PHẨM “PHÁP TÁNH VÔ ĐỘNG”
Phần sau quyển 397, Hội thứ I, ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Như Hóa” quyển thứ 29, MHBNBLMĐ)
Gợi
ý:
Như trên đã nói để chấm dứt pháp hội thứ I, Phật thuyết
các pháp chẳng thật, như huyễn hóa như mộng, các pháp vô tánh, vô tướng, pháp
tánh rỗng không, để đưa đến kết luận là nếu có cái thấy biết như vậy thì được
tâm bình đẳng, bình đẳng đó là thanh tịnh. Nếu tri nhận như thế thì không còn
chấp ngã, ngã sở thì tâm mới được an nhiên tịch lặng. Tâm an nhiên tịch lặng
cũng chính là tâm như như bất động. Tâm như như bất động thì pháp tánh cũng vô
động, thìtrong ngoài đều bất động như nhau. Nên phẩm này Phật thuyết “Pháp Tánh
Vô Động”, để chúng hữu tình tâm hành dứt, bặt hý luận mà được thanh tịnh!
Tóm
lược:
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tánh bình đẳng của các pháp đều không,
không năng tác sở tác, làm sao các đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã thi thiết bố
thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, làm lợi ích chúng hữu tình?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói, pháp
tánh bình đẳng của tất cả pháp, đều là bản tánh không, mà bản tánh không này
đối với pháp hữu, pháp vô chẳng năng tác, sở tác.
Này Thiện Hiện! Nếu chúng hữu tình tự biết các pháp tánh bình
đẳng đều không, thời Như Lai hay Bồ tát chẳng hiện thần thông làm các việc hi
hữu, đó là trong bản tánh không của các pháp, vì không động nên khiến hữu
tình xa lìa các thứ vọng tưởng điên đảo, an trụ các pháp không, giải thoát
khổ sanh tử; cũng khiến các hữu tình xa lìa tưởng ngã, tưởng hữu tình, tưởng
dòng sanh mạng, tưởng khả năng sanh khởi… cho tới tưởng cái biết, cái thấy;
cũng khiến xa lìa tưởng sắc, tưởng thọ, tưởng, hành, thức; cũng khiến xa lìa
tưởng 12 xứ, 18 giới; cũng khiến xa lìa tưởng nhân duyên, tưởng đẳng vô gián
duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; cũng khiến xa lìa tưởng các pháp từ
duyên sanh ra; cũng khiến xa lìa tưởng 12 duyên khởi; cũng khiến xa lìa tưởng
pháp thế gian xuất thế gian, tưởng pháp hữu lậu vô lậu, tưởng pháp hữu vi vô
vi, an trụ cảnh giới vô vi, giải thoát khổ sanh tử.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Do không nào mà nói các pháp là không?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Do tưởng không nên nói các pháp là không.
Lại nữa, Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Nếu thân biến hóa
lại hóa làm ra các việc thì việc này thật sự chẳng không chăng?
Thiện Hiện đáp:
- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không! Các việc biến
hóa hoàn toàn không có thật sự, tất cả đều không.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Biến hóa và không, hai pháp như thế chẳng
phải hợp, chẳng phải tan; hai pháp đều không, nên chẳng phân biệt là không hay
hóa. Vì sao? Vì chẳng phải trong rỗng không, có không có hóa, hai việc có thể
nắm bắt được.
Lại nữa, Thiện Hiện! Không có sắc nào mà chẳng phải là
hóa, không có thọ, tưởng, hành, thức nào mà chẳng phải là hóa. Các sự biến hóa
ấy đều là không. Không có 12 xứ 18 giới nào mà chẳng phải là hóa. Các sự biến
hóa ấy đều là không. Không có tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 37 pháp
trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí v.v… mà chẳng phải là hóa. Các sự
biến hóa ấy đều là không. Không có Bồ tát hạnh nào mà chẳng phải là hóa, không
có quả vị Giác ngộ tối cao nào mà chẳng phải là hóa. Các sự biến hóa ấy đều là
không.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các uẩn, xứ, giới, duyên khởi, duyên sanh,
các chi duyên khởi v.v... thuộc thế gian đều là hóa. Các Ba la mật, hoặc ba
mươi bảy Pháp phần Bồ đề, hoặc ba môn giải thoát, hoặc 18 pháp không, hoặc các
Thánh đế, hoặc bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, hoặc tám giải thoát,
tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, hoặc pháp môn Đà la ni, pháp môn
Tam ma địa, hoặc mười địa Bồ tát, hoặc năm loại mắt, sáu phép thần thông, hoặc
Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi,
đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, hoặc ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám
mươi vẻ đẹp phụ thuộc, hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, hoặc Nhất
thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, hoặc các quả vị do pháp ấy mà
đạt được, hoặc các loại Bổ đặc già la nương vào pháp ấy mà an lập cũng đều là
hóa hết sao?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Tất cả pháp thế gian và xuất thế gian
đều như biến hóa, nhưng trong đó, có pháp là sở hóa của Thanh văn, có pháp
là sở hóa của Độc giác, có pháp là sở hóa của Bồ tát, có pháp là sở hóa của Như
Lai, có pháp là sở hóa của phiền não, có pháp là sở hóa của thiện pháp.
Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này mà nói tất cả pháp đều như
biến hóa như nhau không sai khác.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Có quả đoạn trừ, đó là quả Dự lưu, hoặc quả
Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A la hán, hoặc bậc Độc giác, hoặc bậc Như
Lai, vĩnh viễn đoạn trừ tập khí phiền não tương tục, cũng đâu phải là hóa?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các pháp nếu cùng hai tướng sanh diệt
hợp nhau, thì đều là hóa. Nếu pháp chẳng cùng với tướng sanh diệt hợp
nhau, pháp ấy chẳng phải hóa.
- Bạch Thế Tôn! Pháp nào là pháp chẳng phải là hóa?
- Này Thiện Hiện! Pháp chẳng hư dối tức là Niết bàn.
Pháp này chẳng hợp với tướng sanh diệt, vì vậy chẳng phải là hóa.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Như Thế Tôn đã nói, pháp tánh bình đẳng, tất cả đều không,
không kẻ năng động, không hai khá được, không có chút pháp chẳng tự tánh không.
Vì sao Niết bàn khá nói chẳng phải hóa?
- Này Thiện Hiện! Không có bất cứ một pháp nào dầu nhỏ nhặt
bằng đầu mảy lông mà tự tánh chẳng không, tự tánh không này không do ai
làm ra, tánh nó thường không, đây tức là Niết bàn. Vì không ai làm ra, tự tánh
thường không, chẳng lúc nào chẳng không, nên mới gọi là Niết bàn. Niết bàn là
vô sanh, vô diệt, phi hóa. (Q.397, ĐBN)
Lược
giải:
Phẩm này một lần nữa đề cập “tất cả pháp là hóa, bản tánh
không, tự tướng không”. Phật bảo: “Không
có bất cứ một pháp nào dầu nhỏ nhiệm bằng đầu mảy lông mà tự tánh chẳng không,
tự tánh không này không do ai làm ra, tánh nó thường không, đây tức là Niết
bàn. Vì không ai làm ra, tự tánh thường không, chẳng lúc nào chẳng không, nên
mới gọi là Niết bàn. Niết bàn là vô sanh, vô diệt, phi hóa”. (Q.397, ĐBN)
Tất cả chư Phật biết tất cả pháp đều không, nên thân tâm
không dao động. Do đó, chư Phật có thể chuyển các pháp mà không bị các pháp
chuyển.
Quyển 576, phần “Na Già Thất Lợi”, ĐBN, Bồ tát Long Cát
Tường bảo: “Thiện Tử phải biết! Nếu những ai thân tâm dao động thì thấy
đại địa… cũng dao động. Chư Phật Thế Tôn, Bồ tát Bất thối chuyển, Độc giác và A
la hán thân tâm an tĩnh, xa lìa mọi dao động; ở trong các pháp không thấy,
không biết có động, có chuyển, có nghiêng, có lay. Vì sao? Vì các Ngài thường
an trụ pháp không động, không chuyển, không nghiêng, không lay, nghĩa là chứng
tướng Không, Vô tướng, Vô nguyện, vắng lặng, pháp xa lìa, Bản tánh không. Do
trụ pháp này nên thân tâm không động”.
Suốt đại phẩm Bát Nhã, từ trên xuống dưới, Phật lặp đi lặp
lại: Các pháp như huyễn như hóa, không thật, giả có, chúng chỉ do duyên hợp,
không có tự tánh nên bảo là không. Các pháp là như tướng. Quán tưởng như thế
lâu ngày thì tâm sẽ được bình đẳng. Tâm bình đẳng tức bất động, bất động là
không nghiêng, không chuyển,không lay nên bảo là thanh tịnh. Tu hành tám mươi
bốn vạn pháp môn rốt lại chỉ cốt muốn được thanh tịnh. Thanh tịnh đó là Niết
bàn. Niết bàn là vô sanh, vô diệt, phi hóa.
Kết
luận cho 3 phẩm:
(“Vô Tánh Tự Tánh”, “Thắng Nghĩa Du Già” và “Pháp
Tánh Vô Động”)
Phẩm “Vô Tánh Tự Tánh” được thuyết ở cuối quyển thứ 395
đến đầu quyển 396. Phẩm “Thắng Nghĩa Du Già” hay còn gọi là phẩm “Bình Đẳng”,
được thuyết ở cuối quyển thứ 396 đến cuối quyển 397. Phẩm “Pháp Tánh Vô Động”
được thuyết ở cuối quyển thứ 397. Thật sự ba phẩm này diễn tả cùng một ý, vì có
liên hệ hỗ tương nhau: Thấy tất cả pháp là không hay bản tánh không, thấy tất
cả pháp tự tướng không, lấy vô tánh làm tự tánh thì được tâm bình đẳng bất
động nên nói là thanh tịnh. Thanh tịnh này chính là Niết bàn. Niết bàn còn nói
là an nhiên tịch tịnh.
Ba phẩm này có thể xem là kết luận của Hội thứ I nói riêng
và Đại Bát Nhã nói chung. Bố cục này hết sức chặt chẽ dường như ở trong cùng
một tiến trình có tánh cách vừa diễn dịch vừa qui nạp trong phương thức suy
luận thông thường. Nhưng chả có gì gọi là suy luận ở đây, pháp nhĩ tự nhiên dù
chư Phật có xuất hiện hay không, pháp thế gian và xuất thế gian vốn dĩ là như
vậy. Kinh nói: “Thật tánh các pháp đều bất động”.
1. Phẩm
“Vô Tánh Tự Tánh”:
1- Trong phẩm “Vô Tánh Tự Tánh”,
cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- “Bạch
Thế Tôn! Đại Bồ tát ấy, đối với tất cả pháp quán sát thật tướng như thế nào?
Phật
dạy:
-
Này Thiện Hiện! Quán thật tướng các pháp là đối với tất cả pháp đều quán là
không.
-
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát ấy, đối với tất cả pháp quán những pháp nào là không?
-
Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát ấy, đối với tất cả pháp quán tự tướng không.
-
Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát ấy, dùng Tỳ bà xá na quán tất cả pháp tự tướng
không, hoàn toàn không thấy có tự tánh có thể an trụ trong ấy mà chứng đắc quả
vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì quả vị Giác ngộ và tất cả pháp đều lấy vô
tánh làm tự tánh; vô tánh như thế chẳng phải chư Phật tạo ra, chẳng phải
Độc giác tạo ra, chẳng phải Bồ tát tạo ra, chẳng phải chư Thanh văn hướng quả
tạo ra, chỉ vì hữu tình đối với tất cả pháp chẳng biết chẳng thấy như thật đều
không. Do nhân duyên này, các đại Bồ tát tu hành Bát Nhã, phương tiện thiện
xảo, vì hữu tình như thật tuyên thuyết, khiến lìa chấp trước, thoát khổ sanh
tử”.
2- Thay vì đối với
tất cả pháp “quán tự tướng
là không” thì phẩm “Hành Tướng” quyển thứ 03, Kinh MHBNBLMĐ, lại quan
niệm: “Tự tánh của tất
cả pháp chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao? Vì tất cả pháp lấy vô tánh làm tự tánh. Do nhân duyên này, nên
nếu đại Bồ tát, khi tu hành Bát Nhã, đối với tất cả pháp, hoặc chấp thủ cái có,
hoặc chấp thủ cái chẳng có, hoặc chấp thủ cái cũng có, cũng chẳng có, hoặc chấp
thủ cái chẳng có chẳng phải chẳng có, hoặc chấp thủ cái chẳng chấp thủ, thì
chẳng phải là tu hành Bát Nhã. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không có tự tánh, nên
chẳng thể chấp thủ”.
Vậy,
tu hành Bát Nhã muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao thì phải quán tất cả
pháp đều không, không thể nắm bắt, lấy vô tánh làm tự tánh. Vì vậy, Kinh nói:
“Vô tánh ấy là Vô Thượng Bồ Đề”.
2. Phẩm
“Thắng Nghĩa Du Già”:
Còn gọi là phẩm “Bình Đẳng” cũng nói: “tất cả pháp
đều dùng vô tánh làm tự tánh" và "trong rỗng không, tất cả tướng sai
khác đều chẳng thể nắm bắt được”.
Nên, quyển thứ 29, Kinh MHBNBLMĐ nói: “Tướng bình
đẳng của các pháp hữu vi, vô vi ấy tức là đệ nhất nghĩa. Lúc hành Bát nhã Ba la
mật, đại Bồ Tát ở trong đệ nhất nghĩa chẳng động mà làm lợi ích cho
chúng hữu tình”.
Phật bảo Thiện Hiện: “Ta nói tánh bình đẳng của tất cả
pháp là pháp thanh tịnh”.
3. Phẩm
“Pháp Tánh Vô Động”.
Kinh cũng lặp lại các pháp là không thật, không có tự tánh
nên gọi là vô tánh. Người thấy các pháp là không, vô tánh thì được tâm bất
động. Nếu thấy pháp mà phân biệt pháp thì bị pháp chuyển. Kinh Lăng Nghiêm,
Phật dạy: Trần cảnh có lớn có nhỏ, cái “thấy” không có lớn nhỏ, nên bảo ông A
Nan:
- “Này A Nan, tất cả chúng sanh từ vô thủy đến giờ vì mê
mình (tâm) làm vật, bỏ mất chơn tâm của mình, bị cảnh vật xoay
chuyểnnên thấy có lớn nhỏ, rộng hẹp, tốt xấu v.v... Nếu ai xoay chuyển được
cảnh vật, thân tâm sáng suốt viên mãn, thì đồng với chư Phật. Lúc bấy giờ không
rời đạo tràng mà trên đầu một mảy lông, có thể chứa đựng mười phương thế giới”.
Khi thấy cảnh vật phân biệt lớn nhỏ, tốt xấu... Đó là chấp
tâm, “mê mình làm vật”, bị vật chuyển nên nói là mất tâm. Khi tâm không còn
vọng động nữa và trở về với cái an nhiên tịch lặng, thì các cảnh vật không còn
lăng xăng níu kéo nữa, tâm được như như bất động. Lúc bấy giờ, một sợi lông hay
mười phương thế giới cũng đều là chân tâm. Đã đồng là chân tâm cả, thì không
còn thấy thế giới là lớn hay sợi lông là nhỏ mà thấy bình đẳng (đồng một thể
tánh), nên nói “trên đầu một mảy lông, có thể chứa đựng mười phương thế giới”.
“Mưa ngoài trời cũng như mưa trong lòng”. Một câu nói thật
thi vị, ướt át: Nó diễn tả một cách sống động cảnh một người trần mắt thịt như
chúng ta, nhìn mưa rơi ngoài trời mà lòng đau buồn chẳng khác nào như mưa rơi
trong lòng. Đó là người đầy tâm sự, nên bị cảnh vật chuyển như thi hào
Nguyễn Du nói: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu. Người buồn cảnh có vui đâu bao
giờ!”. Nhưng lại có câu “Vào cao lâu, tửu điếm như ngồi tại đạo tràng” (Dâm
phòng tửu tứ vô phi thanh tịnh đạo tràng). Đó là tâm như như bất động dù
trước các sự cám dỗ của ngũ dục lục trần, của bát phong(1) hay của tất cả thị
phi nhân ngã khác. Điều đó có nghĩa là vật không chuyển được tâm. Vật không
chuyển được tâm thì trái lại tâm có thể chuyển được vật. Nên ngay lúc ấy có thể...
“dùng một sợi lông buộc núi Tô mê lô, núi Luân vi, các núi nhỏ khác và vạn vật
trong tam thiên đại thiên thế giới, ném qua vô lượng, vô số, vô biên thế giới
phương khác, mà không tổn hại các loài hữu tình.”
Vì vậy, dong ruỗi bên ngoài, dao dộng bên trong, nên nói
là mờ mịt. Đó là chi mạc vô minh. Lúc nào cũng rõ ràng thường biết, làm chủ
được thân tâm, trong ngoài bất động thì được cái diệu minh chân tánh. Yếu chỉ
tu hành chỉ có thế!
Thích nghĩa cho phần lược giải này:
(1). Bát phong là được, mất, khen, chê, vinh, nhục, khổ,
vui cũng không làm cho tâm dao động như câu nói của Đại Thừa Vô Sanh Phương Tiện
Môn “Thân thể cập thủ túc, tịch nhiên an bất động, Bát Phong xuy bất động (身體及手足、寂然安不動、八風吹不動): Thân thể và tay
chân, lặng yên chẳng động, Tám Gió thổi chẳng lay”.
---o0o---