PHẨM “HUYỄN DỤ”
Phần cuối quyển 410, Hội thứ II, ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Thí Dụ”, quyển 42 trở đi, Hội
thứ I, ĐBN)
Tóm
lược:
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Giả sử có người hỏi: Nếu nhà ảo thuật có thể
học Bát Nhã, cho đến học bố thí Ba la mật thì người ấy có thể thành tựu Nhất
thiết trí trí không? Nếu nhà ảo thuật có thể học bốn niệm trụ cho đến học mười
tám pháp Phật bất cộng thì người ấy có thể thành tựu Nhất thiết trí trí không?
Nếu được hỏi như vậy, con sẽ trả lời như thế nào?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ta hỏi lại ông, tùy theo ông trả lời. Này Thiện Hiện! Ý ông
nghĩ sao sắc cùng với huyễn có khác không? Thọ, tưởng, hành, thức cùng với
huyễn có khác nhau không?
- Bạch Thế Tôn! Không khác!
Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao mười hai xứ, mười tám giới
cùng với huyễn có khác nhau không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao bốn niệm trụ cho đến tám chi
Thánh đạo cùng với huyễn có khác nhau không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao pháp môn giải thoát không,
pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cùng với huyễn có khác nhau không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao Bố thí Ba la mật cho đến
mười tám pháp Phật bất cộng cùng với huyễn có khác nhau không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác của chư Phật cùng với huyễn có khác nhau không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không! Vì sao? Vì sắc chẳng khác huyễn,
huyễn chẳng khác sắc. Sắc tức là huyễn, huyễn tức là sắc. Như vậy, cho đến Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật không khác huyễn, huyễn không khác Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác tức là huyễn,
huyễn tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao Huyễn có tạp nhiễm, có thanh
tịnh không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao Huyễn có sanh, có diệt
không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao nếu pháp nào không tạp
nhiễm, không thanh tịnh, không sanh, không diệt, thì pháp đó có thể học Bát Nhã,
thành tựu Nhất thiết trí trí không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao ở trong năm uẩn phát sanh ra
các tưởng, từ tưởng sanh ra ngôn thuyết giả gọi Bồ tát phải không?
- Bạch Thế Tôn! Đúng như vậy!
- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao ở trong năm uẩn phát sanh ra các tưởng, từ
tưởng phát ra ngôn thuyết giả lập có sanh, có diệt, có tạp nhiễm, có thanh tịnh
phải không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao nếu pháp vô tưởng hay vô
đẳng tưởng, không thiết lập, không ngôn thuyết, không giả danh, không thân,
không nghiệp của thân, không ngữ, không nghiệp của ngữ, không ý, không nghiệp
của ý, không tạp nhiễm, không thanh tịnh, không sanh, không diệt thì pháp này
có thể học Bát Nhã, thành tựu Nhất thiết trí trí không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Bồ tát nào đem vô sở đắc làm phương tiện tu
học Bát Nhã thậm thâm như vậy, sẽ mau thành tựu Nhất thiết trí trí.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Bồ tát nào muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác phải như huyễn nhân học Bát Nhã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Nên
biết huyễn nhân chẳng khác năm uẩn.
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ý ông nghĩ sao năm uẩn như huyễn có thể học Bát Nhã, sẽ
được thành tựu Nhất thiết trí trí không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không! Vì sao? Vì năm uẩn như huyễn, lấy vô
tánh làm tự tánh, vô tánh tự tánh bất khả đắc.
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ý ông nghĩ sao năm uẩn như mộng có thể học Bát Nhã, sẽ được
thành tựu Nhất thiết trí trí không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không! Vì sao? Vì năm uẩn như mộng, lấy vô
tánh làm tự tánh, vô tánh tự tánh bất khả đắc.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao năm uẩn như tiếng vang, như
ảnh ảo, như bóng sáng, như sóng nắng, như hoa đốm giữa hư không, như biến hóa,
như thành Càn thát bà có thể học Bát Nhã, sẽ được thành tựu Nhất thiết trí trí
không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không! Vì sao? Vì năm uẩn như tiếng vang cho
đến như thành Càn thát bà lấy vô tánh làm tự tánh, vô tánh tự tánh bất khả đắc.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao năm uẩn như huyễn v.v... đều
có tánh khác không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không! Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì ngũ uẩn như
huyễn v.v... tức là ngũ uẩn như mộng. Năm uẩn như huyễn v.v... tức là sáu căn
như huyễn v.v.... Sáu căn như huyễn v.v... tức là năm uẩn như huyễn v.v.... Như
vậy, tất cả đều do pháp không nội nên bất khả đắc, cho đến pháp không vô tánh
tự tánh nên bất khả đắc.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa:
- Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát mới hướng đến Đại thừa, nghe nói Bát
Nhã thâm sâu như vậy, tâm họ sẽ không kinh, không hãi, không ngại phải không?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Các Bồ tát mới hướng đến Đại thừa, khi tu hành Bát Nhã, nếu
không có phương tiện thiện xảo, chẳng được bạn lành hộ trì, nghe nói Bát
Nhã thậm thâm như vậy, thì tâm đâm ra kinh, hãi, e ngại.
Tôn giả Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát nào khi tu hành Bát Nhã có phương
tiện thiện xảo, nghe nói Bát Nhã thậm thâm như vậy, tâm họ không kinh, không
hãi, không e ngại?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Bồ tát nào khi tu hành Bát Nhã, đem tâm tương ưng với Nhất
thiết trí trí quán tướng vô thường của sắc bất khả đắc, quán tướng vô thường
của thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Quán tướng khổ của sắc cũng bất
khả đắc, quán tướng khổ của thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Quán tướng
vô ngã, quán tướng bất tịnh, tướng không, vô tướng, vô nguyện, tịch tịnh, viễn
ly của ngũ uẩn cũng bất khả đắc.
Này Thiện Hiện! Bồ tát này khi tu hành Bát Nhã vì có
phương tiện thiện xảo, nên nghe nói Bát nhã Ba la mật thậm thâm như vậy,
tâm họ không kinh, không hãi, không e ngại.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Bồ tát nào quán như vậy rồi, lại
nghĩ: Ta sẽ đem vô sở đắc làm phương tiện vì tất cả hữu tình nói tướng vô
thường của năm uẩn như vậy cũng bất khả đắc; tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất
tịnh, tướng không, vô tướng, vô nguyện v.v… cũng bất khả đắc. Đó là Bồ tát khi
tu hành Bát Nhã không chấp bố thí Ba la mật.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Bồ tát nào khi tu hành Bát Nhã, xa
lìa tác ý tương ưng với Thanh văn, Độc giác, mà tư duy tướng vô thường của năm
uẩn cũng bất khả đắc; tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, vô
tướng, vô nguyện v.v… cũng bất khả đắc, vì đem vô sở đắc làm phương tiện. Đó là
Bồ tát khi tu hành Bát Nhã không chấp tịnh giới Ba la mật.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Bồ tát nào khi tu hành Bát Nhã, đem
vô sở đắc làm phương tiện, quán pháp như vậy, tướng vô thường cũng bất khả đắc;
tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, vô tướng, vô nguyện v.v…
cũng bất khả đắc. Có thể ở trong đó an nhẫn vui thích, không kinh, không hãi,
không e ngại. Đó là Bồ tát khi tu hành Bát Nhã không chấp trước an nhẫn Ba
la mật.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Bồ tát nào khi tu hành Bát Nhã đem
tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí, thường quán tướng vô thường của năm uẩn
cũng bất khả đắc; tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, vô
tướng, vô nguyện v.v… cũng bất khả đắc. Tuy đem vô sở đắc làm phương tiện nhưng
thường không bỏ tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí, thường tu Bát Nhã. Đó
là Bồ tát khi tu hành Bát Nhã không chấp trước tinh tấn Ba la mật.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Bồ tát nào khi tu hành Bát Nhã,
không đem tác ý tương ưng với Thanh văn, Độc giác mà tư duy tướng vô thường của
năm uẩn cũng bất khả đắc; tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không,
vô tướng, vô nguyện v.v… cũng bất khả đắc. Vì đem vô sở đắc làm phương tiện, ở
trong đó không phát sanh tác ý tương ưng với Thanh văn, Độc giác và tâm tán
loạn, bất thiện khác làm chướng ngại Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đó là Bồ
tát khi tu hành Bát Nhã không chấp trước tịnh lự Ba la mật.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Bồ tát nào khi tu hành Bát Nhã, như
thật quán sát chẳng phải sắc thuộc không nên không không thuộc sắc mà là sắc
tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Chẳng phải
mười hai xứ thuộc không, nên không không thuộc mười hai xứ mà là mười hai xứ
tức không, không tức mười hai xứ. Chẳng phải mười tám giới thuộc không, nên
không không thuộc mười tám giới mà là mười tám giới tức không, không tức mười
tám giới. Chẳng phải bốn niệm trụ thuộc không, nên không không thuộc bốn niệm
trụ mà bốn niệm trụ tức không, không tức bốn niệm trụ. Như vậy, cho đến chẳng
phải mười tám pháp Phật bất cộng thuộc không, nên không không thuộc mười tám
pháp Phật bất cộng mà là mười tám pháp Phật bất cộng tức không, không tức mười
tám pháp Phật bất cộng. Đó là Bồ tát không chấp trước Bát nhã Ba la mật.
Này Thiện Hiện! Như vậy, Bồ tát khi tu hành Bát Nhã vì có
phương tiện thiện xảo nên nghe nói Bát nhã Ba la mật thâm sâu như vậy, tâm
không kinh, không hãi, không e ngai.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Bồ tát khi tu hành Bát Nhã được các bạn
lành hỗ trợ như thế nào nên nghe nói Bát nhã Ba la mật thậm thâm mà tâm họ
không kinh, không hãi, không e ngại?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Các bạn lành của Bồ tát hoặc có thể đem vô sở đắc làm
phương tiện nói tướng vô thường của sắc cũng bất khả đắc, nói tướng vô
thường của thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Nói tướng khổ, tướng vô
ngã, tướng bất tịnh, tướng không, vô tướng, vô nguyện của ngũ uẩn v.v… cũng bất
khả đắc và khuyên nương vào đó siêng năng tu tập thiện căn, không phải để hồi
hướng quả Thanh văn, Độc giác, mà chỉ để cầu được Nhất thiết trí trí. Đó là bạn
lành của Bồ tát.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Bạn lành của các Bồ tát hoặc có thể
đem vô sở đắc làm phương tiện, nói tướng vô thường của mười hai xứ, mười tám
giới bất khả đắc; tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, vô
tướng, vô nguyện v.v… cũng bất khả đắc và khuyên nương vào đó siêng năng tu tập
thiện căn, không phải để hồi hướng quả Thanh văn, Độc giác, mà chỉ để cầu được
Nhất thiết trí trí. Đó là bạn lành của Bồ tát.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Bạn lành các Bồ tát hoặc có thể đem
vô sở đắc làm phương tiện, tuy nói tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo
bất khả đắc; tuy nói tu ba môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện bất khả
đắc; tuy nói tu mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng bất
khả đắc; tuy nói tu Nhất thiết trí cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cũng
bất khả đắc, nhưng vẫn khuyên nương vào đó siêng tu tập thiện căn, không cho
hướng đến Thanh văn, Độc giác, mà chỉ để cầu được Nhất thiết trí trí. Đó là bạn
lành của Bồ tát.
Bồ tát nào khi tu hành Bát Nhã được bạn lành này hộ trì thì
nghe nói Bát Nhã thâm sâu như vậy, tâm sẽ không kinh, không hãi, không e ngại.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ tát khi tu hành Bát Nhã, không
có phương tiện thiện xảo, nên nghe nói Bát Nhã thâm sâu như vậy, tâm họ có
kinh, có hãi, có e ngại?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Bồ tát nào khi tu hành Bát Nhã, lấy sở đắc làm phương tiện, xa lìa
tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí tu hành Bát Nhã. Đối với tu Bát Nhã thấy
có chứng có đắc, ỷ lại, lấy sở đắc làm phương tiện nên xa lìa tác ý tương
ưng với Nhất thiết trí trí. Tuy tu hành tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới,
bố thí Ba la mật. Đối với tu tịnh lự cho đến bố thí Ba la mật thấy có chứng có
đắc, ỷ lại, lấy sở đắc làm phương tiện, nên xa lìa tác ý tương ưng với Nhất
thiết trí trí. Tu hành bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Đối
với việc tu bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng thấy có chứng có
đắc, ỷ lại, lấy sở đắc làm phương tiện nên xa lìa tác ý tương ưng với Nhất
thiết trí trí. Như vậy, Bồ tát khi tu hành Bát Nhã, không có phương tiện thiện
xảo, nên nghe nói Bát nhã Ba la mật thậm thâm, tâm họ có kinh, có hãi, có e
ngại.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa:
- Bạch Thế Tôn! Bồ tát khi tu hành Bát Nhã bị các bạn ác
khống chế như thế nào nên khi nghe Bát nhã Ba la mật thậm thâm tâm họ bị kinh,
hãi, e ngại?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Các bạn ác của Bồ tát hoặc bảo họ nhàm chán xa lìa Bát Nhã,
hoặc bảo nhàm chán xa lìa sáu pháp Ba la mật: Các ông không nên tu học những
pháp này. Vì sao? Vì sáu pháp Ba la mật như vậy không phải do Phật nói mà do
những người làm văn kệ hư dối tạo ra. Vì vậy, các ông không nên nghe theo,
không nên thọ trì, không nên đọc tụng, không nên tư duy, không nên nghiên cứu,
không nên giảng nói khai thị cho người khác.
Thiện Hiện! Đó là bạn ác của Bồ tát.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Bạn ác của các Bồ tát hoặc trá hình
làm Phật đến bảo Bồ tát nhàm chán xa lìa sáu pháp Ba la mật, hoặc trá hình Phật
đến giảng nói khai bày các pháp tương ưng với Thanh văn, Độc giác cho Bồ tát,
hoặc trá hình Phật đến chỗ Bồ tát nói như vầy: Các ông chẳng phải là Bồ tát,
không có Bồ đề tâm, không thể an trụ địa vị Bất thối chuyển, không thể chứng
đắc quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đã mong cầu; hoặc trá hình Phật đến bảo
Bồ tát: Các ông nên biết uẩn, xứ, giới không, không có ngã, ngã sở; bốn niệm
trụ cho đến tám chi Thánh đạo không, không có ngã, ngã sở; bố thí cho đến Bát
nhã Ba la mật không, không có ngã, ngã sở; Phật mười lực cho đến tám pháp Phật
bất cộng không, không có ngã, ngã sở thì cần gì quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác? Hoặc ác ma trá hình Độc giác đến chỗ Bồ tát nói như vầy: Ôi, thiện nam
tử! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Thanh văn, Bồ tát trong thế giới mười
phương đều vô sở hữu. Đối với việc này ông nên tin nhận kỹ, chớ tự mình siêng
năng khổ nhọc mong cầu, cúng dường, nghe giảng Chánh pháp như lời dạy mà tu
hành. Hoặc ác ma trá hình Thanh văn đến chỗ Bồ tát, làm cho họ nhàm chán xa lìa
tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí, đồng thời lại làm cho họ ưa thích tác ý
tương ưng với Thanh văn, Độc giác.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Bạn ác của Bồ tát hoặc không nói
việc ma, lỗi ma cho người, nghĩa là không nói có ác ma trá hình cha mẹ đến chỗ
Bồ tát bảo: Con ơi! Con nên siêng năng cầu chứng quả Dự lưu, Nhất lai, Bất
hoàn, A la hán, đủ để được dứt hẳn khổ lớn sanh tử, mau chứng Niết bàn, cứu
cánh an lạc rồi, cần gì phải hướng đến quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của
chư Phật xa xôi; mong cầu quả Bồ đề cần phải trải vô lượng, vô số đại kiếp luân
hồi sanh tử, giáo hóa hữu tình; xả bỏ mạng sống uổng công khổ nhọc, ai mà biết
đến ơn con. Sự mong cầu Bồ đề có khi chứng được, có khi không?
Lại nữa, bọn ác ma có thể trá hình làm Bí sô đến chỗ Bồ tát,
lấy sở đắc làm phương tiện, nói tướng vô thường của sắc thật có thể đắc; nói
tướng vô thường của thọ, tưởng, hành, thức thật có thể đắc. Nói tướng khổ,
tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, vô tướng, vô nguyện, tịch tịnh, viễn
ly của ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới… thật có thể đắc. Lấy sở đắc làm phương tiện,
nói tướng bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo thật có thể đắc, khiến họ tu
học. Lấy sở đắc làm phương tiện nói bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật thật có
thể đắc, khiến họ tu học. Lấy sở đắc làm phương tiện nói ba môn giải thoát, các
Đà la ni, Tam ma địa thật có thể đắc, khiến họ tu học. Lấy sở đắc làm phương
tiện nói năm loại mắt, sáu phép thần thông thật có thể đắc, khiến họ tu học.
Lấy sở đắc làm phương tiện nói Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất
cộng thật có thể đắc, khiến họ tu học.
Nếu Bồ tát khi tu hành Bát Nhã bị bạn ác này khuynh đảo,
khống chế như vậy, thì khi nghe nói Bát nhã Ba la mật thậm thâm, tâm họ bị
kinh, bị hãi hay e ngại. Vì thế, Bồ tát khi tu hành Bát Nhã, đối với các bạn ác
nên quan sát kỹ, tìm cách xa lìa.
Lược
giải:
“Bát Nhã với cái nhìn “Như huyễn”.
Đoạn Kinh sau đây tóm lược thuyết như huyễn rõ ràng,
nên được trích dẫn lại để độc giả thưởng thức thêm:
“Phật hỏi Tu Bồ Đề:
- Này Tu Bồ Đề, ý ông nghĩ sao, Huyễn (Maya) khác với Sắc
(rupam), Sắc khác với Huyễn? Lại nữa, ý ông nghĩ sao, Huyễn khác với Thọ
(vedana), tưởng (samjna), Hành (samskara), Thức (vijnana)? Và Thọ, tưởng, Hành,
Thức có khác với Huyễn không?
Tu Bồ Đề thưa:
- Bạch Thế Tôn! chúng không khác.
Nếu Sắc khác Huyễn, Sắc không phải là Sắc; nếu Huyễn khác với
Sắc, Huyễn không phải là Huyễn. Huyễn là Sắc và Sắc là Huyễn. Thọ, tưởng, Hành
và Thức cũng vậy.
Phật:
- Này Tu Bồ Đề, ý ông nghĩ sao, năm thủ uẩn có phải là Bồ tát
hay không?
Tu Bồ Đề:
- Bạch Thế Tôn! không.
Phật:
- Này Tu Bồ Đề, ông nên biết rằng, năm thủ uẩn tức thị
Huyễn. Tại sao? Bởi vì Sắc là như Huyễn, Thọ, tưởng, Hành, Thức cũng như Huyễn;
năm uẩn và sáu căn tức thị Bồ tát, cho nên Bồ tát cũng như Huyễn. Nếu ai muốn
học Bát nhã Ba la mật, hãy nên như Huyễn mà học... Những Bồ tát sơ trụ Đại
thừa, nếu theo các bậc thiện tri thức mà học, khi nghe pháp đó sẽ không sinh ra
kinh hoàng và sợ hãi”.
Học Bát Nhã hãy như huyễn mà học, giống như ảo nhân
thính pháp.
Đoạn Kinh kế, nói tiếp:
“Nếu đại Bồ tát muốn chứng quả vị Giác ngộ tối cao, thì khi
tu học Bát Nhã nên như ảo nhân tu học Bát Nhã, đối với tất cả mọi sự, mọi việc,
không phân biệt. Vì sao? Vì nên biết ảo nhân tức là năm uẩn, năm uẩn tức
là ảo nhân.
Năm uẩn ấy học Bát Nhã cũng chẳng được Nhất thiết chủng trí.
Vì năm uẩn này tánh vô sở hữu. Tánh vô sở hữu cũng bất khả đắc.
Năm uẩn như mộng, như ảnh, như hưởng, như dương diệm, như
biến hoá, học Bát nhã Ba la mật cũng không được Nhất thiết chủng trí. Vì tánh
mộng cho đến tánh biến hóa vô sở hữu. Tánh vô sở hữu cũng là bất khả đắc.
Lục tình cũng như vậy. Năm uẩn tức là lục tình, lục tình tức
là năm uẩn. Vì những pháp ấy tức là nội không, nhẫn đến vô pháp hữu pháp không
nên bất khả đắc.
Bồ Tát mới phát tâm đối với Bát nhã Ba la mật, không phương
tiện, lại không gặp được bậc thiện tri thức hướng dẫn chắc có lo sợ, e ngại”. (Q.42, ĐBN)
Năm thủ uẩn cũng như tất cả pháp đều như huyễn như mộng,
như tiếng vang, như ảo ảnh, như sóng nắng, như hoa đốm giữa hư không, như thành
Càn thát bà. Tất cả đều không, lấy vô tánh làm tự tánh, nên vô sở hữu bất khả
đắc. Năm thủ uẩn, sáu căn tức thị Bồ tát, cho nên Bồ tát cũng như Huyễn.
Ai muốn học Bát Nhã phải như ảo nhân mà học. Nhưng phải lấy vô sở hữu bất khả
đắc làm phương tiện và phải hồi hướng Nhất thiết trí trí mới mau chứng Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Phẩm “Thí Dụ”, quyển 42 trở đi của Hội thứ I, ĐBN đã
thuyết kỹ. Ở đây chỉ nhắc lại vài điểm cần yếu thôi! Nếu có thắc mắc, Quý vị có
thể quay lại phẩm “Thí Dụ” của Hội thứ I, tham cứu!
---o0o---