PHẨM “XUẤT TRỤ”
Phần cuối Q.416 cho đến phần đầu Q.417, Hội thứ II.
(Tương đương phẩm “Biện Đại Thừa”, bắt đầu quyển 55 -
56, Hội thứ I, ĐBN)
Gợi
ý:
Giáo lý của phẩm “Xuất Trụ” xoay quanh các pháp mầu Phật
đạo mà câu hỏi của Thiện Hiện đặt ra: Những gì là tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha
tát? Làm thế nào biết được Bồ tát phát tâm hướng đến Đại thừa? Đại thừa như vậy
từ nơi nào ra, đến trụ nơi nào? Đại thừa như vậy trụ ở đâu? Ai lại nương Đại
thừa này mà ra? Kinh mặc dù có trùng tụng, tuy nhiên các câu trả lời chính xác,
thỏa đáng. Hội thứ I thích nghĩa và chiết giải rõ ràng rồi. Ở đây chúng tôi chỉ
nhấn mạnh phần trụ hay chẳng trụ.
Tóm
lược:
1. Phật trả lời câu hỏi thứ hai của Thiện Hiện:
“Đại thừa như vậy từ nơi nào ra, đến trụ nơi
nào?”
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngươi hỏi Đại thừa như vậy từ nơi nào
ra, đến trụ nơi nào?
Thiện Hiện! Đại thừa như vậy từ trong ba cõi mà ra và đến
an trụ trong Nhất thiết trí trí; do vì Nhất thiết trí trí mà hiện ra ba
cõi, nhưng vì không có hai, nên không ra không đến. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa,
hoặc Nhất thiết trí trí, hai pháp như vậy chẳng phải tương ưng, chẳng phải
chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng hữu kiến, chẳng
phải vô kiến, chẳng hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng nhất tướng, chỗ gọi là
vô tướng. Pháp vô tướng không ra không đến. Vì sao? Thiện Hiện! Pháp vô
tướng chẳng đã ra và đã đến, chẳng phải sẽ ra và sẽ đến, chẳng phải đang
ra và đang đến.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến chơn như có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì chơn như
chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến trụ trong Nhất thiết trí
trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì chơn như và tự tánh của chơn như là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng ấy có chỗ ra có chỗ
đến, thì kẻ ấy muốn khiến pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh
chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới
hư không, cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt(1), cảnh giới vô tánh,
cảnh giới vô tướng, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh giới an ổn(2), cảnh
giới tịch tịnh, định pháp, trụ pháp, bổn vô, thật tế, có chỗ ra có chỗ đến. Vì
sao? Vì pháp giới cho đến thật tế chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng
thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì pháp giới và
tánh của pháp giới là không, cho đến thật tế và tánh của thật tế là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến sắc có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì sắc chẳng thể
từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì
sao? Thiện Hiện! Vì sắc và tự tánh của sắc là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến thọ, tưởng, hành, thức có chỗ ra có chỗ đến. Vì
sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng
thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì thọ, tưởng,
hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến 12 xứ, 18 giới có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì 12
xứ, 18 giới chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong
Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì 12 xứ, 18 giới và tự tánh của chúng
là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến nhãn thức giới cho đến ý thức giới cùng các thọ do
ý thức làm duyên sanh ra có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì nhãn thức giới cho
đến các thọ do ý thức làm duyên sanh ra chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng
chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì nhãn thức
giới và tự tánh của nhãn thức giới là không, cho đến các thọ do ý thức làm
duyên sanh ra và tự tánh của các thọ do ý thức làm duyên sanh ra là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến địa giới có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì địa giới
chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết
trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì địa giới và tự tánh của địa giới là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến thủy, hỏa, phong, không, thức giới có chỗ ra có chỗ
đến. Vì sao? Vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thể từ trong tam giới
mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện!
Vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tự tánh của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến Thánh đế khổ, có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì
Thánh đế khổ, chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú
trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ và tự tánh của
Thánh đế khổ là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến Thánh đế tập, diệt, đạo có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì
Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến
an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Thánh đế tập, diệt, đạo
và tự tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến vô minh có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì vô minh
chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết
trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì vô minh và tự tánh của vô minh là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu,
sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì hành cho
đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng
chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì hành và
tự tánh của hành là không, cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não và tự tánh
của lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến sự huyễn có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì sự huyễn
chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết
trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì sự huyễn và tự tánh của sự huyễn là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến cảnh mộng, ảnh tượng, tiếng vang, bóng sáng, hoa đốm giữa
hư không, sóng nắng, ảo thành, sự biến hóa có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì
cảnh mộng cho đến sự biến hóa chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể
đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì cảnh mộng và tự
tánh của cảnh mộng là không, cho đến sự biến hóa và tự tánh của sự biến hóa là
không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến cái không nội có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì cái
không nội chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong
Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì cái không nội và tự tánh cái không
nội là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái
không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không
rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi
khác, cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không
tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không
tự tánh, cái không không tánh tự tánh có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì cái
không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh chẳng thể từ trong tam giới mà
ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì
cái không ngoại và tự tánh của cái không ngoại là không, cho đến cái không
không tánh tự tánh và tự tánh của cái không không tánh tự tánh là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến bố thí Ba la mật có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì
bố thí Ba la mật chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú
trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bố thí Ba la mật và tự tánh
của bố thí Ba la mật là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật
có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã
Ba la mật chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong
Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh
lự, Bát nhã Ba la mật và tự tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát
nhã Ba la mật là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến bốn tịnh lự có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bốn
tịnh lự chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất
thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự và tự tánh của bốn tịnh lự là
không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến bốn vô lượng, bốn định vô sắc có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao?
Vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng
thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bốn vô lượng,
bốn định vô sắc và tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến bốn niệm trụ có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bốn
niệm trụ chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong
Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ và tự tánh của bốn niệm
trụ là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi
đẳng giác, tám chi Thánh đạo có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bốn chánh đoạn
cho đến tám chi Thánh đạo chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến
an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bốn chánh đoạn và tự
tánh của bốn chánh đoạn là không, cho đến tám chi Thánh đạo và tự tánh của tám
chi Thánh đạo là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến pháp môn giải thoát không có chỗ ra có chỗ đến. Vì
sao? Vì pháp môn giải thoát không chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng
thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì pháp môn giải
thoát không và tự tánh của pháp môn giải thoát không là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện có chỗ ra có chỗ
đến. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng thể từ trong tam
giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện
Hiện! Vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tự tánh của pháp môn giải
thoát vô tướng, vô nguyện là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến năm loại mắt, sáu phép thần thông có chỗ ra
có chỗ đến. Vì sao? Vì năm loại mắt, sáu phép thần thông chẳng thể từ trong tam
giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện
Hiện! Vì năm loại mắt, sáu phép thần thông và tự tánh của năm loại mắt, sáu
phép thần thông là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến mười lực của Phật có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì
mười lực của Phật chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú
trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì mười lực của Phật và tự tánh
của mười lực của Phật là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ,
đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng
trí, Nhất thiết tướng trí có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bốn điều không sợ
cho đến Nhất thiết tướng trí chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể
đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bốn điều không sợ
và tự tánh của bốn điều không sợ là không, cho đến Nhất thiết tướng trí và tự
tánh của Nhất thiết tướng trí là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến bậc Dự lưu sanh vào đường ác có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao?
Vì bậc Dự lưu sanh vào đường ác chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng
thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bậc Dự lưu sanh
vào đường ác và tự tánh của bậc Dự lưu sanh vào đường ác là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến bậc Nhất lai sanh lại nhiều lần, bậc Bất hoàn sanh vào Dục
giới, bậc đại Bồ tát sanh ra để tự lợi, bậc A la-hán, Độc giác, Phật đà Chánh
Đẳng Chánh Giác sanh lại đời sau có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bậc Nhất lai
sanh lại nhiều lần cho đến Phật đà Chánh Đẳng Chánh Giác sanh lại đời sau chẳng
thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí
trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bậc Nhất lai sanh lại nhiều lần và tự tánh của bậc
Nhất lai sanh lại nhiều lần là không, cho đến Phật đà Chánh Đẳng Chánh Giác và
tự tánh của Phật đà Chánh Đẳng Chánh Giác là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến Dự lưu hướng, Dự lưu quả có chỗ ra có chỗ đến. Vì
sao? Vì Dự lưu hướng, Dự lưu quả chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng
thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Dự lưu hướng,
Dự lưu quả và tự tánh của Dự lưu hướng, Dự lưu quả là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn
quả, A la hán hướng, A la hán quả, Độc giác hướng, Độc giác quả, Bồ tát, Như
Lai có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì Nhất lai hướng, Nhất lai quả cho đến Như
Lai chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất
thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Nhất lai hướng, Nhất lai quả và tự tánh
của Nhất lai hướng, Nhất lai quả là không, cho đến Như lai và tự tánh của Như
Lai là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến danh tự, giả tưởng, thi thiết, ngôn thuyết có chỗ
ra có chỗ đến. Vì sao? Vì danh tự, giả tưởng, thi thiết, ngôn thuyết chẳng thể
từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì
sao? Thiện Hiện! Vì danh tự, giả tưởng, thi thiết, ngôn thuyết và tự tánh của
danh tự, giả tưởng, thi thiết, ngôn thuyết là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến,
thì kẻ ấy muốn khiến vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi
có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng,
vô vi chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất
thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô
tướng, vô vi và tự tánh của vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô
vi là không.
Thiện Hiện! Do duyên này, nên việc Đại thừa từ trong tam giới
mà ra, đến an trú trong Nhất thiết trí trí, là vô nhị, nên không ra, không đến,
vì là pháp vô tướng, nên không động không chuyển.
2. Câu
hỏi kế tiếp của cụ thọ Thiện Hiện: Đại thừa như vậy trụ ở đâu?
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại thừa mà ông hỏi như vậy trụ ở
đâu?
Thiện Hiện! Đại thừa đó hoàn toàn không có chỗ trụ. Vì
sao? Vì tất cả pháp đều vô sở trụ. Vì sao? Vì trụ xứ tất cả pháp bất khả đắc.
Thiện Hiện! Đại thừa như thế đem vô sở đắc mà làm phương tiện trụ vô sở trụ. (Q.417, ĐBN)
Thiện Hiện! Như pháp giới chẳng trụ chẳng phải chẳng
trụ. Vì sao? Vì tự tánh pháp giới không trụ không chẳng trụ. Vì sao?
Vì tự tánh pháp giới, tự tánh pháp giới không vậy. Đại thừa cũng vậy,
chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Thiện Hiện! Như chơn như, thật tế, bất tư
nghì giới, an ẩn giới, tịch tĩnh giới, đoạn giới, ly giới, diệt giới chẳng trụ
chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh chơn như cho đến tự tánh diệt
giới không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh chơn như, tự tánh chơn
như không; cho đến tự tánh diệt giới, tự tánh diệt giới không vậy. Đại
thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ.
Thiện Hiện! Như sắc chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao?
Vì tự tánh sắc không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh sắc, tự tánh
sắc không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng
trụ. Thiện Hiện! Thọ tưởng hành thức chẳng trụ chẳng phải chẳng
trụ. Vì sao? Vì tự tánh thọ tưởng hành thức không trụ không chẳng
trụ. Vì sao? Vì tự tánh thọ tưởng hành thức, tự tánh thọ tưởng hành thức
không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ.
Thiện Hiện! Như 12 xứ, 18 giới chẳng trụ chẳng phải chẳng
trụ. Vì sao? Vì tự tánh 12 xứ, 18 giới không trụ không chẳng trụ. Vì
sao? Vì 12 xứ, 18 giới tự tánh không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng
phải chẳng trụ.
Thiện Hiện! Như cảnh mộng chẳng trụ chẳng phải chẳng
trụ. Vì sao? Vì tự tánh cảnh mộng không trụ không chẳng trụ. Vì sao?
Vì tự tánh cảnh mộng, tự tánh cảnh mộng không vậy. Đại thừa cũng vậy,
chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Thiện Hiện! Việc huyễn, quáng nắng, tiếng vang,
bóng sáng, hoa đốm giữa hư không, việc biến hóa chẳng trụ chẳng phải chẳng
trụ. Vì sao? Vì tự tánh việc huyễn cho đến biến hóa không trụ không chẳng
trụ. Vì sao? Vì tự tánh việc huyễn cho đến biến hóa, tự tánh việc huyễn
cho đến biến hóa không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng
trụ. (Q.417, ĐBN)
Thiện Hiện! Như bố thí Ba la mật chẳng trụ chẳng phải
chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh bố thí không trụ không chẳng trụ. Vì
sao? Vì tự tánh bố thí, tự tánh bố thí không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng
trụ chẳng phải chẳng trụ. Thiện Hiện! Như tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến,
tĩnh lự, Bát Nhã chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh tịnh
giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã không trụ không chẳng trụ. Vì sao?
Vì tự tánh tịnh giới cho đến Bát Nhã; tự tánh tịnh giới cho đến Bát Nhã không
vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ.
Thiện Hiện! Như nội không chẳng trụ chẳng phải chẳng
trụ. Vì sao? Vì tự tánh nội không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự
tánh nội không, tự tánh nội không không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ
chẳng phải chẳng trụ. Thiện Hiện! Như ngoại không, nội ngoại không, không
không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất tánh không,
vô tế không, tán vô tán không, bổn tánh không, tự cộng tướng không, nhất thiết
pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh
không chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh ngoại không cho
đến vô tánh tự tánh không, không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh
ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không, tự tánh ngoại không cho đến vô tánh
tự tánh không không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng
trụ.
Thiện Hiện! Như 37 pháp trợ đạo chẳng trụ chẳng phải
chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh 37 pháp trợ đạo không trụ không chẳng
trụ. Vì sao? Vì tự tánh 37 pháp trợ đạo, tự tánh 37 pháp trợ đạo không
vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Cho đến Phật
mười lực chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh Phật mười lực
không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh Phật mười lực, tự tánh Phật mười
lực không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải trụ. Thiện
Hiện! Như bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười
tám pháp Phật bất cộng chẳng trụ chẳng phải trụ. Vì sao? Vì tự tánh bốn vô
sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không trụ không chẳng trụ. Vì
sao? Vì tự tánh bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, tự tánh bốn
vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không vậy. Đại thừa cũng vậy,
chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ.
Thiện Hiện! Như bậc Dự lưu sanh đường ác thú chẳng trụ
chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh bậc Dự lưu sanh đường ác thú
không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh bậc Dự lưu sanh đường ác thú, tự
tánh bậc Dự Lưu sanh đường ác thú không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng
phải trụ. Thiện Hiện! Như bậc Nhất lai hằng tái sanh, bậc Bất hoàn sanh
lại cõi Dục, Bồ tát tự lợi sanh, A la hán, Độc giác, Như Lai hậu hữu sanh (sanh
thân đời sau) chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh các
bậc ấy không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh các bậc ấy, tự tánh
các bậc ấy không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải trụ.
Thiện Hiện! Như Dự lưu chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì
sao? Vì tự tánh Dự lưu không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh Dự
lưu, tự tánh Dự lưu không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải
chẳng trụ. Thiện Hiện! Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ tát, Như
Lai chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh các bậc ấy không
trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh các bậc ấy, tự tánh các bậc ấy cũng
không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ.
Thiện Hiện! Như danh tự giả tưởng thi thiết ngôn
thuyết chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh danh tự giả
tưởng thi thiết ngôn thuyết không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh
danh tự giả tưởng thi thiết ngôn thuyết, tự tánh danh tự giả tưởng thi thiết
ngôn thuyết không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ.
Thiện Hiện! Như vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô
tướng vô vi chẳng trụ chẳng phải chẳng chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh
vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi không trụ không chẳng trụ. Vì
sao? Vì tự tánh vô sanh vô diệt cho đến vô tướng vô vi không vậy. Đại thừa
cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ.
Thiện Hiện! Do nhân duyên đây, nên nói Đại thừa tuy vô sở
trụ, mà đem vô nhị làm phương tiện nên trụ vô sở trụ. (Q.417, ĐBN)
3. Câu
hỏi kế của cụ thọ Thiện Hiện là: Ai lại nương Đại thừa này mà ra?
Lại nữa, Thiện Hiện! Ông hỏi “Ai lại nương Đại thừa này mà
ra?”
Thiện Hiện! Không có ai nương Đại thừa này ra. Vì
sao? Vì hoặc sở thừa, hoặc năng thừa, hoặc thời, hoặc xứ, tất cả như thế đều vô
sở hữu bất khả đắc vậy. Vì sao? Vì tất cả pháp đều vô sở hữu, đều bất
khả đắc, làm sao nói được có nương sở thừa, có kẻ năng thừa, thời thừa, xứ
thừa, nên chẳng thể nói thật có kẻ nương Đại thừa này ra. Vì sao? Vì ngã vô sở
hữu bất khả đắc, nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt
ráo thanh tịnh vậy. Như vậy, hữu tình cho đến kiến giả cũng vô sở hữu bất
khả đắc, nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo
thanh tịnh vậy.
Thiện Hiện! Pháp giới vô sở hữu bất khả đắc, nên kẻ
nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy, chơn như,
thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới thảy cũng vô sở hữu bất khả đắc, nên kẻ
nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy.
Thiện Hiện! Sắc vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại
thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Thọ tưởng
hành thức cũng vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả
đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy.
Thiện Hiện! 12 xứ, 18 giới vô sở hữu bất khả đắc nên
kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo tịnh vậy. Bố
thí Ba la mật vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả
đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Tịnh giới, an nhẫn, tinh
tiến, tĩnh lự, Bát Nhã cũng vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng
bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy.
Thiện Hiện! Nội không vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ
nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh
vậy. Ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa
không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán vô tán
không, bổn tánh không, tự cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc
không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không cũng vô sở hữu bất
khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh
vậy.
Thiện Hiện! 37 pháp trợ đạo vô sở hữu bất khả đắc nên
kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Cho
đến Phật mười lực vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả
đắc. Sở dĩ vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Bốn vô sở úy, bốn vô ngại
giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng vô sở
hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo
thanh tịnh vậy.
Thiện Hiện! Bậc Dự lưu vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ
nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh
vậy. Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ tát, Như Lai cũng vô sở
hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo
thanh tịnh vậy.
Thiện Hiện! Quả Dự lưu vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại
thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Nhất lai,
Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, tất cả Bồ tát hạnh, chư Phật Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề cũng vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả
đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí vô sở hữu bất khả đắc nên
kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh
vậy. Đạo tướng trí, Nhất
thiết tướng trí cũng vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả
đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy.
Thiện Hiện! Vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô
vi vô sở hữu khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao?
Vì rốt ráo thanh tịnh vậy.
Thiện Hiện! Quá khứ, vị lai, hiện tại vô sở hữu bất
khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh
tịnh vậy.
Thiện Hiện! Hoặc đi, hoặc đến, hoặc sanh hoặc tử, hoặc tăng
hoặc giảm… vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả
đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Trong đây pháp nào bất khả đắc, nên
nói bất khả đắc?
Thiện Hiện! Trong đây pháp giới bất khả đắc nên nói
bất khả đắc. Chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới thảy cũng bất
khả đắc nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì chơn như, pháp giới… chẳng phải đã
khả đắc, chẳng phải sẽ khả đắc, chẳng phải đang khả đắc, rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Bố thí Ba la mật bất khả đắc nên nói bất
khả đắc. Tịnh giới cho đến Bát Nhã cũng bất khả đắc nên nói bất khả
đắc. Vì sao? Vì bố thí, tịnh giới v.v… chẳng phải đã khả đắc, chẳng phải
sẽ khả đắc, chẳng phải đang khả đắc, rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nội không bất khả đắc nên nói bất khả
đắc. Ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không cũng bất khả đắc, 37 pháp
trợ đạo, Phật mười lực , bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng
bất khả đắc nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì 37 pháp trợ đạo cho đến 18
pháp Phật bất cộng chẳng phải đã khả đắc, chẳng phải sẽ khả đắc, chẳng phải
đang khả đắc, rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Bậc Dự lưu bất khả đắc nên nói bất khả
đắc. Bậc Nhất Lai cho đến Như Lai cũng bất khả đắc nên nói bất khả
đắc. Vì sao? Vì bậc Dự lưu cho đến Như Lai chẳng phải đã khả đắc, chẳng
phải sẽ khả đắc, chẳng phải đang khả đắc, rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô
vi bất khả đắc nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì vô sanh vô diệt thảy
chẳng phải đã khả đắc, chẳng phải sẽ khả đắc, chẳng phải đang khả đắc, rốt ráo
thanh tịnh.
Thiện Hiện! Sơ địa bất khả đắc, nên nói bất khả đắc,
cho đến địa thứ mười cũng bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì sơ địa
v.v... chẳng phải đã khả đắc, chẳng phải sẽ khả đắc, chẳng phải đang khả đắc,
rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Trong đây thế nào là mười địa? Nghĩa là Tịnh quán
địa, Chủng tánh địa, Đệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa,
Độc giác địa, Bồ tát địa, Như Lai địa đó là mười địa.
Thiện Hiện! Sơ địa trong pháp không nội bất khả đắc, nên nói
bất khả đắc. Cho đến sơ địa trong pháp không vô tánh tự tánh bất khả đắc, nên
nói bất khả đắc. Địa thứ hai cho đến địa thứ mười trong pháp không nội bất khả
đắc, nên nói bất khả đắc. Thậm chí địa thứ hai cho đến địa thứ mười trong pháp
không vô tánh tự tánh bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì ở trong đây,
sơ địa v.v... chẳng phải đã khả đắc, chẳng phải sẽ khả đắc, chẳng phải đang khả
đắc, rốt ráo thanh tịnh.
Này Thiện Hiện! Trong pháp không nội giáo hóa hữu tình,
nghiêm tịnh cõi Phật bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Cho đến trong pháp không
vô tánh tự tánh giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì ở trong
đây giáo hóa hữu tình v.v... chẳng phải đã khả đắc, chẳng phải sẽ khả đắc,
chẳng phải đang khả đắc, rốt ráo thanh tịnh.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ tát khi tu hành Bát
Nhã, tuy quán các pháp đều vô sở hữu bất khả đắc, rốt ráo thanh tịnh, không
nương Đại thừa mà xuất trụ. Nhưng đem vô sở đắc làm phương tiện, nương vào Đại
thừa ở trong sanh tử ba cõi mà xuất, đến trụ trong Nhất thiết trí trí, đến tận
đời vị lai làm lợi lạc cho tất cả chúng hữu tình.
Thích nghĩa:
(1). Đoạn giới, ly giới, diệt giới tức đoạn ly diệt
tam giới. Ba giới này đều lấy giải thoát vô vi (trạch diệt vô vi) làm
thể. 1- Đoạn giới: Đoạn trừ 8 kết mà được trạch diệt. 2- Ly giới: Trong 9 kết
[ái (yêu), khuể (giận tức), mạn (ngạo mạn), vô minh (u tối), kiến (tà kiến),
thủ (chấp trước), nghi (ngờ vực), tật (ghen), xan (bỏn xẻn)], lìa tham kết mà
được trạch diệt. 3- Diệt giới: Diệt các phiền não theo 9 kết mà được trạch
diệt. Trên đây là y cứ vào lý
thế tục mà có 3 giới khác nhau, chứ nói theo thực nghĩa thì thể của chúng đều không
khác nhau. Trong đó, Đoạn giới và Ly giới là do đoạn trừ phiền não mà được, còn
Diệt giới là nhờ vào việc diệt hoặc của cảnh sở duyên mà được. Trên đây là
thuyết của Tiểu thừa. Ngoài ra, về danh nghĩa của Tam giới còn có nhiều thuyết,
như luận Đại tì bà sa quyển 29 nói: - Đoạn giới: Đoạn tất cả hành. - Ly giới:
Lìa tất cả hành. - Diệt giới: Diệt tất cả hành. Lại có thuyết cho là: - Đoạn
giới: Đoạn vô minh kết - Ly giới: Đoạn ái kết. - Diệt giới: Đoạn các kết còn
lại. Cũng có thuyết giải thích: - Đoạn giới: Đoạn 8 kết và các phiền não tương
ứng với 8 kết cùng sinh. - Ly giới: Đoạn ái kết và các phiền não tương ứng với
ái kết cùng sinh. - Diệt giới: Đoạn các kết khác và các phiền não tương ứng
cùng sinh. Còn tông Duy thức Đại thừa nói: - Đoạn giới: Đoạn các hành mà Kiến
đạo đoạn. - Ly giới: Lìa các hành mà Tu đạo đoạn. - Diệt giới: Diệt các hành
thuộc sở y. [X. Kinh Tạp a hàm Q.17; luận Đại tì bà sa Q.22; luận Câu xá Q.25;
luận Hiển tông Q.24; luận Du già sư địa Q.27]. (xt. Tam Giới). - Từ điển Phật
Quang.
(2). An ẩn giới: Nguyên văn chữ Hán là “ 安 an 隱 ẩn 界 giới”,
có nghĩa là cảnh giới an ổn. Trong phẩm “Tùy Thuận”, quyển 61, tập 03, Hội thứ
I, có ghi: “… hoặc chơn như, hoặc pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng,
tánh chẳng đổi khác, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới hư không, cảnh giới đoạn,
cảnh giới ly, cảnh giới diệt, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp
trụ, cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô tướng, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh
giới an ổn, cảnh giới tịch tịnh, bổn vô, thật tế, cứu cánh Niết bàn”. An ổn
giới cũng đồng nghĩa với chân như, pháp giới v.v…
Lược
giải:
Quý vị còn nhớ trong Phẩm “Tam Ma Địa”, cụ thọ Thiện
Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Những gì là tướng Đại thừa Bồ tát? Làm thế
nào biết được Đại Bồ tát phát tâm hướng đến Đại thừa? Đại thừa như thế từ chỗ
nào ra, đến trụ chỗ nào? Đại thừa như vậy trụ ở nơi nào? Ai nương vào Đại thừa
này mà xuất ly?
Các câu hỏi này được Phật Thế Tôn trả lời trong bốn
phẩm chia ra như sau:
- Phẩm “Tam Ma Địa” và Phẩm “Niệm Trụ Thảy”, Phật trả lời
câu hỏi: “Những gì là tướng Đại thừa Bồ tát Ma ha tát?”;
- Phẩm “Tu Trị Địa”, Phật trả lời câu hỏi: “Làm thế nào
biết được Bồ tát phát tâm hướng đến Đại thừa?”; và
- Phẩm “Xuất Trụ” này, Phật trả lời câu hỏi chót của Thiện
Hiện: “Đại thừa như vậy từ nơi nào ra, đến trụ nơi nào? Đại thừa như vậy trụ ở
đâu? Ai lại nương Đại thừa này mà ra?”
Đại thừa như vậy từ ba cõi Dục, Sắc và Vô sắc ra? Không có
thế gian thì không có Bồ tát, không có Phật, không có pháp Phật, không có Phật
đạo. Đại thừa như thế xuất ra từ tam giới, nghĩa là Đại thừa thường trụ trong
tam giới. Nhưng người tu Đại thừa không lấy đó làm trụ xứ của mình. Vì
có trụ là có nắm bắt có buông bỏ, có được có mất… tức không tránh nổi sự trói
buộc của nhị nguyên đối đãi hay nói khác là không còn được tự do trong ý chí
hay hành động nữa. Nên Kinh nói "chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ”. Chẳng
trụ là chẳng trụ được mất, có không. Chẳng phải chẳng trụ, vì không nương vào
đó làm phương tiện để học để tu thì làm sao đạt huệ mà dẫn chúng sanh đến bờ
giải thoát. Đó chính là ý nghĩa của câu: “Không mượn chỉ làm sao đưa diều qua
khỏi gió!” Nhưng khi đạt được cứu cánh rồi thì không nên ôm giữ cất dấu. Vì
vậy, mới có câu: “Trụ mà chẳng trụ”. Nên Phật thường bảo: Sang sông thì phải
quên đò, pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
Tất cả pháp đều giả danh, không thật, trên danh nghĩa thì
có nhưng thực thể tức không, tất cả pháp đều như huyễn, như mộng, tất cả đều
không có tự tánh, tất cả đều không sanh không diệt, không nhiễm không tịnh… Bao
nhiêu diễn tả đó mục đích là khuyên chúng sanh đừng trụ chấp trên danh sắc mà
sanh chấp đắm nên không thể giải thoát sanh tử.
Tâm chúng sanh lúc nào cũng sanh khởi, sanh khởi theo hình
sắc danh tướng. Vì vậy mà càng lún sâu vào trầm luân khổ ải. Nên Phật bảo “
Đừng bám trụ mà sanh tâm”. Có như vậy, mới không bị lay chuyển, trói
buộc hay nói khác có như vậy mới làm chủ trọn vẹn chính mình.
Trong Bát Nhã Bát thiên tụng, có câu “Tâm Như Lai
không trụ bất kỳ đâu, không trụ trên các pháp hữu vi, không trụ trên các pháp
vô vi, và do đó không rời sở trụ”. Trong Kinh Duy Ma cũng có đoạn “Bồ
đề không trụ, do đó không chứng” hay “nương theo cội nguồn không
trụ mà hết thảy các pháp được thành lập”. Và trong Kinh Lăng Nghiêm lại
nói “Những vị Bồ tát như thế lấy tất cả cõi Phật làm trụ xứ, nhưng không
dính mắc vào trụ xứ này, vì vốn không thể chứng, không thể thấy”. Kinh Bát
nhã Ba la mật thường nói theo lối phủ định “Pháp của Như Lai nói vốn bất
khả đắc, không chướng ngại như hư không, không dấu vết, pháp đó vượt ngoài tất
cả những hình thức đối nghịch, pháp không đối đãi, pháp vượt ngoài sanh tử,
pháp không đường để đến đi. Pháp đó chỉ chứng được với những ai theo Như Lai vì
tùy thuận với Chân như. Bởi vì Chân như vốn không sanh khởi, vượt ngoài đến đi,
thường trú, không biến dịch, không phân biệt, tuyệt đối độc nhất không có dấu
vết của tâm đạo v.v…”.
Vì vậy, Thiền sư D.T. Suzuki viết như sau:
“… Khi chúng ta bảo rằng trụ xứ của Bồ tát quả thực không có
trụ xứ, rằng Bồ tát cố định ở chỗ không cố định, rằng các Ngài lang thang hay
lơ lửng như một cụm mây trời không cần có hậu cứ, nói như thế có vẻ như không
nói gì hết. Nhưng đó là đường lối mà các nhà Đại thừa Phật giáo đã luyện tập
trong đời sống hành đạo của các Ngài; không thể áp dụng những định luật tiêu
biểu của pháp thức suy luận vào đó!”
Để kết luận, Phật bảo:
“Đại thừa đó hoàn toàn không có chỗ trụ. Vì sao? Vì tất cả
pháp đều vô sở trụ. Vì sao? Vì trụ xứ tất cả pháp bất khả đắc. Thiện Hiện! Đại
thừa như thế đem vô sở đắc mà làm phương tiện trụ vô sở trụ.
(…)Do nhân duyên đây, nên nói Đại thừa tuy vô sở trụ, mà đem
vô nhị làm phương tiện nên trụ vô sở trụ”. (Q.417,
ĐBN)
Như vậy, ai là người nương Đại thừa mà ra?
Phật bảo: “Không có ai nương Đại thừa này ra. Vì sao? Vì
hoặc sở thừa, hoặc năng thừa, hoặc thời, hoặc xứ, tất cả như thế đều vô sở hữu
bất khả đắc vậy. Vì sao? Vì tất cả pháp đều vô sở hữu, đều bất khả đắc,
làm sao nói được có nương sở thừa, có kẻ năng thừa, thời thừa, xứ thừa, nên
chẳng thể nói thật có kẻ nương Đại thừa này ra. Vì sao? Vì ngã vô sở hữu bất
khả đắc, nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh
tịnh vậy. Như vậy, hữu tình cho đến kiến giả cũng vô sở hữu bất khả đắc,
nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy”.
Kết
luận:
Ba cõi đều không, nhất thiết pháp cũng không, đại thừa vô
sở hữu bất khả đắc, không thể nắm bắt được thì còn có chỗ nào để bám trụ? Vì
vậy, nên nói Đại thừa vô sở trụ và như thế không ai có thể nương vào Đại thừa
để xuất trụ. Bồ tát nương vào Đại thừa để tu giống như chim xí, nương vào hư
không mặc tình bay lượn, mà không bị câu ngại bởi hư không!
Tới đây mọi người mới hiểu câu chuyện đốn ngộ thời danh
của Lục tổ Huệ Năng khi nghe câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” trong Kinh Kim Cương mà tìm đường đến
thôn Hoàng mai thọ giáo Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, rồi sau đó được trao y bát trở thành
Tổ thứ sáu của dòng Thiền chánh tông truyền thừa từ thời Phật.
---o0o---