN)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật
rằng(5):
- Bạch Thế Tôn! Nếu khi Bồ tát tu
hành Bát Nhã quán sát các pháp. Khi ấy, Bồ tát đối sắc không thọ,
không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Đối
thọ tưởng hành thức không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng
thi thiết là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Bồ tát này lúc bấy giờ chẳng thấy sắc
cho đến thức vậy. Đối với mười hai xứ không thọ, không lấy, không trụ, không
trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Đối với mười tám giới cũng không thọ, không
lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn!
Bồ tát này lúc bấy giờ chẳng thấy xứ cho đến giới vậy. Đối nhãn xúc không thọ,
không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Đối nhĩ tỷ
thiệt thân ý xúc không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi
thiết là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Bồ tát này bấy giờ chẳng thấy nhãn xúc cho
đến ý xúc vậy. Đối nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ không thọ, không lấy,
không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Đối nhĩ tỷ thiệt thân ý
xúc làm duyên sanh ra các thọ không thọ, không lấy, không trụ, không trước,
cũng chẳng thi thiết là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Bồ tát này chính lúc bấy giờ
chẳng thấy nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra
các thọ vậy. (Q.423, ĐBN)
Đối nội không không thọ, không lấy,
không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Đối ngoại không, nội ngoại
không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không,
tất cánh không, vô tế không, tán vô tán không, bổn tánh không, tự cộng tướng
không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không,
vô tánh tự tánh không không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng
thi thiết là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Bồ tát này lúc bấy giờ chẳng thấy nội
không cho đến vô tánh tự tánh không vậy. Đối với sáu Ba la mật, ba mươi bảy
pháp trợ đạo không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết
là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Bồ tát này chính lúc bấy giờ chẳng thấy sáu Ba la
mật cho đến ba mươi bảy pháp trợ đạo vậy. Như vậy cho đến đối Phật mười lực
không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Đối
bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp
Phật bất cộng không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi
thiết là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Bồ tát này lúc bấy giờ chẳng thấy Phật mười
lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vậy. Cho đến đối Nhất thiết trí không
thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Đối Đạo
tướng trí, Nhất thiết tướng trí không thọ, không lấy, không trụ, không trước,
cũng chẳng thi thiết là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Bồ tát này chính lúc bấy giờ
chẳng thấy Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí vậy.
Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát khi tu hành
Bát Nhã chẳng thấy sắc, cũng chẳng thấy thọ tưởng hành thức. Vì sao? Sắc
thảy tánh không, vô sanh diệt vậy. Chẳng thấy mười hai xứ, mười tám giới.
Vì sao? Xứ, giới thảy tánh không, vô sanh diệt vậy. Chẳng thấy nhãn xúc, cũng
chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Vì sao? Nhãn xúc thảy tánh không, vô sanh
diệt vậy. Chẳng thấy nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, cũng chẳng thấy nhĩ tỷ
thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Vì sao? Nhãn xúc làm duyên sanh ra
các thọ thảy tánh không, vô sanh diệt vậy. Chẳng thấy nội không, cũng chẳng
thấy ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không. Vì sao? Nội không thảy tánh
không, vô sanh diệt vậy. Chẳng thấy pháp giới; cũng chẳng thấy chơn như, thật
tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới thảy. Vì sao? Pháp giới thảy tánh không, vô
sanh diệt vậy. Chẳng thấy sáu Ba la mật, ba mươi bảy pháp trợ đạo. Vì sao? Sáu Ba
la mật, ba mươi bảy pháp trợ đạo thảy tánh không, vô sanh diệt vậy. Như vậy cho
đến chẳng thấy Phật mười lực, cũng chẳng thấy bốn vô sở úy cho đến mười tám
pháp Phật bất cộng. Vì sao? Phật mười lực thảy tánh không, vô sanh diệt vậy.
Chẳng thấy Bồ tát hạnh, cũng chẳng thấy chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì
sao? Tất cả Bồ tát hạnh thảy tánh không, vô sanh diệt vậy. Chẳng thấy Nhất
thiết trí; cũng chẳng thấy Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Vì sao? Nhất
thiết trí thảy tánh không, vô sanh diệt vậy.
Bạch Thế Tôn! Sắc chẳng sanh
chẳng diệt tức chẳng phải sắc; thọ tưởng hành thức chẳng sanh chẳng diệt
cũng phi thọ tưởng hành thức. Vì sao? Vì sắc, thọ, tưởng v.v… cùng chẳng sanh
chẳng diệt, không hai không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng diệt,
chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng nhiều, chẳng khác. Vậy nên sắc chẳng sanh
chẳng diệt tức chẳng phải sắc; thọ tưởng hành thức chẳng sanh chẳng diệt cũng
chẳng phải thọ tưởng hành thức.
Bạch Thế Tôn! Mười hai xứ, chẳng
sanh chẳng diệt tức chẳng phải mười hai xứ, mười tám giới chẳng sanh chẳng diệt
cũng chẳng phải mười tám giới. Vì sao? Vì xứ giới cùng chẳng sanh chẳng diệt,
không hai không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng diệt, chẳng phải
một, chẳng phải hai, chẳng nhiều, chẳng khác. Vậy nên mười hai xứ chẳng sanh
chẳng diệt tức chẳng phải mười hai xứ; mười tám giới chẳng sanh chẳng diệt cũng
chẳng phải mười tám giới.
Bạch Thế Tôn! Nhãn xúc chẳng sanh
chẳng diệt tức chẳng phải nhãn xúc, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc chẳng sanh chẳng
diệt cũng chẳng phải nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Vì sao? Vì nhãn xúc thảy cùng
chẳng sanh chẳng diệt, không hai không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh
chẳng diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng nhiều, chẳng khác. Vậy nên
nhãn xúc chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải nhãn xúc, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc
chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Nhãn xúc làm
duyên sanh ra các thọ chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải nhãn xúc làm duyên
sanh ra các thọ, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng sanh
chẳng diệt cũng chẳng phải nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ.
Vì sao? Vì nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ thảy cùng chẳng sanh chẳng diệt,
không hai không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng diệt, chẳng phải
một, chẳng phải hai, chẳng nhiều, chẳng khác. Vậy nên nhãn xúc làm duyên sanh ra
các thọ chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải nhãn xúc làm duyên sanh ra các
thọ, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng sanh chẳng diệt
cũng chẳng phải nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ.
Bạch Thế Tôn! Nội không chẳng sanh
chẳng diệt tức chẳng phải nội không; ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không
chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải ngoại không cho đến vô tánh tự tánh
không. Vì sao? Vì nội không thảy cùng chẳng sanh chẳng diệt, không hai không
hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai
chẳng nhiều, chẳng khác. Vậy nên nội không chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải
nội không; ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không chẳng sanh chẳng diệt cũng
chẳng phải ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không. Pháp giới chẳng sanh
chẳng diệt tức chẳng phải pháp giới; chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn
giới thảy chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải chơn như, thật tế, bất tư nghì
giới, an ẩn giới thảy. Vì sao? Vì pháp giới thảy cùng chẳng sanh chẳng diệt,
không hai không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng diệt, chẳng phải
một, chẳng phải hai, chẳng nhiều, chẳng khác. Vậy nên pháp giới chẳng sanh
chẳng diệt tức chẳng phải pháp giới; chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn
giới thảy chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải chơn như, thật tế, bất tư nghì
giới, an ẩn giới thảy.
Bạch Thế Tôn! Sáu Ba la mật chẳng
sanh chẳng diệt tức chẳng phải sáu Ba la mật; ba mươi bảy pháp trợ đạo chẳng
sanh chẳng diệt cũng chẳng phải ba mươi bảy pháp trợ đạo. Vì sao? Vì Sáu Ba la
mật cùng chẳng sanh chẳng diệt, không hai không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng
sanh chẳng diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng nhiều, chẳng khác. Vậy
nên sáu Ba la mật chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải sáu Ba la mật; mười hai
xứ, mười tám giới chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải mười hai xứ, mười tám
giới.
Bạch Thế Tôn! Tất cả Bồ tát hạnh
chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải tất cả Bồ tát hạnh. Chư Phật Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải chư Phật Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì tất cả Bồ tát hạnh thảy cùng chẳng sanh chẳng diệt,
không hai không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng diệt, chẳng phải
một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Vậy nên tất cả Bồ tát hạnh
chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải tất cả Bồ tát hạnh. Chư Phật Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải chư Phật Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề.
Bạch Thế Tôn! Nhất thiết trí chẳng
sanh chẳng diệt tức chẳng phải Nhất thiết trí; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng
trí chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.
Vì sao? Vì Nhất thiết trí thảy cùng chẳng sanh chẳng diệt, không hai không hai
phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai,
chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Vậy nên Nhất thiết trí chẳng sanh chẳng
diệt tức chẳng phải Nhất thiết trí; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chẳng
sanh chẳng diệt cũng chẳng phải Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.
Bạch Thế Tôn! Sắc chẳng hai (bất
nhị) tức chẳng phải sắc, thọ tưởng hành thức chẳng hai cũng chẳng
phải thọ tưởng hành thức. Mười hai xứ chẳng hai tức chẳng phải mười hai xứ,
mười tám giới chẳng hai cũng chẳng phải mười tám giới. Nhãn xúc chẳng hai tức
chẳng phải nhãn xúc, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc chẳng hai cũng chẳng phải nhĩ tỷ
thiệt thân ý xúc. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng hai tức chẳng phải
nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra
các thọ chẳng hai cũng chẳng phải nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các
thọ.
Nội không chẳng hai tức chẳng phải
nội không, ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không chẳng hai cũng chẳng phải
ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không. Pháp giới chẳng hai tức chẳng phải
pháp giới; chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới… chẳng hai cũng
chẳng phải chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới...
Sáu Ba la mật chẳng hai tức chẳng
phải sáu Ba la mật; ba mươi bảy pháp trợ đạo chẳng hai tức chẳng phải ba mươi
bảy pháp trợ đạo. Như vậy, Phật mười lực chẳng hai tức chẳng phải Phật mười lực
cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng hai chẳng phải mười tám pháp Phật bất
cộng. Tất cả Bồ tát hạnh chẳng hai tức chẳng phải tất cả Bồ tát hạnh. Chư Phật
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng hai tức chẳng phải chư Phật Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề. Nhất thiết trí chẳng hai tức chẳng phải Nhất thiết trí; Đạo tướng
trí, Nhất thiết tướng trí chẳng hai cũng chẳng phải Đạo tướng trí, Nhất thiết
tướng trí.
Bạch Thế Tôn! Sắc nhập vô nhị
pháp số (vào pháp số không hai)(6), thọ tưởng hành thức nhập vô nhị
pháp số. Mười hai xứ nhập vô nhị pháp số, mười tám giới nhập vô nhị
pháp số. Nhãn xúc nhập vô nhị pháp số, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc nhập vô nhị pháp
số. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ nhập vô nhị pháp số, nhĩ tỷ thiệt thân ý
xúc làm duyên sanh ra các thọ nhập vô nhị pháp số. Nội không nhập vô nhị pháp
số, ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không nhập vô nhị pháp số. Pháp giới
nhập vô nhị pháp số; chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới… nhập vô
nhị pháp số. Sáu Ba la mật nhập vô nhị pháp số, ba mươi bảy pháp trợ đạo nhập
vô nhị pháp số. Như vậy cho đến Phật mười lực nhập vô nhị pháp số. Tất cả Bồ
tát hạnh nhập vô nhị pháp số. Chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nhập vô nhị
pháp số. Nhất thiết trí nhập vô nhị pháp số; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng
trí nhập vô nhị pháp số.
Thích nghĩa:
(1). Bản dịch đã củ soát dịch là “ngay
nơi sắc”, trong khi bản dịch của của HT Thích Trí Nghiệm lại dịch “tức sắc”.
Nguyên văn bản chữ Hán là “即 tức 色 sắc”
(2). Pháp nào chẳng thường cũng
không hoại diệt: Nguyên văn bằng chữ Hán là: “何 hà 法 pháp 非 phi 常 thường . 亦 diệc 無 vô 所 sở 去 khứ ” .
(3). Nguyên văn câu chữ Hán: “者 giả . 舍 Xá 利 Lợi 子 Tử . 色 sắc 本 bổn 性 tánh 空 không 故 cố . 若 nhược 法 pháp
本 bổn 性 tánh 空 không 則 tắc
不 bất 可 khả 施 thi 設 thiết 若 nhược 生 sanh
.
若 nhược 滅 diệt
.
若 nhược 住 trụ
.
若 nhược 異 dị
.
由 do 此 thử 緣 duyên 故 cố
.
若 nhược 畢 tất
竟 cánh 不 bất 生 sanh 則 tắc 不 bất 名 danh 色 sắc .何 hà 以 dĩ 故 cố . 空 không 非 phi
色 sắc 故 cố” là: “Này Xá
lợi Tử! Sắc bản tánh không. Nếu bản tánh là không, thì không thể thi thiết,
hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc trụ, hoặc dị (đổi dời). Do duyên này nên nói: Nếu
rốt ráo chẳng sanh thì chẳng gọi là sắc. Vì sao? Vì không chẳng phải sắc”.
(4). Không hai, không hai phần, dịch
nguyên văn câu chữ Hán: “無 vô 二 nhị 無 vô 二 nhị 處 xứ 故 cố”. Các bản khác thường dịch từ “xứ” chữ Hán là “chỗ”,
có khi không dịch ra chữ Việt, giữ y nguyên văn chữ Hán là “xứ”; nhiều
bản dịch lại thường dịch là “phần”. Chúng tôi chọn từ phổ thông nhất là
phần.
(5). Đoạn Kinh này từ đây trở xuống
tương đương với phẩm “Quán Hạnh” từ quyển 70 đến phần cuối quyển thứ 71, tập
03, Hội thứ I.
(6). Sắc nhập vô nhị pháp số: Dịch là sắc vào pháp
số chẳng hai, nguyên văn chữ Hán là “色 sắc 入 nhập 無 vô 二 nhị 法 pháp 數 số”. Pháp số chỉ các con số đứng trước những danh
từ như nhị nguyên(phân hai), tam tế(ba thời), tứ cú… Trong đạo Phật thay vì nói
chẳng phải một thì nói chẳng hai (vô nhị, bất nhị), vì có một tức có hai, có
hai tức có ba…, chẳng hai tức chỉ có một, duy nhất một. Vì vậy, từ sắc cho đến
Nhất thiết trí vào vô nhị pháp số không rối! (Xem lại thích nghĩa trong phẩm
“Quán Hạnh”, Q.71 và Q.72, tập 03, ĐBN)
Tự điển Phật Quang giải thích pháp
số như sau:(法數) Cũng gọi Danh số, Sự số. Chỉ cho những danh từ
trong Phật giáo có chữ chỉ số đứng trước. Như: Tam giới (3 cõi), Tứ đế(4 đế),
Ngũ uẩn(5 uẩn), Lục độ (6 độ), Bát chính đạo(8 chính đạo), Thập nhị nhân duyên
(12 nhân duyên), Ngũ vị thất thập ngũ pháp (5 vị 75 pháp) v.v... Thông thường
các số này được ghi theo hình thức tăng 1 số từ 1 theo thứ tự đến 2, 3, 4
v.v... Kinh Tạp A hàm, Kinh Bản sự... lấy pháp số làm trung tâm để giải thích
các Kinh nói về pháp số. Kinh Pháp tập danh số cũng là Kinh điển liệt kê pháp
số. Lý Sư Chính đời Đường biên soạn Pháp môn danh nghĩa tập,
Nhất Như đời Minh biên soạn Đại minh tam tạng pháp số... đều là các trứ tác sưu
tập các pháp số. Ngoài ra, các sách đồng loại còn có: Đại tạng pháp số, Tạng
thừa pháp số, Chư thừa pháp số... lưu hành rất rộng.
Lược giải:
Kinh thuyết: “Sắc chẳng
sanh chẳng diệt thì chẳng phải sắc” và Kinh cũng thuyết “sắc chẳng hai
tức chẳng phải sắc”. Sanh và diệt là nhị pháp: Tất cả pháp hữu vi do duyên
hợp lại từ không mà trở thành có thì gọi là sanh; các pháp đang hiện hữu mà
biến hoại, tan rã thì gọi là diệt. Sự xuất hiện và tan rã đó gọi là sanh diệt.
Sinh và diệt là nhị nguyên, pháp phân hai. Pháp không hai, tức chẳng sanh chẳng
diệt, thì không thành một pháp, nên Kinh nói: Sắc chẳng hai tức chẳng phải sắc.
Ngược lại, bất sanh bất diệt là vô nhị. Pháp nào thường còn bất biến, nằm ngoài
sự phân biệt của lưỡng nguyên đối đãi thì gọi là pháp bất nhị. Pháp Phật là
pháp môn bất nhị. Khi thấy sắc nội, ngoại, hay cả nội ngoại đều không, vô sở
hữu bất khả đắc thì lúc đó sẽ biết sắc nhập vô nhị pháp số.
Xin đọc lại phẩm “Vô Sở Đắc”, cuối
quyển 61 đến đầu quyển 70 và phần đầu phẩm “Quán Hạnh”, Hội thứ I, ĐBN. Vì hai
phẩm này dễ hiểu hơn.
Lưu ý:
Vì không muốn trùng tuyên nên chúng
tôi không lặp lại các chiết giải của Hội thứ I ở đây. Như nhiều lần nhắc nhở
nội dung của 5 Hội đầu gần như giống nhau chỉ khác là giải rộng hay tóm lược mà
thôi. Chúng tôi tập trung thích nghĩa và lược giải nhiều ở Hội thứ I và Hội thứ
IV. Chỉ cần nắm vững một Hội là nắm vững các Hội khác. Đó là đứng về phương
diện chiết giải kinh. Đứng về phương diện trì tụng chánh văn Bát Nhã hoàn toàn
khác hẳn.
Sở dĩ, Kinh trùng tụng chánh văn
trong 5 Hội cùng một chủ đề như nhau là vì sự trùng tụng không ngoài mục đích
ru ngủ các cảm quan và ý thức của chúng ta vì cảm quan và ý thức là một thứ đo
lường lệch lạc, chúng không thể cho ta những phán xét trung thực. Nhờ trùng
tụng qua năm tháng các cảm quan ý thức sẽ giảm bớt áp lực của chúng hay nói
khác là giảm thiểu ảnh hưởng của chúng trong đời sống thường nhật. Chúng là thứ
được coi là mau mắn, nhanh nhẹn giăng trước mắt tai mũi lưỡi của chúng ta, như
Thiền sư D.T. Suzuki nói là “làm việc cũng muốn trả ơn”. Do sự đọc tụng lâu
ngày một giác quan mới sẽ nhảy vào để thay thế vai trò của chúng trong nhận
thức. Đó là trực giác thực chứng phát sinh qua trì tụng. Người ta tin tưởng
rằng với trực giác mới này sẽ cho ta một huệ nhãn có thể soi sáng suốt cõi đời
vô tận!
Cứ một mặt trì tụng, trì tụng mãi
rồi sẽ thấy cái bí ẩn lạ lùng này!
---o0o---