Thứ Hai, 7 tháng 6, 2021

Hội thứ II - 11. Phẩm “Thí Dụ”

 


Nguồn:  https://quangduc.com/


PHẨM “THÍ DỤ”

 

Đầu quyển 411, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương phẩm “Bồ Tát”, quyển 45 trở đi, Hội thứ I, ĐBN)

 

Tóm lược:

 

(1. Thế nào gọi là cú nghĩa của Bồ tát?)

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là cú nghĩa(1) Bồ Tát?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Không cú nghĩa là cú nghĩa của Bồ tát. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì cả hai danh từ Bồ đề, Tát đỏa đã không sanh, nên nghĩa lý trong đó cũng chẳng có. Không có cú nghĩa là cú nghĩa của Bồ tát. Ông nên biết, ví như trong không gian, cú nghĩa dấu chim thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế, thật vô sở hữu. Ví như cú nghĩa cảnh mộng, việc huyễn, ánh nắng, bóng sáng, trăng dưới nước, tiếng vang, hoa đốm giữa hư không, trò biến hóa thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế, thật vô sở hữu.

Thiện Hiện phải biết: Như cú nghĩa tất cả pháp chơn như thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Như cú nghĩa tất cả pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.

Thiện Hiện phải biết: Cú nghĩa sắc như huyễn nhân thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa thọ tưởng hành thức như huyễn nhân thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa mười hai xứ, mười tám giới như huyễn nhân thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa vô minh như huyễn nhân thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử như huyễn nhân thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa tu hành nội không cho đến vô tánh tự tánh không như huyễn nhân thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa tu hành ba mươi bảy pháp trợ đạo, cho đến Phật mười lực như huyễn nhân thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa tu hành bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng như huyễn nhân thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.

Lại nữa, Thiện Hiện! Cú nghĩa sắc như Phật thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.  Cú nghĩa thọ tưởng hành thức như Phật thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa mười hai xứ, mười tám giới như Phật thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa vô minh như Phật thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử như Phật thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa hành nội không cho đến vô tánh tự tánh không như Phật thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa hành ba mươi bảy pháp trợ, Phật mười lực như Phật thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Cú nghĩa hành bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng như Phật thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.

Lại nữa, Thiện Hiện! Như cú nghĩa vô vi giới trong hữu vi giới thật vô sở hữu, cú nghĩa hữu vi giới trong vô vi giới cũng thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Như cú nghĩa vô sanh vô diệt, vô tác vô vi, vô thành vô hoại, vô đắc vô xả, vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Như thế nào gọi là cú nghĩa pháp vô sanh vô diệt, vô tác vô vi, vô thành vô hoại, vô đắc vô xả, vô nhiễm, vô tịnh… thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Như cú nghĩa sắc cho đến thức vô sanh vô diệt, vô tác vô vi, vô thành vô hoại, vô đắc vô xả, vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Như cú nghĩa 12 xứ, 18 giới vô sanh vô diệt, vô tác vô vi, vô thành vô hoại v.v… thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Như cú nghĩa vô minh cho đến lão tử vô sanh vô diệt, vô tác vô vi, vô thành vô hoại v.v… thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Như cú nghĩa 37 pháp trợ đạo, Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô sanh vô diệt, vô tác vô vi, vô thành vô hoại v.v… thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu.

Lại nữa, Thiện Hiện! Như cú nghĩa bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi rốt ráo tịnh thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Như vậy cho đến như cú nghĩa Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng rốt ráo tịnh thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Như cú nghĩa ngã cho đến kiến giả rốt ráo tịnh thật vô sở hữu. Vì vô sở hữu nên cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. 

Như cú nghĩa khi trời mọc, tối tăm thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Như cú nghĩa khi kiếp tận, các hành thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Như cú nghĩa các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, ác giới trong nhóm tịnh giới thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Như cú nghĩa các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, loạn tâm trong nhóm định tĩnh thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Như cú nghĩa các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, ác huệ trong nhóm minh huệ thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Như cú nghĩa các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, trói buộc trong nhóm giải thoát thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Như cú nghĩa các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, phi giải thoát tri kiến trong nhóm giải thoát tri kiến thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Như cú nghĩa các tối tăm trong nhật nguyệt thảy, đại quang minh thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. Như cú nghĩa sáng chói của tất cả nhật nguyệt, tinh ngọc(2), hỏa dược(3) và các trời(4) thảy trong Phật quang thật vô sở hữu; cú nghĩa Bồ tát cũng lại như thế thật vô sở hữu. 

Vì sao? Thiện Hiện! Hoặc Bồ đề, hoặc Tát đỏa, hoặc Bồ tát, cú nghĩa như thế tất cả đều chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Thiện Hiện! Chư Bồ tát đối tất cả pháp đều chẳng phải thật có, không chấp không ngại, phải siêng tu học, nên chính giác biết.

 

(2. Thế nào gọi là tất cả pháp?)

 

Cụ thọ Thiện Hiện liền thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát đối với những pháp nào đều chẳng phải thật có, không chấp không ngại, phải siêng tu học? Các Bồ tát làm sao đối tất cả pháp nên chính giác biết?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp là thiện pháp, phi thiện pháp, hữu ký pháp, vô ký pháp, thế gian pháp, xuất thế gian pháp, hữu lậu pháp, vô lậu pháp, hữu vi pháp, vô vi pháp, cộng pháp, bất cộng pháp. Các Bồ tát đối với tánh tất cả pháp như thế thảy không chấp không ngại, phải siêng tu học. Chư Bồ tát đối tất cả pháp thật vô sở hữu(6) nên chính giác biết.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Những pháp nào gọi là thiện pháp thế gian?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nói thiện pháp thế gian là hiếu thuận cha mẹ, cúng dường Sa môn, Bà la môn, kính thờ Sư trưởng, việc thí tánh phước nghiệp, việc giới tánh phước nghiệp, việc tu tánh phước nghiệp; cứu giúp kẻ bệnh hoạn cùng nhau hành phước, phương tiện khéo léo cùng nhau hành phước, mười thiện nghiệp đạo thế gian. Hoặc tưởng sình trướng, tưởng mủ thối, tưởng sanh bầm, tưởng khác đỏ, tưởng biến nát, tưởng mổ nuốt, tưởng rời tan, tưởng hài cốt, tưởng đốt cháy(5). Hoặc thế gian bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Hoặc Phật tùy niệm, Pháp tùy niệm, Tăng tùy niệm, giới tùy niệm, xả tùy niệm, thiên tùy niệm, vắng lặng tùy niệm, thở vào ra tùy niệm, thân tùy niệm, chết tùy niệm. Thiện Hiện! Thảy đấy gọi là thiện pháp thế gian.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Những pháp nào gọi là bất thiện pháp?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nói bất thiện pháp là: Hại sanh mạng, lấy chẳng cho, hành dục tà, lời dối gạt, lời chia rẽ, lời thô ác, lời tạp uế, tham dục, giận dữ, tà kiến và hờn căm, che não, dua nịnh, kiêu hại, ganh, xan, mạn thảy.  Thiện Hiện! Thảy đấy gọi là bất thiện pháp.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Những pháp nào là hữu ký pháp?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Tức là các thiện pháp và bất thiện pháp, gọi hữu ký pháp.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Những pháp nào gọi là vô ký pháp(6)?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Là thân nghiệp vô ký, ngữ nghiệp vô ký, ý nghiệp vô ký, bốn đại chủng vô ký, năm căn vô ký, năm uẩn vô ký, mười hai xứ vô ký, mười tám giới vô ký, pháp dị thục vô ký. Thiện Hiện! Thảy đấy gọi là vô ký pháp.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Những pháp nào gọi là thế gian pháp?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Là thế gian năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, mười nghiệp đạo, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, mười hai nhánh duyên khởi pháp. Thiện Hiện! Thảy đấy gọi là thế gian pháp.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Những pháp nào gọi là pháp xuất thế gian?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Là xuất thế gian: Bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám Thánh đạo chi. Không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Căn chưa biết, căn sẽ biết, căn đã biết, căn đủ biết, tam ma địa có tầm có tứ, tam ma địa không tầm chỉ tứ, tam ma địa không tầm không tứ; hoặc vô minh, hoặc giải thoát, hoặc niệm, hoặc chính tri, hoặc tác ý như lý; hoặc tám giải thoát, hoặc chín định thứ lớp;  hoặc nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không; hoặc Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Thiện Hiện! Thảy đấy gọi là pháp xuất thế gian.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Những pháp nào gọi là hữu lậu pháp?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Là đọa tam giới, hoặc năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới. Hoặc bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Thiện Hiện! Thảy đấy gọi là hữu lậu pháp.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Những pháp nào gọi là vô lậu pháp

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Là bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Thiện Hiện! Thảy đấy gọi là vô lậu pháp.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Những pháp nào gọi là hữu vi pháp

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Là pháp buộc ba cõi, như năm uẩn. Như bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định.  Như bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Thiện Hiện! Thảy đấy gọi là hữu vi pháp.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Những pháp nào gọi là vô vi pháp

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nếu pháp vô sanh vô diệt, vô trụ vô dị, hoặc hết tham, hết sân, hết si; như chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế. Thiện Hiện! Thảy đấy gọi là vô vi pháp.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Những pháp nào gọi là cộng pháp

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Là thế gian bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, năm thần thông. Thiện Hiện! Thảy đấy gọi là cộng pháp, vì cộng dị sanh (pháp tu chỉ dành cho thường phu) vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Những pháp nào gọi là bất cộng pháp

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Là bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Thiện Hiện! Thảy đấy gọi là bất cộng pháp, vì bất cộng với dị sanh vậy.

Thiện Hiện! Các Bồ tát khi tu hành Bát Nhã đối pháp như thế thảy tự tướng không, chẳng nên chấp đắm, vì tất cả pháp vô phân biệt vậy. Thiện Hiện! Các Bồ tát khi tu hành Bát Nhã đối tất cả pháp đem vô nhị làm phương tiện, nên chính giác biết, vì tất cả pháp đều vô động vậy. Thiện Hiện! Đối tất cả pháp vô nhị vô động là cú nghĩa Bồ tát; vô phân biệt vô chấp trước là cú nghĩa Bồ tát. Vì đấy nên vô cú nghĩa là cú nghĩa Bồ tát.

 

(3. Như thế nào thì được gọi là Bồ tát Ma Ha Tát?)

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Duyên nào Bồ tát lại gọi Ma ha tát?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Do Bồ tát này đối trong chúng đại hữu tình sẽ làm thượng thủ nên lại gọi Ma ha tát.

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao gọi là chúng đại hữu tình mà Bồ tát trong ấy được làm thượng thủ?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Là trụ chủng tánh Đệ bát, Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác và từ sơ pháp tâm cho đến bậc Bất thối chuyển Bồ tát Ma ha tát. Như vậy đều gọi chúng đại hữu tình, Bồ tát đối trong chúng đại hữu tình này sẽ làm thượng thủ nên lại gọi Ma ha tát.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Như vậy Bồ tát bởi duyên nào năng đối chúng đại hữu tình sẽ làm thượng thủ?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Do Bồ tát này đã phát tâm Kim cương dụ bền chắc, quyết định chẳng lui hoại. Vậy nên năng đối chúng đại hữu tình sẽ làm thượng thủ.

Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi Bồ tát tâm Kim cương dụ? 

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nếu Bồ tát phát tâm như vầy: “Ta nay phải mặc áo giáp đại công đức, với trong đồng nội lớn rộng vô biên sanh tử, vì các hữu tình diệt tận tất cả oán địch phiền não. Ta phải khắp vì tất cả hữu tình làm khô hết biển cả vô biên sanh tử, ta phải vất bỏ tất cả thân, của vì các hữu tình làm đại nhiêu ích, ta phải tâm bình đẳng lợi ích an vui tất cả hữu tình. Ta phải khắp khiến các loại hữu tình dạo đạo Tam thừa tới vào Niết bàn, ta phải dù đem Tam thừa tế độ tất cả hữu tình mà đều chẳng thấy có một hữu tình được ta diệt độ. Ta phải giác liễu tất cả pháp tánh vô sanh vô diệt, vô tịnh vô nhiễm. Ta phải thuần đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí tu hành sáu pháp Ba la mật. Ta phải tu học đối tất cả pháp thông suốt rốt ráo khắp vào diệu trí. Ta phải thông suốt tất cả pháp tướng nhất lý thú môn, ta phải thông suốt tất cả pháp tướng nhị lý thú môn, ta phải thông suốt tất cả pháp tướng đa lý thú môn và ta phải tu học các thứ diệu trí, thấu rõ các pháp tánh để dẫn pháp thắng công đức”. Thiện Hiện! Đấy gọi Bồ tát tâm Kim cương dụ. Nếu Bồ tát đem vô sở đắc mà làm phương tiện an trụ tâm này quyết định năng đối chúng đại hữu tình sẽ làm thượng thủ.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát phát tâm như vầy: “Các loại hữu tình đang chịu khổ não trong tất cả địa ngục, bàng sanh, quỷ giới và người, trời, ta phải chịu thay khiến chúng an vui”. Các Bồ tát phát tâm như vầy: “Ta vì làm nhiêu ích tất cả hữu tình, nên trải qua vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức kiếp chịu nhiều thứ khổ nặng nề trong các địa ngục, dùng vô số phương tiện giáo hóa khiến được vô dư Niết bàn”. Như vậy thứ lớp khắp vì làm nhiêu ích tất cả hữu tình, vì kia mỗi mỗi đều trải vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức kiếp chịu nhiều thứ khổ nặng nề nơi các địa ngục, mỗi mỗi đều đem vô số phương tiện giáo hóa khiến được vô dư Niết bàn. Làm việc này rồi tự trồng căn lành, lại trải vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức kiếp viên mãn tu nhóm tư lương Bồ đề, nhiên hậu mới chứng sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Thiện Hiện! Thề nguyện như thế cũng gọi tâm Bồ tát Kim cương dụ. Nếu Bồ tát đem vô sở đắc mà làm phương tiện an trụ tâm này, quyết định năng đối chúng đại hữu tình sẽ làm thượng thủ.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát hằng thường phát khởi thắng tâm, đại tâm. Do tâm này quyết định đối chúng đại hữu tình sẽ làm thượng thủ.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Như thế nào gọi thắng tâm, đại tâm của Bồ tát?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các Bồ tát phát tâm như vầy: “Ta nên từ sơ phát tâm cho đến chứng được Nhất thiết trí trí, quyết định chẳng khởi tâm tham dục, giận dữ, ngu si, hờn căm, che não, dua gạt, ganh, xan, kiêu, hại, tà kiến, mạn thảy, cũng quyết định chẳng khởi tâm cầu Thanh văn và Độc giác”. Đấy là Bồ tát thắng tâm đại tâm. Nếu Bồ tát đem vô sở đắc mà làm phương tiện an trụ tâm này, quyết định đối chúng đại hữu tình sẽ làm thượng thủ.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát phát khởi tâm quyết định chẳng nghiêng động.  Do tâm này nên quyết định năng đối chúng đại hữu tình sẽ làm thượng thủ. 

Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Như thế nào gọi là tâm chẳng nghiêng động của Bồ tát?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các Bồ tát phát tâm như vầy: Ta cần phải nương tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, tu tập phát khởi tất cả sự nghiệp sở tu, sở tác mà chẳng kiêu lung. Thiện Hiện! Đấy là tâm Bồ tát chẳng nghiêng động. Nếu Bồ tát đem vô sở đắc mà làm phương tiện an trụ tâm này, quyết định năng đối chúng đại hữu tình sẽ làm thượng thủ.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát khắp đối tất cả các loại hữu tình bình đẳng phát khởi tâm chơn lợi lạc.  Do tâm này nên quyết định năng đối chúng đại hữu tình sẽ làm thượng thủ.  

Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là tâm chơn lợi lạc của Bồ tát?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các Bồ tát phát tâm như vầy: Ta phải quyết định cùng đời vị lai lợi ích an vui tất cả hữu tình, vì làm chỗ cồn bãi, nhà cửa, về nương thường chẳng bỏ lìa. Thiện Hiện! Đấy là tâm chơn lợi lạc của Bồ tát. Nếu Bồ tát đem vô sở đắc mà làm phương tiện an trụ tâm này, quyết định năng đối chúng đại hữu tình sẽ làm thượng thủ.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát tu hành Bát Nhã thường siêng tinh tiến ái pháp, lạc pháp, hân pháp, hỷ pháp. Do nhân duyên này quyết định đối chúng đại hữu tình sẽ làm thượng thủ. 

Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Những gì là pháp? Sao là Bồ tát khi tu hành Bát Nhã thường đối pháp này ái lạc hân hỷ?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đã nói pháp ấy là sắc, phi sắc đều vô tự tánh, đều bất khả đắc, chẳng khá phá hoại, chẳng khá phân biệt được, đấy gọi là pháp. Nói ái pháp ấy là đối pháp này khởi muốn mong cầu. Nói lạc pháp ấy là đối pháp này xưng khen công đức. Nói hân pháp ấy là đối pháp này vui mừng tín thọ.  Nói hỷ pháp ấy là đối pháp này mến nhiều tu tập, gần gũi yêu trọng. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc mà làm phương tiện, thường năng ái pháp, lạc pháp, hân pháp, hỷ pháp như thế mà chẳng kiêu cử, quyết định năng đối chúng đại hữu tình sẽ làm thượng thủ.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát tu hành Bát Nhã, đem vô sở đắc mà làm phương tiện an trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Tu bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, Bồ tát này quyết định năng đối chúng đại hữu tình sẽ làm thượng thủ.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát tu hành Bát Nhã, đem vô sở đắc mà làm phương tiện trụ Kim cương dụ Tam ma địa, cho đến trụ Vô trước vô vi vô nhiễm giải thoát như hư không Tam ma địa, Bồ tát này do nhân duyên đây quyết định đối chúng đại hữu tình sẽ làm thượng thủ.

Thiện Hiện! Nhờ nhiều thứ nhân duyên như thế thảy, các Bồ tát quyết định đối chúng đại hữu tình sẽ làm thượng thủ. Vậy nên Bồ tát lại gọi Ma ha tát.

 

Thích nghĩa:

(1). Cú nghĩa: Ý nghĩa đích thực. Nhất cú, đệ nhất cú, hay tối sơ cú, mạt hậu cú là câu nói tối hậu, là câu nói hàm ẩn tất cả diệu lý Phật, ai hiểu được thì thoát ly tất cả nghiệp báo và chứng đạo tức thì. Đó là lối giải thích đơn giản của từ cú nghĩa. Theo từ điển Phật Quang “cú nghĩa là nguyên lý chỉ đạo hay phạm trù quyết định, dùng để trình bày thực thể thuộc tánh và nguyên lý sanh thành, hoại diệt của tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ”. Thí dụ: 10 nguyên lý: Thực, đức, nghiệp, đồng, dị, hòa hợp, hữu năng, vô năng, câu phân, vô thuyết, chi phối hoàn toàn tất cả pháp. Tương truyền, Tổ sáng lập ra tông Thắng Luận là Ưu Lâu Già (Phạm: Ulùka) từng soạn Kinh Thắng Luận, trở thành Thánh điển căn bản của phái nầy, trong kinh nêu ra 6 cú nghĩa: Thực, đức, nghiệp, đồng, dị và hòa hợp, đồng thời cho rằng từ chân trí của 6 cú nghĩa sanh ra các pháp, đó là tông nghĩa của phái này. Đến khoảng thế kỷ V, VI, Luận sư Tuệ Nguyệt (Phạm: Mati-candra) của phái này mới soạn luận và mở rộng 6 cú nghĩa thành 10 cú nghĩa, bàn rộng về yếu chỉ của Thắng luận, gọi là Thắng tông thập cú nghĩa luận. Các cú nghĩa như thực, đức, nghiệp, đồng, dị, hòa hợp thuộc về cú nghĩa Hữu (có), còn Vô thuyết (cú nghĩa thứ 10) thì thuộc về cú nghĩa Phi hữu (chẳng phải có). Bát Nhã thiên không, nên cú nghĩa Vô thuyết có lẽ hợp với phẩm này. Học phái Thắng nghĩa có nêu 5 thứ thắng nghĩa Vô thuyết đáng chú ý như sau: 1-Vị sanh vô (Phạm: Pràg-abhàva): Các nhân duyên Thực, Đức, Nghiệp không đầy đủ nên vẫn chưa sanh ra. 2-Dĩ diệt vô (Phạm: Pradhavaô= sàbhàva): Các nhân duyên Thực, Đức, Nghiệp hoặc vì thế lực của nhân đã hết, hoặc do trái duyên mà sanh, nên mặc dù đã sanh thành nhưng cuối cùng cũng sẽ hoại diệt, không tồn tại được. 3-Cánh hỗ vô (Phạm: Anyonyàbhàva): Các nhân duyên Thực (đất, nước, lửa, gió, không, thời gian, phương sở, ngã, ý), Đức, Nghiệp... chẳng tồn tại lẫn cho nhau. 4-Bất hội vô: Hữu tánh và các nhân duyên Thực, Đức, Nghiệp... không hòa hợp nhau, cho nên rốt cuộc không có. 5-Tất cánh vô (Phạm:Atyantàbhàva): Vì không có nhân nên trong 3 thời quá khứ, hiện tại và vị lai đều không sanh khởi, tức là từ đầu đến cuối đều chẳng có, tuyệt đối không tồn tại.

(2). Tinh ngọc: Ngọc tuyền, phát ánh sáng tự nhiên.

(3). Hỏa dược: Thuốc dẫn lửa như pháo bông, thuốc súng…

(4). Các trời: Tức nói đến hào quang của các chư thiên.

Cả ba (2), (3), (4) đều có thể phát ánh sáng nhưng ánh sáng đó không thể nào sánh bằng hào quang của chư Phật.

(5). Ý nói đến pháp quán gọi là Cửu tưởng quán hay quán “lâm thi”. Người tu pháp quán này thường vào rừng để quan sát tử thi do thân nhân vứt ở ven rừng (theo tục lệ Ấn độ khi xưa), quan sát sự biến hoại của nhục thể qua chín giai đoạn từ lúc sình cho đến lúc chỉ còn xương trắng rơi rụng tan tác khắp nơi, để đối trị bệnh tham dục. Đã chú thích rồi. Nay lặp lại để nhớ.

(6). Pháp vô ký: Các pháp không thuộc về thiện hay bất thiện.

 

u ý: Quí vị có thể quay lại phẩm “Bồ tát”, từ quyển thứ 45 trở đi của Hội thứ I, ĐBN để xem lại thích nghĩa và lược giải cho phẩm này.

 

Thay lời lược giải:

 

Phẩm này chia làm ba phần nói về ba vấn đề khác nhau: 1. Nói về cú nghĩa Bồ tát, 2. Nói về các loại pháp và 3. Thế nào mới được gọi là đại Bồ tát hay thế nào là Bồ tát Ma ha tát? Phần thứ 1. và thứ 2. được chiết giải trong phẩm “Bồ Tát” ở Hội thứ I rồi.

- Để hiểu thế nào là cú nghĩa của Bồ tát, chúng tôi lấy phần chiết giải của phẩm “Bồ Tát” trong Hội thứ I, trình bày lại để quý vị nắm vững vấn đề:

Y cứ vào một phạm trù nào đó dầu nó là một học thuyết, một chủ trương, một tôn chỉ… làm sở y để đạt sở nguyện thì việc y cứ đó cũng trở thành một thứ trói buộc, từ đây tâm không còn tự do nữa, và hành giả sẽ trở thành một kẻ thừa hành, một tên nô lệ hơn là một tác chủ. Vì vậy, Kinh nói không cú nghĩa mới là cú nghĩa của Bồ tát. Bồ tát hành những hạnh khó hành, nhưng hành như vô sự, vì Bồ tát từ chối không tùy thuộc vào sở hành. Bồ tát không tuân thủ bất cứ một định luật, một tôn chỉ nào, cả đến trụ trong Bát Nhã nhưng cũng không lệ thuộc Bát Nhã, vì Bát Nhã hay Tánh Không cũng vô s hữu bất khả đắc, chỉ do công năng hay diệu dụng của trí Bát Nhã nẩy sanh những phương tiện lực và bằng những phương tiện lực đó mà Bồ tác thực hiện những công hạnh khó hành (năng hành nan hành) mang lợi ích cho chúng sinh. Như thế cú nghĩa cũng chẳng mang lại lợi ích gì, nó cũng chỉ là ngôn thuyết, do tưởng mà sanh.

Chỉ một câu nói “nhất cú tiệt lưu vạn cơ tẩm sảo”(一句截流萬機寢削): Một câu dứt dòng, muôn cơ dẹp hết. Chỉ một câu thôi mà có thể giải thích hết càn khôn vũ trụ là điều không thể nào có được. Vậy ta phải làm sao? Bây giờ, là phải gạt hết tất cả, không nói tới nhất cú, nhị cú, tứ cú… mà là “không cú” mới chính là cú nghĩa của Bồ tát. Đó là ý nghĩa đại cương của phẩm này.

Câu chuyện sau đây nói lên “ý” của cú nghĩa:

Tác thứ 19 Bích Nham Lục có ghi rằng: Câu Chi Hòa thượng là người Kim Hoa Sơn thuộc Vụ Châu. Thuở xưa khi Ngài còn ở trong thảo am, có một vị Ni tên là Thực Tế đến am của Sư. Đến nơi vị Ni này bước thẳng vào bên trong, không buồn cởi nón ra mà chỉ cầm tích trượng đi quanh giường Thiền của Sư ba vòng rồi nói: “Nếu Thầy nói được thì tôi cởi nón”. Hỏi như thế ba lần, Câu Chi không trả lời được. Vị Ni bèn bỏ đi. Câu Chi vội ngăn: “Trời cũng đã tối rồi, cô nghỉ lại một đêm không muộn”. Vị Ni lại nói: "Nếu Thầy nói được tôi sẽ nghỉ lại”. Câu Chi thở dài nói: “Ta tuy thân là bậc trượng phu mà mất khí khái của bậc trượng phu”. Rồi phát quẫn nhất định tìm hiểu vấn đề. Sau đó Sư bèn nghĩ đến việc đốt am đi khắp nơi để tham vấn các thiện tri thức, cho nên chuẩn bị sẵn sàng lên đường hành cước. Đêm đó sơn thần hiện lên và nói với Sư rằng: “Thầy không cần phải rời nơi này, ngày mai sẽ có một vị Bồ tát bằng xương bằng thịt đến thuyết pháp cho Thầy”. Hôm sau quả nhiên Thiên Long Hòa thượng đến am của Sư. Câu Chi bèn tiếp đón với đầy đủ nghi lễ và kể chuyện hôm trước. Thiên Long chỉ dơ một ngón tay lên cho Câu Chi. Câu Chi thoát ngộ!

Trong am của Câu Chi có một đồng tử. Trong khi Câu Chi đi vắng có người đến hỏi đồng tử: “Bình thường Hòa thượng của chú dùng phương pháp gì để dạy người?” Đồng tử dơ ngón tay lên. Lúc Câu Chi về đồng tử thuật lại sự việc như thế. Câu Chi lấy dao cắt ngón tay của đồng tử. Đồng tử vừa chạy vừa kêu la ầm ỹ. Câu Chi gọi đồng tử, đồng tử quay đầu lại, Câu Chi bèn đưa ngón tay lên, đồng tử thoát nhiên hiểu thấu. Thử xem đồng tử hiểu được đạo lý gì vậy? Lúc sắp mất, Câu Chi dạy chúng rằng: “Ta đắc nơi Thiên Long một ngón tay Thiền suốt đời dùng không hết. Các ông có muốn hiểu chăng?” Rồi dơ ngón tay lên mà mất.

Để giải thích chỗ này chúng tôi xin lạm bàn: Tới chỗ này mới biết: Đừng nghĩ tưởng một hạt bụi gom cả trời đất hay cả trời đất chỉ thu vào một hạt bụi? Trên đầu một ngón tay gồm thâu tất cả Tam thiên đại thiên, hoặc tất cả Tam thiên đại thiên thâu nhỏ trên đầu một ngón tay? Vị Ni muốn Câu Chi nói một câu, chỉ một câu mà có thể giải quyết hết thảy mọi vấn đề của nhân sinh và vũ trụ. Câu đó chính là cú nghĩa, cái nghĩa cùng tột của tất cả nghĩa. Quả thật mắc mỏ! Câu Chi giận mình không làm được và quyết định đốt am lên đường hành cước. Thiên Long Hòa thượng xuất hiện, đưa một ngón tay lên, Câu Chi đại ngộ. Rồi từ đó nếu có bất cứ ai hỏi gì về đạo, Câu Chi trả lời bằng cách đưa ngón tay lên! Ngón tay đó là cú nghĩa, đủ giải thích toàn thể vũ trụ, có phải vậy không? Nếu không hiểu Câu Chi sẽ giải thích cho. Thử đoán coi nếu Câu Chi còn sống thêm một kiếp hay một kiếp hơn, Câu Chi sẽ giải thích ra sao? Câu Chi lại đưa một ngón tay lên! Thật kỳ đặc!

Ngón tay đó không có gì bí nhiệm cả, nó hoàn toàn là nó, nó không liên hệ gì tới một nguyên lý chỉ đạo tương đối hay tuyệt đối hay phạm trù quyết định, dùng để trình bày thực thể thuộc tính về ssinh thành hay hoại diệt của tất cả mọi hiện tượng vũ trụ. Ngón tay dựng lên của Câu Chi cũng không phải biểu thị cái nhất thể của vạn pháp, mà cũng không phải là Đệ nhất nghĩa đế. Nó là nó. Nó như vậy bởi vì nó như vậy, “pháp nhĩ như thị”. Thiền sư D.T. Suzuki nói: “Khi thấy ngón tay đưa lên đó, nếu các Ngài chỉ cần chớm khởi là đã rơi ngay vào vực thẩm tuyệt mù không đáy!”

Phải! Nói về cứu cánh hay đòi hỏi một cái gì tuyệt đối là rơi vào vực thẩm tuyệt mù không đáy. Tất cả sự thật phơi bày trước mắt, nó là nó, là như… giản dị thế thôi. Đừng nghĩ tưởng gì khác! Nhất niệm khởi trần lao dậy sóng!

 

- Phần thứ 2. Với câu hỏi thế nào là các pháp?

Đó là tất cả pháp ấy là pháp thiện, pháp phi thiện, pháp hữu ký, pháp vô ký, pháp thế gian, pháp xuất thế gian, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp hữu vi, pháp vô vi, pháp cộng, pháp bất cộng. Đấy gọi là tất cả pháp. Các đại Bồ tát đối tất cả pháp này đều vô sở hữu, vô ngại, vô trước, cần học nên biết!”

Kinh đã giải thích quá rõ, vả lại trong phần thứ I Tổng luận đã giải thích tỉ mỉ nên chúng tôi không lặp lại nữa.

 

- Phần thứ 3. với câu hỏi thế nào thì được gọi là đại Bồ tát hay còn gọi là Bồ tát Ma ha tát?

Câu hỏi này đã được trả lời trong phẩm “Ma Ha Tát” của Hội thứ I rồi, nên ở đây không cần trùng tuyên nữa. Quý vị có thể quay lại phẩm “Ma Ha Tát”, tham khảo nếu muốn!

 

---o0o---