PHẨM “BỒ TÁT THƯỜNG ĐỀ(1)”
Quyển 398 đến đầu quyển 399, Hội thứ I, ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Tát Đà Ba Luân” quyển thứ 30, MHBNBLMĐ)
Gợi
ý:
Để chấm dứt pháp hội thứ I Kinh đưa ra hai phẩm: Phẩm “Bồ
Tát Thường Đề” và phẩm “Bồ Tát Pháp Dũng”. Hai diễn viên được dựng lên để nhấn
mạnh vai trò quan trọng của Bát Nhã trong việc xây dựng tâm linh.
Phẩm “Bồ Tát Thường Đề”, miêu tả trường hợp của một vị Bồ
tát có tên là Thường Đề ước nguyện được nghe Bát nhã Ba la mật mà phải chẻ
xương bán tủy. Đây là phẩm được xem là “làm gương” cho những ai tầm cầu Bát nhã
Ba la mật. Phẩm này chỉ trần thuật về sự kiện, không đề cập nhiều về giáo lý.
Ai cũng có thể lãnh hội.
Tóm
lược:
Thường Đề Bồ tát cầu Bát nhã Ba la mật, tu tập để trở thành
Vô Thượng Bồ đề. Bồ tát Thường Đề không tiếc thân mạng, không mong cầu lợi
dưỡng, chẳng mong cung kính suy tôn mà chỉ muốn được Bát nhã Ba la mật. Bồ tát
thường ở những nơi thanh vắng tu tập.
Bỗng nhiên, nghe trong hư không có tiếng nói: Này thiện nam
tử! Ngươi nên đi về hướng Đông thì quyết định được nghe Bát Nhã. Khi đi, ngươi
chớ nệ mệt mỏi, chớ lo ngủ nghỉ, chớ nghĩ đến ăn uống, chớ tưởng ngày đêm, chớ
sợ lạnh nóng, đối với pháp nội ngoại, tâm chớ tán loạn. Khi đi, chẳng được
ngoái nhìn hai bên, chớ ngó trước sau, trên dưới, bốn phía, chớ phá oai nghi,
chớ hoại thân tướng; chớ động sắc; chớ động thọ, tưởng, hành, thức; chớ động 12
xứ, 18 giới, chớ động 12 duyên khởi; nói rộng, chớ động tất cả thiện pháp cho
đến… chớ động pháp thế gian, chớ động pháp xuất thế gian; chớ động pháp hữu
lậu, pháp vô lậu; chớ động pháp hữu vi, pháp vô vi. Vì sao? Này thiện nam tử! Vì
nếu đối với các pháp có động thì đối với Phật pháp chẳng thể an trụ. Nếu đối
với Phật pháp chẳng an trụ được thì sẽ luân hồi sanh tử trong các thú. Nếu luân
hồi sanh tử trong các thú thì chẳng có thể đắc Bát nhã Ba la mật.
Bồ tát Thường Đề nghe những lời ân cần khuyên bảo trong hư
không, hết sức hoan hỷ chấp tay cung kính đáp lại rằng:
- Rất cám ơn! Tôi sẽ nghe theo. Vì sao? Vì tôi muốn vì tất cả
hữu tình làm ánh sáng lớn, vì tôi muốn tiếp thu tất cả pháp thù thắng của Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, vì tôi muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao.
Khi ấy, tiếng trong hư không lại nói với Bồ tát Thường Đề:
- Hay thay! Hay thay! Thiện nam tử! Ngươi sẽ đối với pháp
sâu xa không, vô tướng, vô nguyện nên sanh tin hiểu. Ngươi nên dùng tâm lìa tất
cả tướng mà cầu Bát Nhã; ngươi nên dùng tâm lìa tướng ngã, hữu tình, dòng sanh
mạng… cho đến cái biết, cái thấy mà cầu Bát Nhã.
Thiện nam tử! Ngươi đối với các bạn ác nên xa lìa, đối với
các bạn lành nên thân cận cúng dường. Nếu ngươi làm được như thế thì chẳng bao
lâu sẽ được nghe Bát Nhã.
Thiện nam tử! Ngươi nên nghĩ thế này: Người mà ta theo để
nghe Bát nhã Ba la mật là thiện chơn hữu tối thắng của ta. Vì Ta theo họ nghe
pháp vi diệu ấy, nên đối với quả vị Giác ngộ tối cao, mau được Bất thối chuyển.
Ta do vị ấy mà được gần Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, thường sanh vào cõi nước
nghiêm tịnh của chư Phật, cung kính cúng dường chư Phật Thế Tôn, lắng nghe
Chánh pháp trồng các cội đức. Ngươi nên suy lường quán sát các công đức thắng
lợi như thế. Bồ tát pháp sư thường vì ngươi mà nói Bát Nhã, ngươi nên cung kính
phụng sự như phụng sự chư Phật.
Thiện nam tử! Ngươi chớ mang tâm lợi lộc danh dự thế tục mà
theo Pháp sư, chỉ vì ái trọng cung kính cúng dường pháp Vô thượng mà theo Pháp
sư.
Thiện nam tử! Bây giờ ngươi nên quán nghĩa lý chơn thật của
các pháp. Thế nào là nghĩa lý chơn thật của các pháp? Đó là tất cả pháp vô
nhiễm, vô tịnh. Vì sao? Này thiện nam tử! Vì tự tánh của tất cả pháp đều không,
không có ngã, hữu tình, dòng sanh mạng… cái biết, cái thấy, như huyễn, như
mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng nắng, như bóng sáng, như trò biến
hóa, như ảo thành. Nếu có thể quán sát nghĩa lý chơn thật của các pháp như
thế, theo Pháp sư, thì chẳng bao lâu sẽ thành tựu Bát nhã Ba la mật thậm thâm. (Q. 398, ĐBN)
Sau khi nghe những lời khuyên bảo ân cần như thế, Bồ tát
Thường Đề đi về hướng Đông. Nhưng đi chưa được bao lâu lại tự nghĩ: Không biết
mình phải đi bao lâu? Chỗ đó là chỗ nào? Thành quách thôn làng gì? Cách đây bao
xa? Tại sao mình dại khờ không chịu hỏi trước! Bây giờ phải làm sao đây? Nghĩ
như vậy rồi, liền dừng lại nơi ấy, đấm ngực buồn than, lo sầu khóc lóc, trải
qua chốc lát, mới nghĩ: Ta ở nơi đây một ngày một đêm hoặc qua bảy ngày bảy
đêm, chẳng nề mệt mỏi, chẳng màng ngủ nghỉ, chẳng đếm xỉa đến ăn uống,
chẳng tưởng ngày đêm, chẳng sợ lạnh nóng, đối với pháp trong ngoài, tâm chẳng
tán loạn. Nếu chưa biết rõ cách thành ấp chỗ đến xa gần thì chẳng bao giờ rời
bỏ chỗ này.
Bồ tát Thường Đề khi đang than khóc, tự trách như thế, bỗng
nhiên ở phía trước có hình Phật hiện, khen Bồ tát Thường Đề:
- Hay thay! Hay thay! Thiện nam tử! Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác quá khứ khi tu Bồ tát đạo dùng hạnh cần khổ cầu Bát Nhã cũng giống như
ngươi hiện nay.
Này thiện nam tử! Ngươi đem tâm dõng mãnh tinh tấn ưa thích,
cung kính cầu pháp như thế rất đáng khen. Vậy, từ đây đi về hướng Đông khoảng
năm trăm do tuần sẽ thấy có một cái thành tên là Diệu Hương(2); thành ấy cao
rộng, bảy báu tạo thành; ở ngoài thành ấy có bảy lớp tường vách, bảy lớp lầu
quán, bảy lớp lan can, bảy lớp hào báu, bảy lớp cây Đa la báu giăng hàng đều
bằng bảy báu… bao bọc chung quanh. Thành báu to lớn này mỗi mặt khoảng mười hai
do tuần thanh tịnh, rộng rãi, người vật đông đúc, an ổn, giàu có, an lạc. Trong
đó có năm trăm đường sá chợ búa giống nhau, đẹp như tranh vẽ. Thành đều có
tường và lầu gác cao ngăn địch làm bằng vàng tía, thắp sáng bằng các ngọc báu,
ánh sáng rực rỡ, xen vào giữa bờ tường là các cây báu, gốc rễ, thân, nhánh, lá
và hoa quả của các cây ấy đều do loại báu đặc biệt tạo thành. Bờ tường, lầu gác
và các cây báu phủ bằng lưới vàng, kết bằng dây báu, treo bằng linh(3) vàng,
nối bằng chuông, gió nhẹ thoảng qua, phát tiếng êm dịu, giống như khéo tấu năm
loại kỹ nhạc; vô lượng hữu tình trong thành báu ấy ngày đêm thường nghe, vui vẻ
khoái lạc. Bảy lớp hào báu bao quanh thành tràn đầy nước tám công đức, nhiệt độ
điều hòa, trong vắt như gương; trong hào đâu đâu cũng có thuyền bảy báu trang
hoàng đẹp đẽ, ai cũng ưa nhìn. Trong các hào nước có đủ loại hoa lạ, nào hoa
sen xanh, đỏ, trắng, vàng, và đủ loại hoa báu khác, sắc hương tươi thắm, phủ
khắp mặt nước. Trong thành có năm trăm vườn cảnh, mỗi vườn cảnh có năm trăm ao.
Ao to rộng một dặm. Trong các ao cũng có bốn loại sen quý xanh, đỏ, trắng, vàng to như bánh xe,
sáng tỏa mặt nước. Trong vườn có nhiều loại chim: Khổng tước, anh võ, le le,
cò, hồng nhạn, hoàng anh, ngỗng trời, xuân oanh, vịt nước, cò trắng, uyên ương,
giao thanh, chim trĩ, tinh vệ, gà hồ, thiên nga, hồ phượng, diệu sí, bồ hồng,
yết la tần ca, chim cộng mạng v.v... tiếng hót thật vi diệu. Dân chúng trong thành
đã nhiều kiếp tu tập Bát Nhã, tạo quả thù thắng nên đời này mới được hưởng như
thế!
Trong thành Diệu Hương tại một nơi cao ráo, đẹp đẽ thấy có
một cái cung rộng một do tuần. Đó là cung của Bồ tát Pháp Dũng. Cung này trang
trí trang nghiêm kỳ diệu. Bao quanh cung có bảy lớp bờ tường, bảy lớp lầu gác,
bảy lớp lan can, bảy lớp hào báu, bảy lớp cây Đa la báu thẳng hàng, lại có bốn
vườn cảnh tên là Thường Hỷ, Ly Ưu, Hoa Nghiêm và Hương Sức. Trong mỗi
khu vườn lại có tám cái ao tên là Hiền Thiện, Hiền Thượng, Hoan Hỷ, Hỷ Thượng,
An ổn, Cụ An, Ly Bố và Bất Thối. Trong mỗi ao có các loại sen quý đủ màu, có
nước tám công đức, hương thơm như chiên đàn, sắc vị thanh tao, có le le, nhạn
v.v... bơi giỡn nô đùa trong đó.
Trong thành Diệu Hương lại có một cái đài báu, trên dài báu
này có tòa sư tử dành cho Bồ tát Pháp Dũng(4) thuyết pháp. Bốn chân của tòa ấy
đều do vàng, bạc, lưu ly, sa cừ tạo thành. Ở trên tòa ấy, lại trải thêm một lớp
nệm, lót chăn thêu, phủ bằng lụa trắng, buộc bằng vải hồng. Hai bên bảo tòa đặt
hai gối đỏ, thòng các vải màn, rải hoa diệu hương; tòa ấy cao rộng nửa do tuần.
Ở trên không trung giăng màn thêu, bên trong chưng bày trướng ngọc, lớn nhỏ cân
xứng với tòa, thòng các tua hoa, treo bằng chuông vàng. Vì kính pháp nên bốn
bên tòa rải hoa ngũ sắc, đốt hương vô giá, lại dùng các loại hương nước, hương
bột, hương xoa rải trên đất, la liệt đủ thứ tràng phan bảo cái. Bồ tát Pháp
Dũng mỗi khi lên bảo tòa này thuyết Bát nhã Ba la mật, đều có vô lượng chúng Trời Rồng,
Dược xoa, Kiền đạt phược, A tu la, Yết lộ trà, Khẩn nại lạc, Mạc hô lạc già Nhơn, Phi nhơn v.v... cùng đến vân
tập, cung kính cúng dường Bồ tát Pháp Dũng, nghe thọ Bát nhã Ba la mật. Khi ấy,
các đại chúng đã nghe pháp rồi, có người tụng trì, có người biên chép, có người
chuyên đọc, có người tư duy, có người như thuyết tu hành, có người khai ngộ cho
kẻ khác. Do nhân duyên ấy, các loại hữu tình ở trong đường ác được pháp bất đọa
và đối với quả vị Giác ngộ tối cao vĩnh viễn không thối chuyển.
Này thiện nam tử! Ngươi nên siêng năng tinh tấn mau đi đến
chỗ đại Bồ tát Pháp Dũng. Đại Bồ tát này là thiện hữu chơn tịnh lâu dài của
ngươi, thị hiện dạy bảo dẫn dắt, khiến ngươi mau chứng đắc sở cầu. Bồ tát này
vào đời quá khứ dùng hạnh cần khổ cầu Bát Nhã cũng như ngươi vậy. Ngươi nên
nhanh đến chỗ đại Bồ tát Pháp Dũng, chớ sanh nghi ngại, chớ kể ngày đêm, chẳng
bao lâu sẽ được nghe Bát nhã Ba la mật.
Nghe tới đây, Thường Đề Bồ tát rất đổi vui mừng, tâm niệm:
Khi nào ta sẽ gặp đại Bồ tát Pháp Dũng, thân cận cúng dường, được nghe Bát nhã
Ba la mật; nghe rồi có thể vĩnh viễn đoạn trừ các thứ kiến thức hư vọng phân
biệt đã có, mau chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Bồ tát Thường Đề luôn luôn
tâm niệm như vậy sáu thời như người bị phải tên độc lúc nào cũng nghĩ đến
phương cách làm sao thoát cảnh đau đớn.
Nên biết, Bồ tát Thường Đề khi nghĩ như thế, ở ngay chỗ
này, đối với tất cả pháp, khởi pháp tri kiến vô chướng ngại; do tri kiến
này, liền có thể nhập ngay vô lượng pháp môn Tam ma địa thù thắng(5).
Bồ tát Thường Đề an trụ trong Tam ma địa như thế, hiện thấy
chư Phật Như Lai trong vô lượng, vô số, vô biên thế giới khắp mười phương, vì
các chúng đại Bồ tát tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật. Khi ấy, chư Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác đều cùng khen ngợi, an ủi dạy bảo Thường Đề Bồ tát:
- Hay thay! Hay thay! Thiện nam tử! Chúng tôi khi xưa hành Bồ
tát đạo, cũng như ngươi hôm nay, dùng hạnh cần khổ cầu Bát nhã Ba la mật; khi
cần cầu, cũng như ngươi hôm nay đắc các Tam muội như thế. Chúng tôi lúc ấy, đắc
vô lượng Tam muội, tu hành rốt ráo rồi thì mới có thể thành tựu Bát nhã Ba la
mật thậm thâm, phương tiện thiện xảo; do đó có thể viên mãn tất cả Phật pháp,
liền được an trụ ở bậc Bất thối. Chúng tôi quán các Tam ma địa này tự tánh là
không nhập không xuất, cũng chẳng thấy pháp năng nhập năng xuất, cũng chẳng
thấy đây là Bồ tát đạo có thể tu, cũng chẳng thấy đây là quả vị Giác ngộ có thể
chứng. Chúng tôi khi ấy vì đối với tất cả pháp không chấp trước nên chính đó
là Bát nhã Ba la mật. Vì chúng tôi an trụ vô sở chấp này, nên có thể đạt
được thân chân kim sắc, ánh sáng một tầm, đủ ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi
vẻ đẹp phụ thuộc; lại có thể chứng đắc Phật giới, Phật định, Phật tuệ vô thượng
bất khả tư nghì; tất cả công đức Ba la mật đều viên mãn. Vì vậy, này thiện nam
tử! Đối với pháp này, ngươi càng nên cung kính, cần cầu, không được lơi lỏng.
Nếu đối với pháp này càng sanh cung kính, cần cầu, thường chẳng buông lỏng, thì
đối với quả vị Giác ngộ tối cao dễ chứng đắc.
Thiện nam tử! Đối với thiện hữu, ngươi nên thường cung kính,
như cung kính chư Phật. Vì sao? Này thiện nam tử! Nếu Bồ tát thường được thiện
hữu nhiếp hộ, thì mau chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao.
Ngay đó, Thường Đề Bồ tát liền bạch chư Phật mười phương:
- Ai là thiện hữu của con, con sẽ thân cận cung kính cúng
dường?
Chư Phật mười phương bảo Thường Đề:
- Đại Bồ tát Pháp Dũng là chơn thiện hữu lâu dài của
ngươi, có thể nhiếp hộ ngươi, khiến ngươi thành tựu sở cầu là quả vị Giác
ngộ tối cao, cũng khiến ngươi học phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật
thậm thâm. Vì Bồ tát ấy luôn luôn giúp ích cho ngươi lâu dài nên là thiện hữu
của ngươi, ngươi nên thân cận cúng dường cung kính.
Lại nữa, Thiện nam tử! Nếu một kiếp, hoặc hai, hoặc ba, như
thế cho đến hoặc trăm ngàn kiếp, hoặc hơn thế nữa, ngươi cung kính tôn thờ Bồ
tát Pháp Dũng, lại dùng tất cả nhạc cụ thượng diệu cho đến sắc, thanh, hương,
vị, xúc vi diệu của cả thế giới Tam thiên đại thiên cúng dường hết thì cũng
chưa có thể báo ơn Bồ tát ấy trong giây lát. Vì sao? Này thiện nam tử! Vì ngươi
nhờ oai lực của Bồ tát Pháp Dũng, mà hiện đắc vô lượng pháp môn Tam ma địa
thắng diệu như thế; lại sẽ nhờ Bồ tát ấy khiến ngươi đạt được phương tiện thiện
xảo Bát nhã Ba la mật thậm thâm, mau chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao.
Mười phương Phật phương tiện khen ngợi an ủi dạy bảo Thường
Đề Bồ tát, khiến hoan hỷ xong rồi, bỗng nhiên chẳng hiện(6). Bấy giờ, Bồ tát
Thường Đề từ Tam ma địa xuất, chẳng thấy chư Phật, ôm lòng buồn than, liền
nghĩ: "Khi ở tam ma địa được thấy chư Phật mười phương trước từ đâu đến,
giờ lại đi đâu, ai là người có thể dứt nghi này"?
Rồi Bồ tát Thường Đề theo chỉ dẫn của chư Phật mười phương,
quyết định lên đường tìm đại Bồ tát Pháp Dũng, người mà chư Phật mười phương
khuyên nhủ sẽ là thiện hữu tri thức lâu dài, có thể thành tựu sở nguyện cho
Thường Đề. Nhưng Bồ tát quá nghèo làm sao có thể mua phẩm vật cúng dường đại Bồ tát Pháp Dũng.
Thường Đề Bồ tát cảm thấy không vui khi tự nghĩ nếu ta đến tay không thì làm
sao biểu lộ được lòng chí thành cầu pháp? Bây giờ ta chỉ còn cái thân là tài
sản cuối cùng, có thể bán để mua phẩm vật cúng dường Bát Nhã và pháp sư Pháp
Dũng.
Nghĩ như thế rồi Thường Đề Bồ tát đi lần về hướng Đông đến
một thành lớn, rộng rãi nghiêm tịnh, dân chúng đông đúc, an lạc, giàu sang. Bồ
tát Thường Đề vào chợ, đi vòng khắp nơi, lớn tiếng rao: Tôi muốn bán thân này,
ai muốn mua tôi sẽ bán cho? Tôi muốn bán thân này, ai muốn mua tôi sẽ bán cho?
Tôi muốn bán…!
Bọn ác ma biết nếu Bồ tát Thường Đề bán được thân mua phẩm
vật cúng dường Bồ tát Pháp Dũng, nhân đó sẽ học được pháp vô thượng, chứng đắc
Vô Thượng Bồ Đề, cứu độ nhiều người thì bè lũ ma không còn đất sống. Nghĩ vậy
nên bọn ác ma ngăn chặn lời rao, không để cho ai nghe, nhưng ở trong thành chỉ
có một nữ trưởng giả, do sức thiện căn đời trước nên ma chẳng có thể ngăn được.
Bồ tát Thường Đề vòng quanh khắp chợ, phố phường “rao hàng”
đã lâu, nhưng chẳng có ai hỏi han. Nên buồn tủi đứng than: “Ta có tội tình gì
mà bán thân để cúng dường Bát Nhã và Pháp sư mà chẳng có ai hỏi han chi hết?”
Khi ấy, trời Đế Thích thấy vậy mới nghĩ: Thiện nam tử này
dường như là vì muốn cúng dường Bát nhã Ba la mật và pháp sư thuyết pháp Pháp Dũng, nên tự bán
thân. Ta nên thử xem là thật sự vì mộ pháp hay vì dối trá lừa gạt thế gian?
Nghĩ thế rồi liền tự hóa làm một Bà la môn trẻ tuổi đi đến chỗ Thường Đề hỏi:
- Ngươi nay vì nhân duyên gì mà đứng đây khóc lóc lo sầu?
Bồ tát Thường Đề đáp:
- Này chú! Ta vì cúng dường Bát nhã Ba la mật thậm thâm và
pháp sư thuyết pháp là Bồ tát Pháp Dũng, nhưng nghèo khó không có vật báu, vì
do ái pháp, nên muốn tự bán thân, nhưng khắp trong thành này không ai hỏi mua,
chắc mình phước mỏng, phận hèn nên không được toại nguyện!
Khi ấy, thanh niên Bà la môn mới nói với Thường Đề:
- Nay đây tôi muốn tế trời, chẳng dùng thân người, chỉ cần
máu người, tủy người, tim người, ngươi có thể bán cho tôi không?
Thường Đề nói thầm: Như vậy là có người mua rồi, ta sẽ có lễ
vật cúng dường Bát Nhã và pháp sư, khiến ta đầy đủ phương tiện thiện xảo Bát
nhã Ba la mật, mau chứng quả vị Giác ngộ. Nghĩ như thế rất đổi vui mừng, nên
Thường Đề Bồ tát dùng lời êm dịu đáp lời Bà La Môn:
- Vâng tôi sẽ bán hết cho chú.
- Hết thảy trị giá bao nhiêu?
- Tùy chú, bao nhiêu cũng được.
Thường Đề nói như vậy rồi, liền đưa tay phải ra cầm dao bén
đâm vào cánh tay trái cho máu chảy ra; lại lóc đùi phải, thịt da rơi xuống đất, đập xương lòi tủy, đưa cho Bà la
môn. Lại đến bên tường toan mổ tim ra, thì nữ trưởng giả ở trên gác cao, trước
đó nghe Thường Đề lớn tiếng rao bán thân, sau lại thấy tự cắt thân mình, liền
xuống gác, đến chỗ Thường Đề hỏi:
- Vì nhân duyên gì trước đây ngươi rao tự bán thân, nay cắt
máu, rút tủy, lại muốn mổ tim?
Thường Đề đáp:
- Cô có biết không? Tôi vì muốn cúng dường Bát nhã Ba la mật
và pháp sư Pháp Dũng, nhưng nghèo túng, không có tài sản, vì mến trọng pháp nên
tự bán thân mà không có ai mua. Nay bán ba vật này cho Bà la môn.
Nữ trưởng giả hỏi:
- Ngươi tự bán thân, máu, tim, tủy cúng dường Bát Nhã và pháp
sư, để được công đức thắng lợi gì?
Thường Đề đáp:
- Bồ tát Pháp Dũng đối với pháp thậm thâm đã được tự tại, sẽ
vì tôi mà nói phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Sở học của Bồ
tát, sở thừa của Bồ tát, sở hành của Bồ tát, sở tác của Bồ tát, nếu tôi được
nghe rồi như thuyết tu hành, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, thì mau
chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, được thân sắc vàng, đủ ba mươi hai tướng Đại
sĩ và tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, ánh sáng một tầm, hào quang vô lượng, đủ Phật
mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại
hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng… cho đến đắc Nhất thiết trí, Đạo tướng
trí, Nhất thiết tướng trí, đầy đủ tất cả Pháp bảo Vô thượng, phân chia bố thí
cho tất cả hữu tình, làm chỗ nương tựa cho tất cả chúng sanh. Tôi xả thân mạng
là vì các công đức thắng lợi này.
Nữ trưởng giả nghe nói Phật pháp vi diệu thù thắng chẳng thể
nghĩ bàn, rất đổi xúc động, vui mừng cung kính chấp tay thưa với Thường Đề:
- Điều Đại sĩ nói vi diệu tối thắng to lớn đệ nhất, rất là hi
hữu; vì đạt được tất cả Phật pháp như thế dầu xả bỏ thân mạng nhiều kiếp như số
cát sông Hằng chẳng tiếc, huống chi chỉ xả bỏ một thân. Vì sao? Vì nếu đắc công
đức vi diệu như thế thì có thể lợi lạc tất cả hữu tình. Đại sĩ nghèo còn vì
công đức vi diệu như thế mà chẳng tiếc thân mạng, huống gì giàu sang phú quý
như con. Nay Đại sĩ chớ nên tự hại thân mình, cần những phẩm vật cúng dường nào
con sẽ dâng cho Ngài hết kể cả vàng, bạc, ngọc báu, lưu ly, sa cừ, trân châu
Mạc ni v.v… cho đến hoa hương, anh lạc, tràng phan, bảo cái, kỹ nhạc, đèn đuốc,
xe cộ, y phục và đủ các thứ phẩm vật cúng dường thượng diệu khác, Ngài có thể
đem cúng dường Bát nhã Ba la mật và pháp sư Pháp Dũng. Xin Đại sĩ chớ hại mình.
Bản thân con cũng nguyện theo Đại sĩ đến chỗ đại Bồ tát Pháp Dũng, đồng thời
chiêm ngưỡng, cùng trồng căn lành, vì được nghe thuyết Phật pháp vậy.
Khi ấy, trời Đế Thích liền hiện nguyên hình trước mặt Thường
Đề, khom người kính cẩn khen:
- Hay thay! Hay thay! Đại sĩ vì pháp mà chí thành kiên cố đến
như thế. Chư Phật quá khứ khi hành Bồ tát đạo cũng như Đại sĩ, dùng nguyện kiên
cố cầu Bát nhã Ba la mật, phương tiện thiện xảo, thỉnh vấn sở học, sở thừa, sở
hành, sở tác của Bồ tát, tâm không mỏi mệt, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh
cõi Phật, chứng quả vị Giác ngộ tối cao. Tôi chỉ thử Ngài thôi, chứ không cần
máu, tủy, tim của Ngài. Nay Ngài cần gì, tôi sẽ hiến dâng để đền cái tội khinh
xuất vừa qua?
Thường Đề đáp:
- Tôi chỉ có nguyện là đạt quả vị Giác ngộ tối cao. Thiên chủ
có thể thỏa mãn nguyện này chăng?
Trời Đế Thích cảm thấy hổ thẹn, thưa với Thường Đề:
- Điều này ngoài sức của tôi, chỉ có chư Phật Đại Thánh Pháp
Vương mới có thể làm nổi! Thưa Đại sĩ! Ngoài quả vị Giác ngộ tối cao ra, Ngài
còn ước muốn điều gì khác, may ra tôi có thể đáp ứng?
Thường Đề đáp:
- Bát nhã Ba la mật cũng là ước nguyện của tôi, ông có thể
ban cho chăng?
Khi ấy, trời Đế Thích lại thập phần bối rối, bèn thưa với
Thường Đề:
- Đối với ước muốn này tôi cũng chẳng có thể ban cho được.
Nhưng tôi có khả năng khiến thân Đại Sĩ bình phục như cũ, Ngài có ước muốn như
thế chăng?
Thường Đề đáp:
- Điều này tôi có thể tự hoàn thành, khỏi nhọc Thiên Chủ. Vì
sao? Vì nếu tôi bày tỏ sự việc với mười phương chư Phật, phát lời chân thành:
Nay tự bán thân là vì mộ pháp, chứ chẳng dối trá lừa gạt mê hoặc thế gian. Do
nhân duyên này, nhất định đối với quả vị Giác ngộ tối cao chẳng thối chuyển,
thì khiến cho thân tôi bình phục như cũ; lời này chưa dứt, có thể khiến cho tôi
bình phục như xưa, đâu dám nhờ oai thần của Ngài!
Thiên Đế Thích nói:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Thần lực của Phật chẳng thể nghĩ bàn,
Bồ tát chí thành việc gì mà chẳng xong! Nhưng vì tôi mà tổn hại thân Đại Sĩ,
cúi xin từ bi cho tôi hoàn thành việc này.
Bồ tát Thường Đề bảo Đế Thích:
- Ngươi đã ân cần thì tùy theo ý người.
Khi ấy, trời Đế Thích liền dùng oai lực mình khiến thân
Thường Đề bình phục như cũ, thậm chí chẳng thấy một vết sẹo nào, hình mạo đoan
nghiêm hơn trước. Đế Thích xấu hổ tạ lỗi, nhiễu quanh bên phải bỗng nhiên biến
mất.
Chứng kiến diễn biến hi hữu trên làm cho nữ trưởng giả càng
thêm kính phục bèn chắp tay thưa với Thường Đề Bồ tát:
- Xin rũ từ bi, quang lâm nhà con giây lát, những phẩm vật
cần để cúng dường Bát Nhã và Bồ tát Pháp Dũng, con thưa với cha mẹ sẽ dâng hiến
tất cả. Con và thị nữ cũng từ giã cha mẹ cùng Đại sĩ đi đến thành Diệu Hương để
cúng dường nghe pháp.
Khi ấy, Thường Đề thuận theo sở nguyện của nàng, cùng đến nhà
nàng, dừng lại ngoài cửa. Nữ trưởng giả liền vào nhà, thưa với cha mẹ:
- Xin cho con nhiều tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v...
thượng diệu, y phục, anh lạc, tràng phan, bảo cái, kỹ nhạc, dầu tô, trân châu
Mạc ni, ngọc báu Phệ lưu ly, ngọc báu Phả chi ca, san hô, hổ phách và các loại
phẩm vật cúng dường khác như vàng, bạc v.v... mà trong nhà chúng ta sẵn có, cũng cho con năm trăm thị nữ
đã phụng sự con trước đây, mang các phẩm vật cúng dường cùng theo chân Bồ tát
Thường Đề, đi đến thành Diệu Hương để cúng dường Bát nhã Ba la mật và pháp sư
Pháp Dũng. Bồ tát ấy sẽ vì con mà tuyên thuyết pháp yếu; con được nghe rồi, như
thuyết tu hành, quyết định đạt được vô biên Phật pháp vi diệu.
Cha mẹ nàng nghe xong thất Kinh, liền hỏi con gái:
- Bồ tát Thường Đề nay đang ở đâu? Là hạng người nào?
Nàng liền thưa:
- Người này đang chờ ngoài cửa. Vị Đại sĩ ấy vì muốn độ thoát
khổ sanh tử cho tất cả hữu tình nên cần cầu quả vị Giác ngộ tối cao. Vị Đại sĩ
ấy vì ái trọng chánh pháp, chẳng tiếc thân mạng, muốn cúng dường Bát Nhã và
pháp sư Pháp Dũng cho nên vào trong thành này, đi vòng khắp nơi, lớn tiếng rao
bán thân mình để mua lể vật cúng dường, nhất nhất nữ trưởng giả đều kể hết cho
cha mẹ không thiếu dù chỉ là một chi tiết nhỏ nhặt nào!
Bấy giờ, cha mẹ nghe con gái kể tất cả nội tình, vui mừng
khen chưa từng có, liền bảo:
- Theo lời con nói, thì Bồ tát Thường Đề thật hi hữu, mang
giáp bị đại công đức như thế, dõng mãnh tinh tấn cầu Phật pháp; Phật pháp sở
cầu vi diệu tối thắng, quảng đại thanh tịnh, chẳng thể nghĩ bàn, có công năng
dẫn dắt các loại hữu tình ở thế gian, khiến đạt lợi ích an lạc thù thắng. Con
đối với pháp ấy đã mến trọng sâu sắc, muốn theo thiện hữu đem các phẩm vật đến
thành Diệu Hương cúng dường Bát nhã Ba la mật và pháp sư thuyết pháp là Bồ tát
Pháp Dũng, vì muốn chứng đắc các Phật pháp thì tại sao cha mẹ chẳng tùy hỷ! Cha
mẹ cho phép con và cũng muốn tháp tùng nữa, con hoan hỷ chăng?
Người con vui mừng, liền thưa:
- Con vô cùng sung sướng!
Cha mẹ nàng bảo:
- Con nên mau chuẩn bị phẩm vật cúng dường và thị tùng rồi
cùng đi.
Khi ấy, nữ trưởng giả liền chuẩn bị xong năm trăm cỗ xe,
trang hoàng bằng bảy báu, cũng khiến năm trăm thị nữ thường theo hầu tự ý lấy
các châu báu quý hiếm và đủ các thứ phẩm vật cúng dường thượng diệu khác đủ
loại, nhiều vô lượng đem theo. Nữ trưởng giả đã chuẩn bị xong các việc như vậy
rồi, cung kính thưa thỉnh Bồ tát Thường Đề cỡi một xe đi trước, cô ta, cha mẹ
và năm trăm thị nữ mỗi người cỡi một xe, vây quanh theo hầu Bồ tát Thường Đề,
đi lần về hướng Đông đến thành Diệu Hương.
Chẳng bao lâu mọi người thấy trước mặt hiện ra một cái thành
uy nghi lộng lẫy. Thành này cao rộng bằng bảy báu. Ở ngoài thành, chung quanh
đều có bảy lớp bờ tường, bảy lớp lầu quán, bảy lớp lan can, bảy lớp hào báu,
bảy lớp hàng cây Đa la thẳng tắp đều do bảy báu tạo thành, tất cả giống như đã
tả ở trên. Đó là thành Diệu Hương mà mọi người mong đợi.
Mọi người từ từ tiến vào. Từ đàng xa mọi người đã thấy đại Bồ
tát Pháp Dũng ngồi trên tòa sư tử ở chính giữa đài bảy báu, có vô lượng, vô số
trăm ngàn ức triệu chúng hội vây quanh, đang vì họ nói pháp.
Bấy giờ, Bồ tát Thường Đề vừa thấy đại Bồ tát Pháp Dũng, thân
tâm mừng vui, liền nghĩ thế này: Chúng ta chẳng nên cỡi xe đi thẳng đến chỗ Đại
Bồ tát Pháp Dũng. Nghĩ rồi, liền xuống xe, sửa lại y phục. Cùng lúc nữ trưởng
giả và cha mẹ nàng và năm trăm thị nữ cũng đều xuống xe. Mọi người đều dùng các
báu vật và y phục thượng diệu trang điểm thân thể, mang các phẩm vật cúng
dường, cung kính vây quanh Bồ tát Thường Đề, lần bước đến chỗ Đại Bồ tát Pháp
Dũng. Gần chỗ ở của Đại Bồ tát Pháp Dũng, có đài bằng bảy báu, dùng gỗ chiên
đàn đỏ mà trang hoàng, treo linh, chuông báu, phát ra âm thanh vi diệu, chung
quanh đều thả lưới trân châu; ở bốn góc đài treo bốn bảo châu để làm đèn sáng,
ngày đêm luôn chiếu sáng; bốn mặt bảo đài có bốn lư hương làm bằng bạch ngân,
trang hoàng bằng các châu báu, luôn luôn đốt bằng hương hắc trầm thủy và rải
các loại hoa quí để cúng dường. Trên đài có tòa do bảy báu tạo, trên đó trải
một lớp nệm thêu lụa; có đặt một cái hòm, do bốn báu hiệp thành, trang hoàng
lộng lẫy. Hòm này đựng Kinh Bát Nhã, viết bằng mực lưu ly trên các lá bằng vàng
ròng. Hòm niêm phong, đóng ấn cẩn thận, chung quanh hòm đâu đâu cũng treo phan
hoa báu, trang hoàng đẹp đẽ, khả ái. Bồ tát Thường Đề, nữ trưởng giả v.v...
thấy đài báu này trang nghiêm đẹp đẽ, chấp tay cung kính khen chưa từng có. Lại
thấy Đế Thích và vô lượng trăm ngàn chúng trời đứng cạnh đài báu, cầm đủ các
thứ hương bột thượng diệu và loại ngọc vụn, hương hoa vi diệu, vàng, bạc v.v...
rải lên đài báu.
Bồ tát Thường Đề thấy vậy mới hỏi Đế Thích:
- Vì duyên gì Thiên chủ và các chúng trời cúng dường đài này?
Trời Đế Thích đáp:
- Đại sĩ biết chăng? Ở trong đài này có Pháp vô thượng gọi là
Bát nhã Ba la mật thậm thâm, là mẹ của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các
chư Bồ tát. Nếu các đại Bồ tát đối với pháp này tinh cần tu học thì mau đạt tất
cả công đức giải thoát, có thể thành tựu tất cả Phật pháp, có thể mau chứng đắc
Nhất thiết trí trí. Do nhân duyên ấy, tôi và quyến thuộc đối với pháp này, cung
kính cúng dường.
Bồ tát Thường Đề nghe rồi hoan hỷ, hỏi tiếp trời Đế Thích:
- Bát nhã Ba la mật hiện nay ở chỗ nào? Tôi muốn cúng dường,
mong Ngài chỉ cho.
Trời Đế Thích nói:
- Đại sĩ biết chăng? Bát nhã Ba la mật đựng trong hòm bằng
bốn báu, trên tòa bảy báu kia. Bồ tát Pháp Dũng tự niêm phong và đóng ấn lại.
Chúng tôi chẳng dám mở ra xem.
Bấy giờ, Bồ tát Thường Đề và nữ trưởng giả, cha mẹ nàng, cùng
năm trăm thị nữ, nghe nói vậy rồi liền lấy những vật mang theo như hoa hương,
ngọc báu, y phục, anh lạc, tràng phan, bảo cái, kỹ nhạc, đèn đuốc và các phẩm
vật cúng dường khác, chia làm hai phần: Một phần dành để cúng dường Bát Nhã,
phần còn lại thì dành cho Đại Bồ tát Pháp Dũng.
Đến nơi, thấy Đại Bồ tát Pháp Dũng ngồi trên tòa sư tử, có
đại chúng vây quanh, mọi người tùy tùng liền lấy hương hoa, tràng phan, bảo
cái, y phục, anh lạc, kỹ nhạc, đèn đuốc, các thứ ngọc báu v.v... trải ra cúng
dường Bát Nhã và pháp sư. Bồ tát Pháp Dũng liền dùng sức oai thần lấy các loại
hoa quí cúng dường rải lên không trung, trên đỉnh đầu, bỗng nhiên hiệp thành
một đài hoa quí, kết báu trang nghiêm, thật khả ái. Lại khiến các loại hương
thơm đã rải bay lên hư không, ngay trên đài hoa, bỗng nhiên hiệp thành lọng
hương quí, có các loại ngọc báu trang hoàng. Lại khiến các loại y phục quí báu
đã rải bay lên hư không, ngang trên lộng hương, bỗng nhiên hiệp thành một cái
màn báu, cũng dùng các báu vật trang hoàng đẹp đẽ. Còn các phẩm vật khác như
tràng phan, bảo cái, kỹ nhạc, đèn đuốc các thứ anh lạc v.v... tự nhiên vọt lên
trên xung quanh bức màn trên đài, tự trang hoàng đẹp đẽ, xảo diệu.
Bồ tát Thường Đề, nữ trưởng giả v.v... thấy việc này rồi, vui
mừng không ngớt khen ngợi đại Bồ tát Pháp Dũng: Đại sư của ta rất là hi hữu, có
thể hiện sức đại oai thần như thế, khi làm Bồ tát còn có năng lực như thế,
huống là lúc đắc quả vị Giác ngộ tối cao.
Khi ấy, Thường Đề và nữ trưởng giả cùng các quyến thuộc, vì
thâm tâm kính ái đại Bồ tát Pháp Dũng, nên đều phát tâm cầu quả vị Giác ngộ tối
cao, phát nguyện rằng: Do thiện căn thù thắng này, chúng con nguyện đời đương
lai quyết định thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác; do thiện căn thù thắng này, chúng
con nguyện đời đương lai tinh cần tu học Bồ tát đạo, đối với pháp môn sâu xa,
thông đạt vô ngại, như Đại Bồ tát Pháp Dũng hiện nay; do thiện căn thù thắng
này, chúng con nguyện đời đương lai tinh cần tu học Bồ tát đạo, ngồi tòa sư tử,
ở giữa đại chúng, tuyên thuyết nghĩa lý thậm thâm của Bát nhã Ba la mật, hoàn
toàn không sợ như Đại Bồ tát Pháp Dũng hiện nay; do thiện căn thù thắng này,
chúng con nguyện đời đương lai tinh cần tu học Bồ tát đạo, thành tựu sức phương
tiện thiện xảo Bát Nhã, có thể mau chóng thành tựu sở cầu là quả vị Giác ngộ
tối cao; do thiện căn thù thắng này, chúng con nguyện đời đương lai tinh cần tu
học Bồ tát đạo, đắc thần thông thù thắng, biến hóa tự tại, lợi ích an lạc vô
lượng hữu tình như Đại Bồ tát Pháp Dũng hiện nay.
Sau khi cúng dường xong, Bồ tát Thường Đề, nữ trưởng giả cùng
quyến thuộc đảnh lễ sát chân đại Bồ tát Pháp Dũng, rồi chắp tay, cung kính nhiễu bên phải ba
vòng, xong lui ra đứng một bên.
Lúc bấy giờ, Bồ tát Thường Đề, khom lưng chắp tay thưa đại Bồ tát Pháp Dũng:
- Tôi thường ưa ở chỗ thanh vắng cầu Bát nhã Ba la mật thậm
thâm. Có một hôm bỗng nhiên nghe có tiếng trên không trung, gọi: Này thiện nam
tử! Ngươi nên đi về hướng Đông, quyết định được nghe Bát Nhã. Tôi nghe như vậy
rồi, liền đi về hướng Đông. Đi chưa được bao lâu, lại nghĩ: Tại sao ta chẳng hỏi tiếng trên không trung
đi về hướng Đông xa hay gần, đi đến thành ấp nào, sẽ gặp ai thuyết Bát Nhã?
Nghĩ như thế rồi liền dừng lại, đấm ngực buồn than, lo sầu khóc lóc, trải qua
bảy ngày đêm chẳng hề mỏi mệt, chẳng tưởng ngủ nghỉ, chẳng màng ăn uống, chẳng
lo ngày đêm, chẳng sợ lạnh nóng, đối với pháp trong, ngoài, tâm chẳng loạn
động, chỉ nghĩ thế này: Khi nào ta sẽ được nghe Bát Nhã?
Đang lúc sầu lo khóc lóc, tự than, bỗng nhiên ở trước mặt tôi
hiện ra hình Phật bảo tôi rằng: Này thiện nam tử! Ngươi đem tâm cầu pháp dõng
mãnh tinh tấn, yêu thích, cung kính như thế, thì nên đi về hướng Đông này, qua
khoảng năm trăm do tuần, có vương thành lớn tên là Diệu Hương, trong thành có
Bồ tát tên là Pháp Dũng, thường vì vô lượng trăm ngàn hữu tình tuyên thuyết Bát
nhã Ba la mật. Ngươi nên theo vị Bồ tát để được nghe Bát Nhã. Lại, này thiện
nam tử! Bồ tát Pháp Dũng là thiện hữu thanh tịnh dài lâu của ngươi, thị hiện
dạy bảo, dẫn dắt khiến ngươi mau chứng đắc sở cầu quả vị Giác ngộ tối cao. Bồ
tát Pháp Dũng ở đời quá khứ, dùng hạnh cần khổ cầu Bát Nhã cũng như ngươi hôm
nay. Ngươi mau đến chỗ đại Bồ tát Pháp Dũng, chớ sanh nghi ngại, chớ kể ngày
đêm, chẳng bao lâu sẽ được nghe Bát nhã Ba la mật.
Khi ấy, tôi được nghe lời nói như vậy rồi, thân tâm vui mừng,
nên nghĩ: Ta sẽ được gặp Bồ tát Pháp Dũng để nghe Bát Nhã? Nghe rồi có thể đoạn
trừ vĩnh viễn các thứ phân biệt hư vọng, mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao.
Nghĩ như vậy, đối với tất cả pháp liền có thể hiện khởi tri kiến vô ngại. Do
tri kiến này tôi được nhập vô lượng pháp môn Tam ma địa thù thắng, an trụ trong
Tam ma địa như thế, hiện thấy vô lượng, vô số, vô biên chư Phật Như Lai khắp
mười phương thế giới, vì các chúng Bồ tát tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật. Khi
ấy, chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều cùng khen ngợi an ủi, ân cần dạy bảo
tôi: Hay thay! Hay thay! Thiện nam tử! Chúng tôi khi xưa hành Bồ tát đạo cũng
như ngươi hôm nay, dùng hạnh cần khổ cầu Bát nhã Ba la mật thậm thâm, trong khi
cần khổ cũng như ngươi hiện nay đắc các Tam ma địa như thế. Bấy giờ, chúng tôi
tu vô lượng Tam ma địa được cứu cánh rồi thì có thể thành tựu phương tiện thiện
xảo Bát Nhã. Do đó, có thể thành tựu tất cả Phật pháp, liền được an trụ bậc Bất
thối chuyển.
Khi ấy, mười phương chư Phật dạy bảo an ủi tôi, khiến tôi
hoan hỷ rồi, bỗng nhiên biến mất. Tôi từ sở chứng Tam ma địa xuất ra, chẳng
thấy chư Phật, ôm lòng buồn bã, nghĩ: Không biết chư Phật mười phương, trước từ
đâu đến, nay đi về đâu? Ai có thể vì ta giải quyết nghi vấn này? Lại nghĩ thế
này: Bồ tát Pháp Dũng từ lâu đã tu học phương tiện thiện xảo Bát Nhã, đã đắc vô
lượng pháp môn Đà la ni, Tam ma địa, đối với thần thông Bồ tát đã viên mãn đạt
tự tại, đã từng cúng dường vô lượng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, ở chỗ chư
Phật, phát thệ nguyện rộng lớn, trồng các căn lành. Ở trong thời gian lâu dài
là thiện hữu của ta, thường nhiếp thọ ta, khiến đạt được lợi lạc. Ta nên mau đi
đến chỗ đại Bồ tát Pháp Dũng, thưa hỏi việc thấy chư Phật mười phương vừa rồi,
là: Trước từ đâu đến, nay đi về đâu? Bồ tát ấy có thể vì ta mà giải đáp
nghi vấn. Bấy giờ, tôi nghĩ như vậy rồi, dõng mãnh tinh tấn đi dần về hướng
Đông, thấm thoát vào được thành này, thấy Đại sư ngồi tòa Sư tử, trên đài bảy
báu, đại chúng vây quanh, vì họ thuyết pháp. Ngay ở chốn này vừa thấy Đại sư,
thân tâm vui mừng, cho nên nay tôi thỉnh vấn Đại sư, chư Phật mười phương mà
tôi đã thấy trước đây là từ đâu đến, nay đi về đâu? Cúi xin Đại sư vì tôi mà
nói để tôi rõ biết; đã rõ biết rồi, đời đời sẽ gặp chư Phật.
Thích nghĩa:
(1). Bồ tát Thường Đề, có Kinh gọi là Thường Bi Bồ tát hay
Phổ Từ Bồ tát, Kinh MHBNBLMĐ gọi là Tát Đà Ba Luân: Cả bốn tên đều chỉ cho một
vị Bồ tát, vì thương xót hữu tình sống trong ác trược, nên chẻ xương bán tủy
cầu Bát Nhã để cứu độ chúng sanh.
(2). Đại vương thành: Kinh ĐBN gọi là Diệu Hương, Kinh MHBNBLMĐ
gọi là Chúng Hương.
(3). Linh: Chuông.
(4). Bồ tát Pháp Dũng, Kinh MHBNBLMĐ gọi là Bồ tát Đàm Vô
Kiệt.
(5). Kinh ĐBN thường nói đến các Tam ma địa, các Tam muội
hay định là các loại tập trung tinh thần cao độ. Khi đạt được các Tam muội này
thì sẽ có vô vàn thần thông diệu dụng. Nhưng Kinh không có chỉ phương pháp tập
luyện. Tuy nhiên, Kinh hé mở một vài chi tiết để thành tựu định này “...
Khi đi, ngươi chớ nệ mệt mỏi, chớ lo ngủ nghỉ, chớ nghĩ đến ăn uống, chớ tưởng
ngày đêm, chớ sợ lạnh nóng, đối với pháp nội ngoại, tâm chớ tán loạn. Khi đi,
chẳng được ngoái nhìn hai bên, chớ ngó trước sau, trên dưới, bốn phía, chớ phá
oai nghi, chớ hoại thân tướng; chớ động sắc; chớ động thọ, tưởng, hành, thức;
chớ động 12 xứ, 18 giới, chớ động 12 duyên khởi; nói rộng, chớ động tất cả
thiện pháp cho đến… chớ động pháp thế gian, chớ động pháp xuất thế gian; chớ
động pháp hữu lậu, pháp vô lậu; chớ động pháp hữu vi, pháp vô vi”. Kinh tiếp
tục diễn tả: “... Bồ tát Thường Đề luôn luôn tâm niệm như vậy sáu
thời như người bị phải tên độc lúc nào cũng nghĩ đến phương cách làm sao thoát
khỏi cảnh đau đớn. Nên biết, Bồ tát Thường Đề khi nghĩ như thế, ở ngay chỗ
này, đối với tất cả pháp, khởi pháp tri kiến vô chướng ngại; do tri
kiến này, liền có thể nhập ngay vô lượng pháp môn Tam ma địa thù thắng”.
Trong một đoạn Kinh khác thuộc “Phần Na Già Thất Lợi”, Hội
thứ VIII, Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi bảo Bồ tát Na Già Thất Lợi vào thành khất
thực: “... trong khi đi chớ được cất chân, chớ được hạ chân, chớ co
chớ duỗi, chớ khởi tâm ta, chớ dấy hý luận, chớ sanh tưởng đường sá, chớ sanh
tưởng thành ấp xóm làng, chớ sanh tưởng nam nữ lớn nhỏ, chớ sanh tưởng đường
lớn, ngõ hẻm, vườn rừng, nhà cửa v.v... Vì sao? Vì Bồ đề xa lìa các tưởng sở
hữu, không cao không thấp, không nắm không buông, tâm dứt dao động, lời lìa hý
luận, không có số lượng. Đó là chỗ hướng tới Bồ đề của Bồ tát. Nếu Ngài có thể
đi được như thế, thì tùy ý đi mà hành khất thực. Na Già Thất Lợi nương vào uy
lực dạy bảo ấy, nhập định Hải dụ. Ví như biển cả, nước rộng sâu, lặng
yên, có nhiều ngọc báu, đầy đủ sinh mạng các loài thủy tộc. Định đây cũng thế,
uy lực rộng sâu, thần dụng khó nghĩ, ba nghiệp an tĩnh, đủ các báu công đức,
nhiếp dưỡng hàm thức”.
Hai đoạn Kinh tuy khác nhau đôi chút nhưng miêu tả cùng
một phương pháp tập trung để đi đến chỗ thành tựu các Tam muội này. Tuy
nhiên, nó đòi hỏi một kỹ năng tuyệt hảo, một sự tập trung cao độ. Có lẽ,
vì quá nhiếp tâm trong nhất niệm “Làm sao nghe được Bát nhã Ba la mật”, chẳng
nề mệt mỏi, chẳng màng ngủ nghỉ, chẳng đếm xỉa đến ăn uống, chẳng tưởng ngày đêm,
chẳng sợ lạnh nóng, đối với pháp trong ngoài, tâm chẳng tán loạn. Đó là yếu tố
đưa đến chín muồi, nứt vỡ, “giây phút cuối cùng của nhất quán bùng nổ” mà Bồ
tát Thường Đề cũng như Bồ tát Na Già Thất Lợi chứng đắc các Tam muội thần dụng
này chăng?
Thích nghĩa này tuy rườm rà, nhưng để bổ túc cho phần giải thích các
Tam muội nói trong “Phần thứ I Tổng luận về các pháp mầu Phật đạo”.
(6). Bỗng nhiên chẳng hiện: Cụm từ này khó hiểu, cả hai
Kinh ĐBN và MHBNBLMĐ đều thuật lại là Bồ tát Thường Đề khi ở Tam ma địa thấy
chư Phật chỉ bảo, nhắn nhủ, xong từ Tam ma địa xuất ra thì không còn thấy chư
Phật nữa, nên Kinh nói là “bỗng nhiên không hiện”. Nếu trong trạng thái “thức”,
dùng mắt thường để nhìn thì ai cũng thấy cũng biết: Có ẩn, có hiện. Nhưng trong
trạng thái tập trung tinh thần tức “vào định, hay đang ở trong Tam ma địa”,
không thể dùng giác quan, nên chẳng thấy chẳng biết. Kinh thuật rằng “Bồ tát
Thường Đề từ Tam ma địa xuất, chẳng thấy chư Phật, ôm lòng buồn than, liền
nghĩ: “Khi ở Tam ma địa được thấy chư Phật mười phương trước từ đâu đến, giờ
lại đi đâu, ai là người có thể dứt nghi này?” Như vậy, bỗng nhiên chẳng hiện có
nghĩa khi xuất định chẳng thấy gì cả.
Trong luận bốn Thiền luận II của thiền sư D.T. Suzuki do
Trúc Thiên dịch nói về “Tính kham nhẫn trong đời sống đạo Phật”, có nói về
Thường Đề Bồ tát, nội dung như sau: “Khi Thường Đề vừa nghe tiếng nói ấy liền
thâm nhập Tam muội, nhờ đó thấu suốt rõ ràng các điều kiện tâm linh của hết
thảy Chư Phật. Rồi khi ra khỏi Tam muội, tất cả Chư Phật hiện tiền bỗng
nhiên biến mất. Tức thì sinh lòng phiền muộn, lại hỏi nữa: “Chư Phật này từ
đâu đến? Các Ngài đã đi đâu? Thường Đề buồn bã nhưng cùng lúc càng quyết định
gặp cho kỳ được Pháp Thượng Bồ tát”. Ở đây thay vì dịch là “Bỗng nhiên chẳng
hiện” thì dịch là “bỗng nhiên biến mất”. Mong rằng những so chiếu và giải thích
tuy dài dòng nhưng có thể giúp độc giải quyết một vài thắc mắc đối với các cụm
từ khó hiểu trên. Cụm từ “bỗng nhiên biến mất” dễ hiểu hơn!
Lược
giải:
Câu chuyện Bồ tát Thường Đề cầu Bát Nhã trong phẩm này mà
Phật kể cho cụ thọ Thiện Hiện cũng giống như câu chuyện của chính Đức Phật
trong thời kỳ tu Bồ tát đạo gặp Phật Nhiên Đăng thọ ký ở quyển 500, Kinh ĐBN:
Lúc bây giờ, Đức Thích Ca là một thanh niên nghèo, nghe tin Phật Nhiên Đăng đến
vương đô Liên Hoa thuyết pháp, vì muốn thấy Phật, nghe pháp nên làm thuê để
kiếm tiền mua hoa cúng dường. Thanh niên này làm lụng vất vả mà chỉ được mấy
quan tiền, không đủ để mua hoa. May thay, có một cô gái cho năm hoa sen. Ở đầu
ngã ba đường tại vương đô Liên Hoa, thanh niên này tức Phật Thích Ca phụng hiến
năm cọng hoa sen, trải tóc che bùn để Phật Nhiên Đăng đi qua. Nhờ đó được nghe Bát
Nhã, siêng năng tu tập các Ba la mật và vô lượng các pháp Phật khác, nên được
Phật Nhiên Đăng trao ký Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Ở đây Bồ tát Thường Đề không có may mắn như đức Thế Tôn
trực tiếp được gặp chư Phật truyền pháp và thọ ký, Bồ tát Thường Đề nghe trên
không bảo cứ đi về hướng Đông đến được thành Diệu Hương, sẽ gặp pháp sư tên là
Pháp Dũng thuyết Bát Nhã. Để cúng dường Bát Nhã và pháp sư Pháp Dũng, Bồ tát
Thường Đề phải chẻ xương bán tủy để mua phẩm vật. May thay, tất cả sự kiện trên
được con gái của một gia đình giàu có chứng kiến. Cô này nhất nhất thuật lại
cho cha mẹ và nhờ vậy được cha mẹ ủng hộ, cho phép cô cùng đi với Bồ tát Thường
Đề mang phẫm vật đến thành Diệu Hương cúng dường Bát Nhã và Bồ tát Pháp Dũng để
được nghe Bát nhã Ba la mật.
Kinh thuật lại đầy đủ, ở đây không cần lập lại nữa, chỉ
thêm rườm rà vô ích. Đây chỉ là phần trần thuật về sự kiện hơn là thuyết giảng
về giáo lý. Ai cũng có thể đọc và hiểu, nên không cần nói thêm.
Sự kiện quan trọng ở đây là Bồ tát Thường Đề vì thiết tha
cầu Bát Nhã và cầu thượng tri thức là Bồ tát Pháp Dũng thuyết giảng Bát Nhã nên
muốn mua hoa cúng dường, nhưng không có tiền để mua nên phải bán xương máu, tủy
sống. Đây nói lên lòng thiết tha cầu đạo nên không tiếc thân mạng. Sự kiện này
có hai ý nghĩa: 1. Kinh Bát Nhã là một linh vật xuất hiện ở đời và 2. Là tinh
thần cầu đạo để cứu độ chúng sanh. Đây cũng là một thí dụ để hậu thời tất cả
chúng sanh muốn trở thành Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề muốn cứu hộ người cần được
cứu hộ thì phải hành động như Thường Đề Bồ tát, giống như Thế Tôn khi xưa!
---o0o---