PHẨM “VÔ SỞ HỮU”
Phần sau Q. 418 đến phần đầu Q. 420, Hội thứ II.
(Tương đương phẩm “Vô Sở Đắc”, phần cuối Q.61- Q.70,
Hội thứ I, ĐBN)
Tóm
lược:
(Đại thừa ngang cùng với hư không)
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngươi nói “Đại thừa ngang cùng hư
không”. Như vậy! Như ngươi đã nói. Vì sao? Thiện Hiện! Vì
như hư không Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía trên dưới tất cả phương phần đều bất
khả đắc. Đại thừa cũng vậy, Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía trên dưới tất cả
phương phần đều bất khả đắc, nên nói Đại thừa ngang cùng hư không.
Thiện Hiện! Lại như hư không dài ngắn cao thấp, vuông tròn tà
chánh, tất cả hình sắc đều bất khả đắc. Đại thừa cũng vậy, dài ngắn cao
thấp vuông tròn tà chánh tất cả hình sắc đều bất khả đắc, nên nói Đại thừa
ngang cùng hư không.
Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng quá khứ, chẳng vị lai,
hiện tại. Đại thừa cũng vậy, chẳng quá khứ chẳng vị lai, hiện tại, nên nói
Đại thừa ngang cùng hư không.
Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng tăng chẳng giảm, chẳng
tiến chẳng lui. Đại thừa cũng vậy, chẳng tăng chẳng giảm, chẳng tiến chẳng
lui, nên nói Đại thừa ngang cùng hư không. Lại như hư không chẳng nhiễm chẳng
tịnh. Đại thừa cũng vậy, chẳng nhiễm chẳng tịnh, nên nói Đại thừa ngang
cùng hư không. Lại như hư không không sanh không diệt, không trụ không
khác. Đại thừa cũng vậy, không sanh không diệt, không trụ không khác, nên
nói Đại thừa ngang cùng hư không.
Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng thiện chẳng bất thiện,
chẳng hữu ký chẳng vô ký. Đại thừa cũng vậy, chẳng thiện chẳng bất thiện, chẳng
hữu ký chẳng vô ký, nên nói Đại thừa ngang cùng hư không. Lại như hư không
không thấy không nghe, không giác không biết. Đại thừa cũng vậy, không
thấy không nghe, không giác không biết, nên nói Đại thừa ngang cùng hư không.
Lại như hư không chẳng phải hiểu biết, chẳng phải thông đạt, chẳng phải biết
khắp, chẳng phải đoạn hẳn, chẳng phải chứng đắc, chẳng phải tu tập. Đại thừa
cũng vậy, chẳng phải hiểu biết, chẳng phải thông đạt, chẳng phải biết khắp,
chẳng phải đoạn hẳn, chẳng phải chứng đắc, chẳng phải tu tập, nên nói Đại thừa
bằng với hư không.
Thiện Hiện! Lại như hư không, chẳng quả, chẳng pháp có quả,
chẳng dị thục, chẳng pháp có dị thục. Đại thừa cũng vậy, chẳng quả, chẳng
pháp có quả, chẳng dị thục, chẳng pháp có dị thục, nên nói Đại thừa ngang cùng
hư không. Lại như hư không chẳng có pháp tham, chẳng rời pháp tham; chẳng có
pháp sân, chẳng rời pháp sân; chẳng có pháp si, chẳng rời pháp si. Đại
thừa cũng vậy, chẳng có pháp tham chẳng rời pháp tham, chẳng có pháp sân chẳng
rời pháp sân, chẳng có pháp si chẳng rời pháp si, nên nói Đại thừa ngang cùng
hư không. Lại như hư không chẳng phải sơ phát tâm có đắc, cho đến chẳng phải
phát tâm tới thập địa mới gọi là đắc. Đại thừa cũng vậy, chẳng phải sơ
phát tâm có đắc, cho đến chẳng phải phát tâm đến thập địa mới gọi là đắc, nên
nói Đại thừa ngang cùng hư không. Lại như hư không chẳng có bậc Tịnh quán, bậc
Chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc
giác, bậc Bồ tát, bậc Như Lai khá được. Đại thừa cũng vậy, chẳng có bậc Tịnh
quán cho đến bậc Như Lai khá được, nên nói Đại thừa ngang cùng hư không.
Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng đọa cõi Dục, chẳng đọa cõi
Sắc, chẳng đọa cõi Vô sắc. Đại thừa cũng vậy, chẳng đọa cõi Dục, chẳng đọa
cõi Sắc, chẳng đọa cõi Vô sắc, nên nói Đại thừa ngang cùng hư không. Lại như hư
không chẳng có Dự lưu hướng, Dự lưu quả; Nhất lai hướng, Nhất lai quả; Bất hoàn
hướng, Bất hoàn quả; A la hán hướng, A la hán quả; Độc giác hướng, Độc giác
quả; Bồ tát, Như Lai khá được. Đại thừa cũng vậy, chẳng có Dự lưu hướng
cho đến Như Lai khá được, nên nói Đại thừa ngang cùng hư không. Lại như hư
không chẳng có bậc Thanh văn, bậc Độc giác, bậc Bồ tát, bậc Như Lai khá
được. Đại thừa cũng vậy, chẳng có bậc Thanh văn, bậc Độc giác, bậc Như Lai
khá được, nên nói Đại thừa ngang cùng hư không.
Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng hữu sắc chẳng vô sắc,
chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, chẳng tương ưng chẳng
bất tương ưng. Đại thừa cũng vậy, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu
kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, chẳng tương ưng chẳng bất tương
ưng, nên nói Đại thừa ngang cùng hư không. Lại như hư không chẳng thường chẳng
vô thường, chẳng vui chẳng khổ, chẳng ngã chẳng vô ngã, chẳng tịnh chẳng bất
tịnh. Đại thừa cũng vậy, chẳng thường chẳng vô thường, chẳng vui chẳng
khổ, chẳng ngã chẳng vô ngã, chẳng tịnh chẳng bất tịnh, nên nói Đại thừa ngang
cùng hư không. Lại như hư không chẳng không chẳng bất không, chẳng hữu tướng
chẳng vô tướng, chẳng hữu nguyện chẳng vô nguyện. Đại thừa cũng vậy, chẳng
không chẳng bất không, chẳng hữu tướng chẳng vô tướng, chẳng hữu nguyện chẳng
vô nguyện, nên nói Đại thừa ngang cùng hư không. (Q.418, ĐBN)
Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng vắng lặng chẳng phải chẳng
vắng lặng, chẳng xa lìa chẳng phải chẳng xa lìa. Đại thừa cũng vậy, chẳng
vắng lặng chẳng phải chẳng vắng lặng, chẳng xa lìa chẳng phải chẳng xa lìa, nên
nói Đại thừa ngang cùng hư không. Lại như hư không chẳng tối chẳng sáng. Đại
thừa cũng vậy, chẳng tối chẳng sáng, nên nói Đại thừa ngang cùng hư không.
Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng uẩn, xứ, giới chẳng rời
uẩn, xứ giới. Đại thừa cũng vậy, chẳng uẩn, xứ, giới chẳng rời uẩn, xứ,
giới nên nói Đại thừa ngang cùng hư không.
Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng khá được chẳng phải chẳng
khá được. Đại thừa cũng vậy, chẳng khá được chẳng phải chẳng khá được, nên
nói Đại thừa ngang cùng hư không. Lại như hư không chẳng thể nói chẳng phải
chẳng thể nói. Đại thừa cũng vậy, chẳng thể nói chẳng phải chẳng thể nói,
nên nói Đại thừa ngang cùng hư không.
Thiện Hiện! Do tất cả nhân duyên như thế nên nói Đại thừa
ngang cùng hư không.
(Tất cả pháp vô sở hữu bất khả đắc như hư không)
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngươi nói in như hư không
khắp năng “dung nạp(1) vô lượng, vô số, vô biên hữu tình”.
Đại thừa cũng vậy, khắp năng dung nạp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Như
vậy! Đúng như ngươi đã nói. Vì sao? Thiện Hiện! Hữu tình vô sở hữu nên
phải biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên phải biết Đại
thừa cũng vô sở hữu. Do nhân duyên đây, nên nói Đại thừa khắp năng dung
nạp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Thiện Hiện! Hoặc hữu tình
hoặc hư không, hoặc Đại thừa, tất cả như thế đều vô sở hữu bất khả đắc vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hữu tình vô lượng vô số vô biên, nên
phải biết hư không cũng vô lượng vô số vô biên. Hư không vô lượng vô số vô
biên, nên phải biết Đại thừa cũng vô lượng vô số vô biên. Do nhân duyên đây,
nên nói Đại thừa khắp năng dung nạp vô lượng vô số vô biên hữu tình. Vì sao?
Thiện Hiện! Hoặc hữu tình vô lượng vô số vô biên, hoặc hư không vô lượng vô số
vô biên, hoặc Đại thừa vô lượng vô số vô biên, tất cả như thế đều vô sở hữu,
bất khả đắc vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hữu tình vô sở hữu, nên phải biết hư
không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu, nên phải biết Đại thừa cũng vô
sở hữu. Đại thừa vô sở hữu, nên phải biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô
lượng vô sở hữu, nên phải biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu, nên
phải biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu, nên phải biết tất cả
pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên đây nên nói Đại thừa khắp năng dung nạp
vô lượng vô số vô biên hữu tình. Vì sao? Thiện Hiện! Hoặc hữu tình, hoặc
hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả
pháp, tất cả như thế đều vô sở hữu, bất khả đắc vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã vô sở hữu nên phải biết hữu tình(2)
cũng vô sở hữu, hữu tình vô sở hữu nên phải biết mạng giả cũng vô sở hữu, mạng
giả vô sở hữu nên phải biết sanh giả cũng vô sở hữu, sanh giả vô sở hữu nên
phải biết dưỡng giả cũng vô sở hữu. Thọ giả vô sở hữu nên phải biết tri giả
cũng vô sở hữu, tri giả vô sở hữu nên phải biết kiến giả cũng vô sở hữu, kiến
giả vô sở hữu nên phải biết hư không cũng vô sở hữu, hư không vô sở hữu
nên phải biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên phải biết vô
lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên phải biết vô số cũng vô sở hữu
v.v… Do nhân duyên đây nên nói Đại thừa khắp năng dung nạp vô lượng vô số
vô biên hữu tình. Vì sao? Thiện Hiện! Hoặc ngã cho đến kiến giả, hoặc hư
không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả
pháp, tất cả như thế đều vô sở hữu bất khả đắc vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến kiến giả vô sở hữu nên phải
biết pháp giới cũng vô sở hữu. Pháp giới vô sở hữu nên phải biết hư không
cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên phải biết Đại thừa cũng vô sở
hữu. Đại thừa vô sở hữu nên phải biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô
sở hữu nên phải biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên phải biết
vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên phải biết tất cả pháp cũng
vô sở hữu. Do nhân duyên đây nên nói Đại thừa khắp năng dung nạp vô lượng
vô số vô biên hữu tình. Vì sao? Thiện Hiện! Hoặc ngã cho đến kiến giả,
hoặc pháp giới, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc
vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như thế đều vô sở hữu bất khả đắc vậy.
Hoặc ngã cho đến kiến giả, hoặc chơn như, thật tế, bất tư
nghì giới, an ẩn giới v.v…, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc
vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như thế đều vô sở hữu bất khả đắc
cũng như thế.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến kiến giả vô sở hữu nên phải
biết sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng vô sở hữu. Ngũ uẩn vô sở hữu
nên phải biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên phải biết Đại
thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên phải biết vô lượng cũng vô sở
hữu. Vô lượng vô sở hữu nên phải biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên
phải biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên phải biết tất cả
pháp cũng vô sở hữu. Do nhân duyên đây nên nói Đại thừa khắp năng dung nạp
vô lượng vô số vô biên hữu tình. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Hoặc ngã cho đến
kiến giả, hoặc ngũ uẩn, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô
số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như thế đều vô sở hữu bất khả đắc
vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến kiến giả vô sở hữu nên phải
biết 12 xứ, 18 giới lần lữa cũng vô sở hữu. 12 xứ, 18 giới vô sở hữu nên phải biết
hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên phải biết Đại thừa cũng vô sở
hữu. Đại thừa vô sở hữu nên phải biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô
sở hữu nên phải biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên phải biết vô
biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên phải biết tất cả pháp cũng vô
sở hữu. Do nhân duyên đây nên nói Đại thừa khắp năng dung nạp vô lượng vô
số vô biên hữu tình. Vì sao? Thiện Hiện! Hoặc ngã cho đến kiến giả, hoặc
12 xứ, 18 giới, hoặc hư
không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả
pháp, tất cả như thế đều vô sở hữu bất khả đắc vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến kiến giả vô sở hữu nên phải
biết sáu Ba la mật cũng vô sở hữu. Sáu Ba la mật vô sở hữu nên phải
biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên phải biết Đại thừa cũng vô
sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên phải biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng
vô sở hữu nên phải biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên phải biết
vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên phải biết tất cả pháp cũng vô sở
hữu. Do nhân duyên đây nên nói Đại thừa khắp năng dung nạp vô lượng vô số
vô biên hữu tình. Vì sao? Thiện Hiện! Hoặc ngã cho đến kiến giả, hoặc sáu Ba
la mật hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên,
hoặc tất cả pháp, tất cả như thế đều vô sở hữu bất khả đắc vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến kiến giả vô sở hữu nên phải
biết 18 pháp không (từ nội không cho đến vô tánh tự tánh không) cũng
vô sở hữu. Mười tám pháp không vô sở hữu nên phải biết hư không cũng vô sở
hữu. Hư không vô sở hữu nên phải biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại thừa vô
sở hữu nên phải biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên phải biết
vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên phải biết vô biên cũng vô sở
hữu. Vô biên vô sở hữu nên phải biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do
nhân duyên đây nên nói Đại thừa khắp năng dung nạp vô lượng vô số vô biên hữu
tình. Vì sao? Thiện Hiện! Hoặc ngã cho đến kiến giả, hoặc 18 pháp không,
hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất
cả pháp, tất cả như thế đều vô sở hữu bất khả đắc vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến kiến giả vô sở hữu nên phải
biết tất cả pháp Phật cũng vô sở hữu. Tất cả pháp Phật vô sở hữu nên
phải biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên phải biết Đại thừa
cũng vô sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên phải biết vô lượng cũng vô sở hữu.
Vô lượng vô sở hữu nên phải biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên
phải biết vô biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên phải biết tất cả pháp
cũng vô sở hữu. Do nhân duyên đây nên nói Đại thừa khắp năng dung nạp vô
lượng vô số vô biên hữu tình. Vì sao? Thiện Hiện! Hoặc ngã cho đến kiến
giả, hoặc tất cả pháp Phật, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc
vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như thế đều vô sở hữu bất khả đắc
vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến kiến giả vô sở hữu nên phải
biết pháp Tịnh quán, pháp Chủng tánh, pháp Đệ bát, pháp Cụ kiến, pháp Bạc,
pháp Ly dục, pháp Dĩ biện, pháp Độc giác, pháp Bồ tát, pháp Như Lai lần lữa
cũng vô sở hữu. Pháp Tịnh quán cho đến pháp Như Lai vô sở hữu nên phải
biết hư không cũng vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên phải biết Đại thừa cũng vô
sở hữu. Đại thừa vô sở hữu nên phải biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng
vô sở hữu nên phải biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên phải biết vô
biên cũng vô sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên phải biết tất cả pháp cũng vô
sở hữu. Do nhân duyên đây nên nói Đại thừa khắp năng dung nạp vô lượng vô
số vô biên hữu tình. Vì sao? Thiện Hiện! Hoặc ngã cho đến kiến giả, hoặc
pháp Tịnh quán cho đến pháp Như Lai, hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô
lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như thế đều vô sở hữu
bất khả đắc vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến kiến giả vô sở hữu nên phải
biết Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ tát, Như Lai cũng vô
sở hữu. Dự lưu cho đến Như Lai vô sở hữu nên phải biết hư không cũng
vô sở hữu. Hư không vô sở hữu nên phải biết Đại thừa cũng vô sở hữu. Đại
thừa vô sở hữu nên phải biết vô lượng cũng vô sở hữu. Vô lượng vô sở hữu nên
phải biết vô số cũng vô sở hữu. Vô số vô sở hữu nên phải biết vô biên cũng vô
sở hữu. Vô biên vô sở hữu nên phải biết tất cả pháp cũng vô sở hữu. Do
nhân duyên đây nên nói Đại thừa khắp năng dung nạp vô lượng vô số vô biên hữu
tình. Vì sao? Thiện Hiện! Hoặc ngã cho đến kiến giả, hoặc Dự lưu cho đến
Như Lai hoặc hư không, hoặc Đại thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên,
hoặc tất cả pháp, tất cả như thế đều vô sở hữu bất khả đắc vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Như cõi Niết bàn khắp năng dung nạp vô
lượng vô số vô biên hữu tình. Đại thừa cũng vậy, khắp năng dung nạp vô
lượng vô số vô biên hữu tình. Do nhân duyên đây nên tác thuyết này: Y như
hư không khắp năng dung nạp vô lượng vô số vô biên hữu tình. Đại thừa cũng
vậy, khắp năng dung nạp vô lượng vô số vô biên hữu tình.(3)
(Tất cả pháp không đến không đi, không trụ, vì tự tánh
tự tướng của chúng
hoặc động hoặc trụ đều bất khả đắc như
hư không)
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngươi nói: “Lại như hư không, không
đến không đi không trụ khá thấy. Đại thừa cũng vậy, không đến không đi
không trụ, khá thấy”. Như vậy! Như ngươi đã nói. Vì sao? Thiện
Hiện! Vì tất cả pháp không đến không đi cũng lại chẳng trụ. Vì sao? Vì tất
cả pháp hoặc động hoặc trụ chẳng khá được vậy. Do nhân duyên đây nên nói
Đại thừa cũng không chỗ đến, chỗ đi, chỗ trụ khá được.
Thiện Hiện! Sắc không từ đâu đến, cũng không đi đâu,
cũng không chỗ trụ; thọ tưởng hành thức không từ đâu đến, cũng không đi đâu,
cũng không chỗ trụ. Thiện Hiện! Bản tánh sắc không từ đâu đến, cũng
không đi đâu, cũng không chỗ trụ; bản tánh thọ tưởng hành thức không từ đâu
đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Sắc như không từ đâu đến,
cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ; thọ tưởng hành thức như không từ đâu
đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Tự tánh sắc không từ đâu
đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ; tự tánh thọ tưởng hành thức không
từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Tự tướng sắc không từ
đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ; tự tướng thọ tưởng hành thức
không từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Vì sao? Vì bản
tánh, như tánh, tự tánh, tự tướng sắc cho đến thức hoặc động hoặc trụ chẳng khá
được(4) vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! 12 xứ, 18 giới không từ đâu đến,
cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Bản tánh 12 xứ, 18 giới không từ đâu
đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Thiện Hiện! 12 xứ như, 18 giới như
không từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Tự tánh 12 xứ, 18 giới
không từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Tự tướng 12 xứ, 18
giới không từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Vì sao? Thiện
Hiện! Bản tánh, như tánh, tự tánh, tự tướng 12 xứ, 18 giới hoặc động hoặc trụ
chẳng khá được vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Địa giới không từ đâu đến, cũng
không đi đâu, cũng không chỗ trụ; thủy hỏa phong không thức giới không từ đâu
đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Thiện Hiện! Bản tánh địa giới
không từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ; bản tánh thủy hỏa
phong không thức giới không từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ.
Địa giới như(chơn như của địa giới) không từ đâu đến, cũng không đi đâu,
cũng không chỗ trụ; thủy hỏa phong không thức giới như không từ đâu đến, cũng
không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Tự tánh địa giới không từ đâu đến, cũng
không đi đâu, cũng không chỗ trụ; tự tánh thủy hỏa phong không thức giới không
từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Tự tướng địa giới không
từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ; tự tướng thủy hỏa phong
không thức giới không từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ
trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Bản tánh, như tánh, tự tánh, tự tướng địa giới
cho đến thức giới hoặc động hoặc trụ chẳng khá được vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Pháp giới không từ đâu đến, cũng
không đi đâu, cũng không chỗ trụ; chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn
giới… không từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Bản tánh
pháp giới không từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ; bản tánh
chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới… không từ đâu đến, cũng không
đi đâu, cũng không chỗ trụ. Pháp giới như không từ đâu đến, cũng không đi đâu,
cũng không chỗ trụ; chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới như… không
từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Tự tánh pháp giới không
từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ; tự tánh chơn như, thật tế,
bất tư nghì giới, an ẩn giới… không từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không
chỗ trụ. Tự tướng pháp giới không từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng
không chỗ trụ; tự tướng chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới… không
từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Bản
tánh, như tánh, tự tánh, tự tướng pháp giới cho đến an ẩn giới… hoặc động hoặc
trụ chẳng khá được vậy.
Lại nữa,Thiện Hiện! Sáu Ba la mật không từ đâu đến,
cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Thiện Hiện! Bản tánh sáu Ba la mật
không từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Sáu Ba la mật như
không từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Tự tánh sáu Ba la
mật không từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Tự tướng sáu Ba
la mật không từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Vì sao?
Thiện Hiện! Bản tánh, như tánh, tự tánh, tự tướng sáu Ba la mật hoặc động hoặc
trụ chẳng khá được vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả pháp Phật không từ đâu
đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Thiện Hiện! Bản tánh Tất cả pháp
Phật không từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Tất cả pháp Phật
như không từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Tự tánh tất
cả pháp Phật không từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Tự
tướng tất cả pháp Phật. Tự tướng tất cả pháp Phật không từ đâu đến, cũng
không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Bản tánh, như tánh, tự
tánh, tự tướng tất cả pháp Phật hoặc động hoặc trụ chẳng khá được vậy. (Q. 419, ĐBN)
Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ đề, Phật đà không từ đâu đến,
cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Thiện Hiện! Bản tánh Bồ đề, Phật
đà(5) không từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Bồ đề như, Phật
đà như không từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Tự tánh Bồ đề,
Phật đà không từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Tự tướng Bồ
đề, Phật đà không từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Vì sao?
Thiện Hiện! Bản tánh, như tánh, tự tánh, tự tướng Bồ đề, Phật Đà hoặc động hoặc
trụ chẳng khá được vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hữu vi giới, vô vi giới không từ
đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Bản tánh hữu vi giới, vô vi
giới không từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Hữu vi giới như,
vô vi giới như không từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không chỗ trụ. Tự
tánh hữu vi giới, vô vi giới không từ đâu đến, cũng không đi đâu, cũng không
chỗ trụ. Tự tướng hữu vi giới, vô vi giới không từ đâu đến, cũng không đi đâu,
cũng không chỗ trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Bản tánh, như tánh, tự tánh, tự
tướng hữu vi giới, vô vi giới hoặc động hoặc trụ chẳng khá được vậy.
Thiện Hiện! Do nhân duyên đây nên nói Đại thừa không đến,
không đi, không trụ khá thấy y như hư không.
(Ba đời không đều bất khả đắc)
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngươi lại nói “như hư không tiền tế (thời
trước), hậu tế (sau), trung tế (giữa) đều
bất khả đắc (chẳng khá được)”. Đại thừa cũng vậy, thời
trước sau giữa đều chẳng khá được. Ba đời bình đẳng vượt khỏi ba đời, nên
gọi Đại thừa. Như vậy! Như ngươi đã nói. Vì sao? Thiện Hiện! Đời quá
khứ, đời quá khứ không. Đời vị lai, đời vị lai không. Đời hiện tại,
đời hiện tại không. Ba đời bình đẳng, ba đời bình đẳng không. Vượt khỏi ba
đời, vượt khỏi ba đời không. Đại thừa, Đại thừa không. Bồ tát, Bồ tát
không. Vì sao? Thiện Hiện! Không, không có một hai ba bốn năm… tướng sai
khác. Vậy nên, Đại thừa ba đời bình đẳng, vượt khỏi ba đời.
Thiện Hiện! Trong Đại thừa đây tướng đẳng bất đẳng(ngang
hàng hay không ngang hàng) đều chẳng khá được. Tướng tham lìa tham đều
chẳng khá được. Tướng sân lìa sân đều chẳng khá được. Tướng si lìa si
đều chẳng khá được. Tướng mạn lìa mạn đều chẳng khá được. Như vậy cho
đến tướng thiện phi thiện đều chẳng khá được. Tướng hữu ký vô ký đều chẳng
khá được. Tướng thường vô thường đều chẳng khá được. Tướng vui và khổ
đều chẳng khá được. Tướng ngã vô ngã đều chẳng khá được. Tướng tịnh
bất tịnh đều chẳng khá được. Tướng Dục giới, ra khỏi Dục giới đều bất khả
đắc; tướng Sắc giới, ra khỏi Sắc giới đều bất khả đắc; tướng Vô sắc giới, ra
khỏi Vô sắc giới đều bất khả đắc. Vì sao? Thiện Hiện! Trong Đại thừa này tự
tánh các pháp chẳng khá được vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc quá khứ, sắc quá khứ không;
sắc vị lai, sắc vị lai không; sắc hiện tại, sắc hiện tại không. Thọ tưởng hành
thức quá khứ, vị lai, hiện tại; thọ tưởng hành thức quá khứ không; thọ tưởng
hành thức vị lai không, thọ tưởng hành thức hiện tại không. Thiện Hiện!
Trong không, sắc quá khứ bất khả đắc. Vì sao? Vì sắc quá khứ tức là
không, tánh không cũng không, không trong không hãy chẳng khá được, huống chi
trong không có sắc quá khứ khá được. Thiện Hiện! Trong không sắc vị
lai hiện tại bất khả đắc. Vì sao? Sắc vị lai hiện tại tức là không, tánh
không cũng không, không trong không hãy chẳng khá được, huống chi trong không
có sắc vị lai hiện tại khá được. Thiện Hiện! Trong không thọ tưởng hành
thức quá khứ bất khả đắc. Vì sao? Thọ tưởng hành thức quá khứ tức là
không, tánh không cũng không, không trong không hãy chẳng khá được, huống chi
trong không có thọ tưởng hành thức quá khứ khá được. Thiện Hiện! Trong
không thọ tưởng hành thức vị lai hiện tại cũng bất khả đắc. Vì sao? Thọ
tưởng hành thức vị lai hiện tại tức là không, tánh không cũng không, không
trong không hãy chẳng khá được, huống chi trong không có thọ tưởng hành thức vị
lai hiện tại khá được.
Lại nữa, Thiện Hiện! 12 xứ, 18 giới quá khứ, 12 xứ, 18
giới quá khứ không; 12 xứ, 18 giới vị lai hiện tại, 12 xứ, 18 giới vị lai hiện
tại không. Trong không 12 xứ, 18 giới quá khứ bất khả đắc. Vì sao? 12
xứ, 18 giới quá khứ tức là không, tánh không cũng không, không trong không hãy
chẳng khá được, huống chi trong không có 12 xứ, 18 giới quá khứ khá
được. Thiện Hiện! Trong không 12 xứ, 18 giới vị lai hiện tại cũng bất khả
đắc. Vì sao? 12 xứ, 18 giới vị lai hiện tại tức là không, tánh không cũng
không, không trong không hãy chẳng khá được. huống nào trong không có 12 xứ, 18
giới vị lai hiện tại khá được. Thiện Hiện! Trong không tất cả pháp Phật
quá khứ bất khả đắc. Vì sao? Tất cả pháp Phật quá khứ tức là không, tánh
không cũng không, không trong không hãy chẳng khá được, huống nào trong không
có tất cả pháp Phật quá khứ khá được. Thiện Hiện! Trong không tất cả pháp
Phật vị lai hiện tại cũng bất khả đắc. Vì sao? Tất cả pháp Phật vị lai
hiện tại tức là không, tánh không cũng không, không trong không hãy chẳng khá
được, huống chi trong không có tất cả pháp Phật vị lai hiện tại khá được.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nhãn xúc làm duyên sanh ra các
thọ quá khứ, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ quá khứ không; nhãn xúc làm
duyên sanh ra các thọ vị lai hiện tại, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ vị
lai hiện tại không. Nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ quá
khứ, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ quá khứ không; nhĩ tỷ
thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ vị lai hiện tại, nhĩ tỷ thiệt thân ý
xúc làm duyên sanh ra các thọ vị lai hiện tại không. Thiện Hiện! Trong
không nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ quá khứ bất khả đắc. Vì sao? Nhãn
xúc làm duyên sanh ra các thọ quá khứ tức là không, tánh không cũng không,
không trong không hãy chẳng khá được, huống chi trong không có nhãn xúc làm
duyên sanh ra các thọ quá khứ khá được. Thiện Hiện! Trong không nhãn, nhĩ, tỷ,
thân, ý xúc cũng lại như thế.
Lại nữa, Thiện Hiện! Sáu Ba la mật quá khứ, sáu Ba la
mật quá khứ không; sáu Ba la mật vị lai hiện tại, sáu Ba la mật vị lai hiện tại
không. Thiện Hiện! Trong không sáu Ba la mật quá khứ bất khả đắc. Vì sao? sáu Ba
la mật quá khứ tức là không, tánh không cũng không, không trong không hãy chẳng
khá được, huống chi trong không có sáu Ba la mật quá khứ khá được. Thiện
Hiện! Trong không sáu Ba la mật vị lai hiện tại bất khả đắc. Vì sao? Sáu Ba la
mật vị lai hiện tại tức là không, tánh không cũng không, không trong không hãy
chẳng khá được, huống nào trong không có sáu Ba la mật vị lai hiện tại khá
được.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ba mươi bảy pháp trợ đạo quá khứ,
37 pháp trợ đạo quá khứ không; 37 pháp trợ đạo vị lai hiện tại, 37 pháp trợ đạo
vị lai hiện tại không. Thiện Hiện! Trong không 37 pháp trợ đạo quá khứ bất
khả đắc. Vì sao? Vì 37 pháp trợ đạo quá khứ tức là không, tánh không cũng
không, không trong không hãy chẳng khá được, huống chi trong không có 37 pháp
trợ đạo quá khứ khá được. Thiện Hiện! Trong không 37 pháp trợ đạo vị lai hiện
tại bất khả đắc. Vì sao? Vì 37 pháp trợ đạo vị lai hiện tại tức là không,
tánh không cũng không, không trong không hãy chẳng khá được, huống chi trong
không có 37 pháp trợ đạo vị lai hiện tại khá được.
Như vậy, cho đến Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn
vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng quá
khứ, Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng quá khứ không; Phật mười
lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng quá khứ, Phật mười lực cho đến mười tám
pháp Phật bất cộng quá khứ không. Thiện Hiện! Trong không Phật mười lực
cho đến 18 pháp Phật bất cộng quá khứ bất khả đắc. Vì sao? Phật mười lực cho
đến 18 pháp Phật bất cộng quá khứ tức là không, tánh không cũng không, không
trong không hãy chẳng khá được, huống chi trong không có Phật mười lực cho đến
18 pháp Phật bất cộng quá khứ khá được. Thiện Hiện! Trong không Phật mười
lực cho đến 18 pháp Phật bất cộng vị lai hiện tại bất khả đắc. Vì sao? Phật
mười lực cho đến 18 pháp Phật bất cộng vị lai hiện tại tức là không, tánh không
cũng không, không trong không hãy chẳng khá được, huống nào trong không có Phật
mười lực cho đến 18 pháp Phật bất cộng vị lai hiện tại khá được.
Lại nữa, Thiện Hiện! Dị sanh quá khứ, dị sanh quá khứ
không; dị sanh vị lai hiện tại, dị sanh vị lai hiện tại không. Thanh Văn, Độc
Giác, Bồ tát, Như Lai quá khứ; Thanh Văn, Độc Giác, Bồ tát, Như Lai quá khứ
không. Thanh Văn, Độc Giác, Bồ tát, Như Lai vị lai hiện tại; Thanh Văn, Độc
Giác, Bồ tát, Như Lai vị lai hiện tại không. Thiện Hiện! Trong không dị sanh
quá khứ bất khả đắc. Vì sao? Dị sanh quá khứ tức là không, tánh không cũng
không, không trong không hãy chẳng khá được, huống chi trong không có dị sanh
quá khứ khá được. Thiện Hiện! Trong không dị sanh vị lai hiện tại bất khả
đắc. Vì sao? Dị sanh vị lai hiện tại tức là không, tánh không cũng không,
không trong không hãy chẳng khá được, huống chi trong không có dị sanh vị lai
hiện tại khá được. Vì ngã hữu tình cho đến tri giả, kiến giả đều vô sở hữu
bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện! Trong không Thanh Văn, Độc Giác, Bồ tát, Như Lai
quá khứ bất khả đắc. Vì sao? Thanh Văn, Độc Giác, Bồ tát, Như Lai quá khứ
tức là không, tánh không cũng không, không trong không hãy chẳng khá được,
huống chi trong không có Thanh Văn, Độc Giác, Bồ tát, Như Lai quá khứ khá được.
Thiện Hiện! Trong không Thanh Văn, Độc Giác, Bồ tát, Như Lai vị lai hiện tại
bất khả đắc. Vì sao? Thanh Văn, Độc Giác, Bồ tát, Như Lai vị lai hiện tại
tức là không, tánh không cũng không, không trong không hãy chẳng khá được,
huống chi trong không có Thanh Văn, Độc Giác, Bồ tát, Như Lai vị lai hiện tại
khá được. Vì ngã hữu tình cho đến tri giả kiến giả đều vô sở hữu bất khả
đắc vậy.
(Đại thừa ba thời bình đẳng, bất khả đắc như hư không)
Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc thời trước chẳng khá được, sắc
thời sau thời giữa chẳng khá được, sắc trong ba thời bình đẳng cũng bất khả đắc. Vì
sao? Thiện Hiện! Trong bình đẳng sắc thời trước sau giữa cũng đều bất khả
đắc. Vì sao? Trong bình đẳng, tánh bình đẳng hãy chẳng khá được, huống chi
trong bình đẳng có sắc thời trước sau giữa khá được. Thiện Hiện! Thọ tưởng
hành thức thời trước chẳng khá được, thọ tưởng hành thức thời sau, thời giữa
chẳng khá được, thọ tưởng hành thức trong ba thời bình đẳng cũng chẳng khá
được. Vì sao? Thiện Hiện! Trong bình đẳng thọ tưởng hành thức thời
trước sau giữa đều chẳng khá được. Vì sao? Trong bình đẳng, tánh bình đẳng
hãy chẳng khá được, huống chi trong bình đẳng có thọ tưởng hành thức thời trước
sau giữa khá được.
Lại nữa, Thiện Hiện! Mười hai xứ, mười tám giới thời
trước chẳng khá được, mười hai xứ, mười tám giới thời sau thời giữa chẳng khá
được, mười hai xứ, mười tám giới trong ba thời bình đẳng cũng chẳng khá
được. Vì sao? Thiện Hiện! Trong bình đẳng mười hai xứ, mười tám giới thời
trước sau giữa đều chẳng khá được. Vì sao? Trong bình đẳng, tánh bình đẳng
hãy chẳng khá được, huống chi trong bình đẳng có mười hai xứ, mười tám giới
thời trước sau giữa khá được.
Thiện Hiện! Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ thời
trước chẳng khá được, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ thời sau thời giữa
chẳng khá được, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ trong ba thời bình đẳng cũng
chẳng khá được. Vì sao? Thiện Hiện! Trong bình đẳng nhãn xúc làm duyên sanh ra
các thọ thời trước sau giữa đều chẳng khá được. Vì sao? Trong bình đẳng,
tánh bình đẳng hãy chẳng khá được, huống chi trong bình đẳng có nhãn xúc làm
duyên sanh ra các thọ thời trước sau giữa khá được. Thiện Hiện! Nhĩ tỷ
thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ thời trước chẳng khá được, nhĩ tỷ
thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ thời sau thời giữa chẳng khá được,
nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ trong ba thời bình đẳng cũng
chẳng khá được. Vì sao? Thiện Hiện! Trong bình đẳng nhĩ tỷ thiệt thân
ý xúc làm duyên sanh ra các thọ thời trước sau giữa đều chẳng khá được. Vì
sao? Trong bình đẳng, tánh bình đẳng hãy chẳng khá được, huống chi trong bình
đẳng có nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ thời trước sau giữa
khá được.
Lại nữa, Thiện Hiện! Sáu Ba la mật, đến 37 pháp trợ
đạo, 18 pháp Phật bất cộng v.v... cũng lại như thế!
Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát khi tu hành Bát Nhã trụ
trong tánh ba thời bình đẳng đây tinh siêng tu học Nhất thiết tướng trí, không
lấy không đắm nên mau được viên mãn. Thiện Hiện! Đấy gọi Đại thừa ba thời
bình đẳng Bồ tát Ma ha tát. Nếu Bồ tát trụ trong Đại thừa như thế, vượt
hơn tất cả thế gian, trời, người, A tu la v.v…, chóng năng chứng được Nhất
thiết tướng trí, lợi ích an vui tất cả hữu tình.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Hay thay! Như Lai hay chính thuyết Đại thừa
Bồ tát. Bạch Thế Tôn! Đại thừa như thế rất tôn, rất thắng, rất thượng, rất
diệu. Các đại Bồ tát quá khứ học trong đây đã năng chứng được Nhất thiết
tướng trí, lợi ích an vui tất cả hữu tình. Các đại Bồ tát vị lai học trong
đây sẽ năng chứng được Nhất thiết tướng trí, lợi ích an vui tất cả hữu
tình. Các đại Bồ tát hiện tại mười phương vô lượng, vô số, vô biên thế
giới, học trong đây đang năng chứng được Nhất thiết tướng trí, lợi ích an vui
tất cả hữu tình. Đại thừa như thế rất tôn, rất thắng, rất thượng, rất
diệu, năng làm chỗ nương chơn thắng cho tất cả Bồ tát, năng khiến các Bồ tát
chóng năng chứng được Nhất thiết tướng trí, lợi ích an vui tất cả hữu tình.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Như vậy! Như ngươi đã nói. Thiện Hiện! Các
Bồ tát quá khứ vị lai hiện tại đều nương Đại thừa tinh siêng tu học mau chứng
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lợi ích an vui các loại hữu tình. Vậy nên, Đại
thừa rất tôn, rất thắng, rất thượng, rất diệu, vượt hơn tất cả thế gian, trời,
người, A tu la v.v…
Thích nghĩa:
(1). Dung nạp: Thâu, nhận.
(2). Ngã, chúng sanh, thọ giả… cho đến kiến giả: Ý muốn
nói đến 14 khoa danh tướng trong “bát thập nhất khoa” là: Ngã, chúng sanh, thọ
giả, mạng giả, sanh giả, dưỡng dục giả, tác giả, sử tác giả, khởi giả, sử khởi
giả, thọ giả, sử thọ giả, tri giả, kiến giả. Đã Thích nghĩa trong phẩm “Học
Quán”, tập 01, Hội thứ I.
(3). Đọc đến phẩm 21 này quý vị thấy: Hội thứ II tuy nói
ngắn hơn, nhưng cũng trùng tuyên khá nhiều. Tuy vậy, chúng tôi không muốn tóm
lược, quý vị cứ tụng và tự so chiếu để nắm vững toàn bộ năm Hội đầu. Nếu muốn
có nguyên chất, không lo cắt xén, thiếu sót… thì đây là cơ hội. Nắm vững tinh
yếu của Hội thứ I và Hội thứ II rồi thì quý vị có thể trì tụng lướt qua các Hội
sau cũng được. Kinh “Ma-Ha-Bat-Nhã Ba la mật” và “Tiểu Phẩm Bát nhã Ba la mật”
do Ngài Cưu Ma La Thập dịch ngắn gọn hơn nhiều. Kinh “Phật Mẫu Bát Nhã” do Thí
Hội dịch lại còn ngắn hơn nữa. Một khi nắm vững một Kinh hay một Hội thì có thể
nắm vững các Kinh hay các Hội khác dễ dàng. Vì vấn đề, chuyển ngữ gây khó khăn
nên chúng tôi đọc gần như hầu hết các Kinh liên hệ với kinh Đại Bát Nhã Ba la
mật này. Thọ trì Kinh phải kiên nhẫn lắm mới được!
(4). Chẳng khá được hoặc chẳng thể nắm bắt cùng nghĩa với
bất khả đắc.
(5). Phật đà (Phạm: Pàli: Buddha) Cũng gọi Phù đà, Phù
đầu, Một đà, Bộ tha, Bột đà, Bụt, Phục đậu, Phù đồ. Hán dịch: Giác giả, Tri
giả. 1- Phật Đà: Chỉ cho đức Thích Ca Mâu Ni. 2- Phật Đà: Chỉ
chung cho chư Phật 3 đời trong 10 phương, như hiện tại có đức Thích Ca Mâu Ni,
quá khứ có đức Phật Nhiên đăng, vị lai có đức Phật Di lặc, trong 10 phương thì
có đức Phật A súc ở phương Đông, đức Phật A di đà ở phương Tây... 3- Phật Đà:
Thiền sư người Thiên trúc sống vào thế kỷ thứ V. (Từ điển Phật Quang)
Sơ
giải:
Phẩm “Vô Sở Đắc” của Hội này tương đương với phẩm
“Vô Sở Đắc”, phần cuối quyển 61, cho đến đầu quyển 70, Hội thứ I, ĐBN. Phẩm này
nói: Tất cả pháp ba đời đều bất khả đắc như hư không giống như Đại thừa vậy.
Kinh đã thuyết quá rõ nên không cần trùng tuyên nữa. Quý vị có thể quay lại Hội
thứ I xem lại nếu muốn. Phẩm “Vô Sở Đắc”này chỉ khác với phẩm “Vô Sở Đắc” của
Hội thứ I là Kinh đề cập nhiều về Đại thừa. Chúng tôi thích phẩm này hơn
vì Kinh lột được tinh thần “vô tư” của Đại thừa. Nếu hiểu phẩm này thì hiểu Đại
thừa, hiểu Bát nhã Ba la mật. Sau đây là các điểm đáng lưu ý của phẩm này:
1. Đại thừa ngang
đồng với hư không.
2. Tất cả pháp vô
sở hữu bất khả đắc như hư không: Hoặc ngã cho đến kiến giả, hoặc
chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới v.v…, hoặc hư không, hoặc Đại
thừa, hoặc vô lượng, hoặc vô số, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp, tất cả như thế
đều vô sở hữu bất khả đắc.
3. Tất cả pháp
không đến không đi, không trụ, vì tự tánh tự tướng của chúng hoặc động hoặc trụ
đều bất khả đắc như hư không.
4. Ba đời không
đều bất khả đắc: Tiền tế, trung tế, hậu tế đều bất khả đắc.
5. Đại thừa ba
thời bình đẳng, bất khả đắc như hư không.
Nếu đọc và phối hợp phẩm “Vô Sở Đắc” của hai Hội với nhau
thì chúng ta hiểu được tinh thần “vô tư” của Bát Nhã, Đại thừa và Hư không.
Nhưng, Bát Nhã và Đại thừa mà một số luận gia cho là “vô
tri”, “Vô tri nhưng vô sở bất tri!” Đó là đặc tính bất hữu của Bát Nhã và Đại
thừa!
---o0o---