PHẨM “THẮNG NGHĨA DU GIÀ”(1)
Phần sau quyển 396 cho đến phần đầu quyển 397, Hội thứ I,
ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Bình Đẳng” quyển thứ 29, MHBNBLMĐ)
Gợi
ý:
Trước khi chấm dứt Hội thứ I, với 400 quyển, chiếm 2/3
trong số 600 quyển Đại Bát Nhã, Phật nói các giáo lý tương ứng với cơ, cảnh,
hành, lý, quả…của Kinh này với tên phẩm là “Thắng Nghĩa Du Già”. Đây là giáo
pháp thậm thâm,“tháo đinh gở chốt” cho chúng ta. Cái gì chúng ta thắc mắc nghi
ngờ thì phẩm này trả lời tất cả. Vậy phải tụng đọc tư duy và ghi nhớ kỹ.
Tóm
lược:
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Những cái thấy là thật không nhiễm, không
tịnh, những cái thấy là chẳng thật cũng không nhiễm, không tịnh. Vì sao? Vì tất
cả pháp đều dùng vô tánh làm tự tánh.
- Bạch Thế Tôn! Các pháp vô tánh không nhiễm, không tịnh, các
pháp có tánh cũng không nhiễm, không tịnh. Các pháp có tánh vô tánh cũng không
nhiễm, không tịnh.
- Bạch Thế Tôn! Pháp vô tự tánh không nhiễm, không tịnh, pháp
có tự tánh cũng không nhiễm, không tịnh; pháp có tự tánh, vô tự tánh cũng không
nhiễm, không tịnh. Vì tất cả pháp đều dùng vô tánh làm tự tánh.
Nếu vậy tại sao Thế Tôn nói có pháp thanh tịnh?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ta nói tánh bình đẳng của tất cả pháp là
pháp thanh tịnh.
(Pháp nào là pháp bình đẳng?)
- Bạch Thế Tôn! Vậy tất cả pháp nào được coi là bình đẳng?
- Này Thiện Hiện! Các pháp chơn như, pháp giới, pháp tánh,
tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp
định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, dù Như Lai
xuất thế hay chẳng xuất thế, tánh tướng thường trụ, đó gọi là tánh bình đẳng
của tất cả pháp; tánh bình đẳng này gọi là pháp thanh tịnh; đây chỉ nương vào
thế tục mà nói là thanh tịnh, chứ chẳng y cứ vào thắng nghĩa. Vì sao? Vì trong
thắng nghĩa đế, không có sự phân biệt, không có hý luận, tất cả ngôn ngữ danh
tự đều dứt.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp như thấy trong mộng, như ảnh
tượng, như tiếng vang, như bóng nắng, như bóng sáng, như trò huyễn, như thân
biến hóa, như ảo thành(2), tuy hiện ra giống như có mà không thật có thì tại
sao đại Bồ tát nương vào pháp phi chân như thế mà phát tâm cầu quả vị Giác
ngộ tối cao, và phát nguyện: Ta sẽ viên mãn bố thí Ba la mật, ta sẽ viên mãn
tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, phương tiện thiện xảo, diệu
nguyện, lực, trí Ba la mật; ta sẽ viên mãn bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định
vô sắc; ta sẽ viên mãn 37 pháp trợ đạo; ta sẽ viên mãn Phật mười lực, bốn điều
không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám
pháp Phật bất cộng; ta sẽ viên mãn pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; ta
sẽ viên mãn Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; ta sẽ viên mãn
ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; ta sẽ phát khởi Vô lượng
quang minh chiếu khắp vô biên thế giới trong mười phương; ta sẽ phát khởi một
loại âm thanh vi diệu khắp vô biên thế giới mười phương, tùy theo tâm, tâm sở, ý
thích sai khác của các hữu tình mà vì họ nói các loại pháp môn vi diệu, khiến
họ siêng tu học, chứng đắc lợi ích an lạc thù thắng?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao: Những điều mà ông đã thuyết
đâu chẳng khác như mộng được thấy, như ảnh tượng, như tiếng vang, như bóng
nắng, như bóng sáng, như trò huyễn, như thân biến hóa, như ảo thành?
Thiện Hiện đáp:
- Đúng vậy! Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện Thệ! Nếu tất
cả pháp như điều thấy trong mộng, nói đủ cho đến như ảo thành, đều không thật,
thì tại sao đại Bồ tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, phát lời chắc thật: Ta sẽ
viên mãn tất cả công đức lợi ích an lạc vô lượng hữu tình?
- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải điều thấy trong mộng… cho đến
những vật loại hiện ra như ảo thành, có thể hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn,
tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí Ba la
mật, huống là có thể viên mãn tất cả pháp như tứ thiền, tứ vô lượng , tứ
định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… hay tất cả pháp
Phật khác?
- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải điều thấy trong mộng... cho đến
những vật loại hiện ra trong ảo thành, có thể thành tựu tất cả việc làm
theo ước nguyện. Tất cả pháp khác cũng giống như thế, đều chẳng phải thật?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Pháp chẳng phải thật có, chẳng có thể hành
bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, phương tiện thiện xảo,
diệu nguyện, lực, trí Ba la mật, huống là có thể viên mãn. Pháp chẳng phải thật
có, nói chi đến việc hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, huống là
có thể viên mãn. Pháp chẳng phải thật có, nói chi đến việc hành 37 pháp trợ
đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí
huống có thể viên mãn. Pháp chẳng phải thật có, nói chi đến việc hành ba mươi
hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, huống có thể viên mãn. Pháp
chẳng phải thật, chẳng thể thành tựu việc làm theo nguyện ước, pháp chẳng phải
thật có, chẳng thể chứng đắc sở cầu là quả vị Giác ngộ tối cao.
- Lại nữa, Thiện Hiện! Vì bố thí, tịnh giới, an nhẫn,
tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí Ba la
mật chẳng phải thật có, nên chẳng thể chứng đắc sở cầu là quả vị Giác ngộ. Vì
tất cả pháp Phật nói chung chẳng phải thật có, nên chẳng thể chứng đắc sở cầu
là quả vị Giác ngộ.
- Này Thiện Hiện! Các pháp như thế, tất cả đều do tư duy
tạo tác. Các pháp do tư duy tạo tác đều chẳng thể đắc Nhất thiết trí trí. Các
pháp như thế đối với đạo Bồ đề, tuy có thể dẫn phát nhưng đối với kết quả không
thể giúp ích gì. Do vì các pháp này không sanh, không khởi, không có thật
tướng, nên các đại Bồ tát từ khi mới phát tâm, tuy khởi các pháp thiện của
thân, ngữ, ý, đó là tu hành các pháp Phật nói chung, nhưng biết tất cả đều như
mộng, như bóng, như vang, như trò huyễn, như thân biến hóa, như ảo thành, đều
chẳng phải thật.
- Lại nữa, Thiện Hiện! Các pháp như thế tuy chẳng phải
thật, nhưng nếu chẳng viên mãn thì nhất định chẳng có thể thành thục hữu tình,
nghiêm tịnh cõi Phật, chứng đắc quả vị Giác ngộ. Các đại Bồ tát nếu chẳng
viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã và tất cả các
thiện pháp khác thì quyết định chẳng có thể thành thục hữu tình, nghiêm tịnh
cõi Phật, chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao.
- Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ tát ấy khi tu hành Bát nhã Ba
la mật, hành tất cả thiện pháp đều như thật biết như mộng, như tượng, như vang,
như ảnh, như bóng, như trò huyễn, như thân biến hóa, như ảo thành. Nếu các đại
Bồ tát hành được như vậy, thì đối với tất cả pháp chẳng chấp thủ Có, chẳng
chấp thủ Không. Vì sao? Vì bố thí Ba la mật chẳng thể nắm bắt, tịnh giới,
an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã cũng chẳng thể nắm bắt; tất cả thiện pháp
cũng chẳng có thể nắm bắt. Vì sao? Vì tất cả pháp đều chẳng thể nắm bắt, hoàn
toàn không phải thật, giống như mộng, như thành bằng hương khói… chẳng thể
nắm bắt mà cũng chẳng thể chứng đắc. Nhưng các hữu tình đối với các pháp
như thế, chẳng biết chẳng thấy, đại Bồ tát, vì độ thoát các hữu tình nên cầu
đạt đến quả vị Giác ngộ tối cao để hóa độ họ.
- Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ tát ấy, khi tu hành Bát nhã Ba
la mật, thấy các phàm phu ngu si ở trong cái chẳng phải ngã mà chấp tưởng là
ngã; ở trong cái chẳng phải hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ
đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, khiến tác giả, khởi giả, khiến khởi giả,
thọ giả, khiến thọ giả, tri giả, khiến tri giả, kiến giả, khiến kiến giả(3) mà
tưởng chấp là hữu tình, mạng giả v.v… Đại Bồ tát ấy, thấy như vậy vô cùng
thương xót, phương tiện giáo hóa, khiến lìa điên đảo, vọng tưởng, chấp trước,
an để trong cảnh giới cam lồ vô tướng; trụ trong cảnh giới ấy, chẳng khởi tưởng
là ngã, cũng chẳng khởi tưởng chấp trước hữu tình, mạng giả v.v… Khi ấy, tất cả
trạo cử, tán loạn, phân biệt, hý luận chẳng còn hiện hành, tâm thể an trụ cảnh
giới an nhiên tịch lặng, vô hý luận.
- Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ tát ấy, do phương tiện này tu
hành Bát nhã Ba la mật, tự mình đối với các pháp không còn chấp trước, sạch các
lậu hoặc, các tập khí tương tục, chỉ trong sát na tương ưng với diệu huệ thì
“đắc” Vô Thượng Giác ngộ. Đây là nương vào thế tục mà nói, chẳng y vào thắng
nghĩa. Trong thắng nghĩa năng đắc, sở đắc, đều bất khả đắc. Vì sao? Vì nếu
bảo đắc pháp tức rơi vào hữu sở đắc. Kẻ hữu sở đắc bèn chấp có hai. Kẻ chấp hai
chẳng năng đắc quả, cũng chẳng hiện quán, kẻ chấp không hai cũng lại như thế.
Nếu không hai, không chẳng hai tức gọi đắc quả, cũng gọi là hiện quán. Vì sao?
Vì chấp đây chấp kia đều là hý luận. Lìa hý luận mới gọi là bình đẳng. (Q.396, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện Bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều vô tánh, thì cái gì gọi
là tánh bình đẳng của pháp?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nếu ở nơi nào không nói hữu tánh, cũng không
nói vô tánh, cũng chẳng nói là tánh bình đẳng, thì như thế mới gọi là tánh bình
đẳng của pháp. Nên biết, tánh bình đẳng của pháp đã bất khả thuyết, cũng bất
khả tri, trừ tánh bình đẳng không có pháp nào có thể đắc, lìa tất cả pháp không
có tánh bình đẳng.
Thiện Hiện phải biết: Đối với Tánh bình đẳng này hàng phàm
phu kể cả Thánhgiới đều chẳng thể hành, vì chẳng phải cảnh giới sở hành của họ.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Tánh bình đẳng cũng chẳng phải cảnh sở hành
của Phật chăng?
Phật bảo Thiện Hiện!
- Tánh bình đẳng của pháp chẳng phải cảnh sở hành của các
Hiền Thánh. Nghĩa là kẻ tùy tín hành, hoặc kẻ tùy pháp hành, hoặc kẻ Đệ bát,
hoặc Dự lưu, hoặc Nhất lai, hoặc Bất hoàn, hoặc A la hán, hoặc Độc giác, hoặc
Bồ tát, hoặc các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều chẳng thể đem tánh bình
đẳng làm cảnh sở hành.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối tất cả
pháp đều được tự tại, vì sao lại nói tánh bình đẳng chẳng phải cảnh sở hành của
chư Phật?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối tất cả
pháp tuy được tự tại, nếu tánh bình đẳng cùng Phật có khác, thì có thể nói là
cảnh sở hành của Phật. Nhưng tánh bình đẳng cùng Phật không khác, làm sao có
thể nói là cảnh sở hành của chư Phật.
Này Thiện Hiện! Nên biết, hoặc pháp tánh bình đẳng của các
phàm phu, hoặc pháp tánh bình đẳng của tùy tín hành, hoặc pháp tánh bình đẳng
của tùy pháp hành, hoặc pháp tánh bình đẳng của Đệ bát… cho đến hoặc pháp tánh
bình đẳng của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, tất cả pháp tánh bình đẳng như
thế đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Nhất tướng bình đẳng này
không có hai, không khác, cho nên chẳng thể nói: Đây là pháp tánh bình đẳng của
phàm phu, nói rộng cho đến đây là pháp tánh bình đẳng của Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác. Ở trong tánh bình đẳng nhất tướng đây, các tánh bình đẳng đã chẳng
thể nắm bắt được, trong đó, tướng sai biệt của phàm phu và Thánh giả cũng chẳng
thể nắm bắt được. (Q.396, ĐBN)
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu trong tánh bình đẳng của tất cả pháp, các
tướng sai biệt đều chẳng thể nắm bắt được thì các phàm phu, hoặc tùy tín hành,
hoặc tùy pháp hành, hoặc các Đệ bát, hoặc các Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la
hán, hoặc các Độc giác, hoặc các đại Bồ tát, hoặc chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác, tất cả pháp như thế và hữu tình đáng lẽ không sai biệt?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói, ở trong tánh
bình đẳng của tất cả pháp, hoặc các phàm phu, hoặc các bậc Thánh cho đến Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, pháp và hữu tình đều không sai biệt.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu trong tánh bình đẳng của tất cả pháp phàm
phu, Thánh giả, pháp và hữu tình đều không sai khác, thì tại sao có Tam Bảo
xuất hiện ở thế gian, đó là Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Phật, Pháp, Tăng bảo cùng
với tánh bình đẳng có khác nhau chăng?
Thiện Hiện đáp:
- Như con hiểu nghĩa Phật nói thì Phật, Pháp, Tăng bảo cùng
với tánh bình đẳng đều không có sai khác.
- Bạch Thế Tôn! Hoặc Phật bảo, hoặc Pháp bảo, hoặc Tăng bảo,
hoặc tánh bình đẳng, tất cả như thế đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng đó là vô tướng. Nhưng Phật Thế
Tôn ở trong vô tướng, phương tiện thiện xảo, kiến lập các pháp v.v... có sự sai
khác, gọi đây là phàm phu, đây là tùy tín hành, đây là tùy pháp hành, đây là Đệ
bát, đây là Dự lưu, đây là Nhất lai v.v...cho đến đây là Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói. Như Lai đối
với pháp phương tiện thiện xảo, có thể đối với vô tướng kiến lập các pháp
v.v... sai biệt.
- Lại nữa, Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Nếu Như Lai chẳng
chứng quả vị Giác ngộ tối cao vì hữu tình kiến lập các pháp sai khác thì liệu
hữu tình có thể tự biết: Đây là địa ngục, đây là bàng sanh, đây là quỷ giới,
đây là người, đây là chúng trời; đây là sắc, đây là thọ, tưởng, hành, thức; đây
là 12 xứ, 18 giới; đây là tứ thiền, tứ vô luợng, tứ định vô sắc; đây là Tứ đế,
đây là 37 trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến đây là Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác, các loại hữu tình đối với các tướng sai biệt như thế có thể tự
biết chăng?
Thiện Hiện đáp:
- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không! Nếu Phật chẳng
vì hữu tình an lập tướng sai biệt như thế thì các hữu tình chẳng có thể tự biết
các tướng sai biệt như thế.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Vì vậy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với
pháp vô tướng phương tiện thiện xảo tuy vì hữu tình an lập các thứ tướng sai
khác, nhưng đối với pháp tánh bình đẳng của các pháp hoàn toàn vô động.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Có phải Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với
pháp tánh bình đẳng của tất cả pháp hoàn toàn không có lay động? Như vậy thì
tất cả phàm phu ngu si đối với pháp tánh bình đẳng của các pháp không có lay
động chăng? Như vậy thì tùy tín hành, hoặc tùy pháp hành, hoặc Đệ bát, Dự lưu,
Nhất lai, Bất hoàn, A la hánv.v… đối với pháp tánh bình đẳng của các pháp cũng
không lay động chăng?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp và các hữu tình
đều chẳng vượt(4) pháp tánh bình đẳng, đối các pháp tánh bình đẳng cũng đều
không chỗ động.
- Này Thiện Hiện! Nên biết, chơn như, pháp giới, pháp
tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, bình đẳngtánh, ly sanh tánh,
pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì của tất
cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tức là chơn như, pháp giới, pháp tánh v.v…của
phàm phu ngu si, cũng là chơn như, pháp giới, pháp tánh v.v… của tùy tín hành,
tùy pháp hành, Đệ bát v.v… Vì sao? Vì tất cả pháp và các hữu tình đều chẳng
vượt qua chơn như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh… cho đến
cảnh giới bất tư nghì.
- Này Thiện Hiện! Nên biết, chơn như cho đến cảnh giới bất tư
nghì tánh không sai khác.
- Này Thiện Hiện! Vì tướng của sắc khác nhau nên tánh
cũng phải khác nhau, vì tướng của thọ, tưởng, hành, thức khác nên tánh cũng
phải khác, vậy thì pháp tánh cũng phải khác nhau; vì tướng của 12 xứ, 18
giới khác nên tánh cũng phải khác, vậy thì pháp tánh cũng phải khác nhau; nói
rộng cho đến vì tướng của Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí khác nên tánh
cũng phải khác, vậy thì pháp tánh cũng phải khác nhau; vì tướng của phàm phu
ngu si khác nên tánh cũng phải khác, vì tướng của tùy tín hành, tùy pháp hành,
Đệ bát v.v… khác nên tánh cũng phải khác, vậy thì pháp tánh cũng phải khác
nhau; vì tướng của các pháp thế gian, pháp xuất thế gian khác nên tánh cũng
phải khác, vì tướng của các pháp hữu lậu, vô lậu, pháp hữu vi, vô vi khác nên
tánh cũng phải khác, vậy thì pháp tánh cũng phải khác nhau.
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bach thế Tôn! Làm sao đối với các pháp tướng sai khác
mà có thể an lập được pháp tánh nhất tướng? Làm sao đại Bồ tát khi tu
hành Bát nhã Ba la mật, chẳng phân biệt pháp và các hữu tình có các loại tánh?
(Tất cả pháp đều rỗng không).
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Pháp tánh của sắc là rỗng không. Pháp tánh
của thọ, tưởng, hành, thức là rỗng không. Pháp tánh của 12 xứ, 18 giới cũng
rỗng không. Pháp tánh của tứ thitứ, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 37 pháp trợ
đạo 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cũng rỗng không. Pháp tánh của phàm phu
ngu si là rỗng không. Pháp tánh của tùy tín hành, tùy pháp hành, Đệ bát, v.v…
là rỗng không. Pháp tánh của pháp thế gian, xuất thế gian là rỗng không. Pháp
tánh của pháp hữu lậu vô lậu, pháp hữu vi vô vi cũng rỗng không. Nói chung, Tất
cả pháp tánh đều là rỗng không.
Vì vậy, Cụ thọ Thiện Hiện mới hỏi Phật:
-“Làm sao đối với các pháp tướng sai khác mà có thể an lập
được pháp tánh nhất tướng”?
Phật hỏi lại Cụ thọ:
- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Pháp tánh của sắc là rỗng không
chăng? Pháp tánh của thọ, tưởng, hành, thức là rỗng không chăng? Nói rộng, pháp
tánh của tất cả pháp là rỗng không chăng?
Cụ thọ bạch Phật:
- Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy! Tất cả pháp tánh đều là rỗng
không.
Phật lại hỏi:
- Trong rỗng không, tướng sai khác của pháp thảy có thể nắm
bắt được chăng? Nghĩa là tướng sai khác của sắc có thể nắm bắt được chăng?
Tướng sai khác của thọ, tưởng, hành, thức có thể nắm bắt được chăng? Tướng sai
khác của pháp thế gian, xuất thế gian có thể nắm bắt được chăng? Tướng sai khác
của pháp hữu lậu vô lậu, pháp hữu vi vô vi có thể nắm bắt được chăng?
Thiện Hiện đáp:
- Bạch Thế Tôn! Không! Trong rỗng không, tất cả tướng sai
khác đều chẳng thể nắm bắt được”.
Do đó nên biết, pháp tánh bình đẳng chẳng phải sắc, chẳng
lìa sắc; chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức, chẳng lìa thọ, tưởng, hành,
thức; pháp tánh bình đẳng chẳng phải 12 xứ, 18 giới, chẳng lìa 12 xứ, 18 giới;
pháp tánh bình đẳng chẳng phải tứ thiền, tứ vô lương, tứ định vô sắc, 37 pháp
trợ đạo 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí…, cũng chẳng lìa tất cả các pháp ấy;
pháp tánh bình đẳng chẳng phải phàm phu ngu si, cũng chẳng lìa phàm phu ngu si;
chẳng phải tùy tín hành, tùy pháp hành, Đệ bát, Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A
la hán…cho đến Như Lai Chánh đẳng Chánh giác, cũng chẳng lìa tùy tín hành cho
đến Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác; chẳng phải pháp thế gian xuất thế gian, chẳng
lìa pháp thế gian xuất thế gian; chẳng phải pháp hữu lậu vô lậu, pháp hữu vi vô
vi, chẳng lìa pháp hữu lậu vô lậu, pháp hữu vi vô vi. (Q. 397, ĐBN)
Cụ thọThiện Hiệnbạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Pháp tánh bình đẳng có phải là hữu vi, có
phải là vô vi?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Pháp tánh bình đẳng chẳng phải là hữu vi,
chẳng phải là vô vi; nhưng lìa pháp hữu vi, pháp vô vi chẳng thể nắm bắt được;
lìa pháp vô vi, pháp hữu vi cũng chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện! Hoặc cảnh giới hữu vi, hoặc cảnh giới vô vi,
hai cảnh giới như thế, chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, vô
sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng đó là vô tướng. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác nương vào thế tục mà nói, chứ chẳng y cứ vào thắng nghĩa. Vì sao? Vì chẳng
phải trong thắng nghĩa có thể có thân hành, ngữ hành, ý hành, chẳng phải lìa
thân hành, ngữ hành, ý hành mà có thể nắm bắt được thắng nghĩa.
Này Thiện Hiện! Nên biết, chính pháp tánh bình đẳng của hữu
vi, vô vi gọi là thắng nghĩa, cho nên đại Bồtát khi tu hành Bát nhã Ba la mật,
chẳng động thắng nghĩa mà hành hạnh đại Bồ tát, thành thục hữu tình, nghiêm
tịnh cõi Phật, có thể chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao.
Thích nghĩa:
(1). Thắng nghĩa du già: Thắng nghĩa có nghĩa là cao tột,
vi diệu hay thực tại tối hậu cũng còn gọi là Đệ nhất nghĩa. Du già có nghĩa là
tương ứng, tức là tương ứng với cơ, cảnh, hành, lý, quả…Thắng nghĩa du
già: Tu hành như thế nào để cơ (nghĩa là đã được quả tròn đầy, lợi sanh
cứu vật, tùy cơ duyên mà cảm ứng, thuốc và bệnh tương ứng với nhau), cảnh (không
trái với tự tánh của tất cả pháp), hành (tương ứng với hành các định,
tuệ v.v…), lý( lý hai đế: an lập, phi an lập), quả (có thể chứng
đắc Vô Thượng Bồ đề cùng tột)tương ưng với “đạo lí chân thực tối thắng”.
(2). Ảo thành hay Thành tầm hương còn gọi là Thành Càn
thát bà(Phạm: Gandharva-nagara): Dịch ý là ảo thành, Tầm hương thành, thành
bằng hương khói. Chỉ lầu gác, núi sông, rừng rậm, không có thực mà hiện giữa hư
không. Truyền thuyết cho rằng, thần Càn thát bà hóa hiện thành quách giữa hư
không, vì thế mà gọi là Càn thát bà thành. Hoặc chỉ các ảo ảnh trên biển, sa
mạc, giữa đồng không mông quạnh ở vùng nhiệt đới, do nhiệt độ nung nóng thay
đổi chiết suất của không khí tạo thành lâu cát thành quách nhưng không có thật.
Trong Kinh thường dùng hình ảnh này để thí dụ các pháp không thật có. Đó là một
thí dụ trong thập dụ của Kinh điển Đại thừa. Thích nghĩa này bổ khuyết cho thập
dụ đã giải thích ở phẩm trên.
(3). Ngã, chúng sanh, thọ giả, mạng giả, sanh giả, dưỡng
dục giả, tác giả, sử tác giả, khởi giả, sử khởi giả, thọ giả, sử thọ giả, tri
giả, kiến giả. Đây là 14 khoa danh tướng trong Bát thập nhất
khoa (Tám mươi mốt khoa): Đã được thích nghĩa rồi, xin xem lại các
phẩm trước!
(4). Vượt qua: Chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng
hư vọng, tánh chẳng đổi khác, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp
trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, còn gọi là “thập nhị
Chân như” của Kinh Bát Đại Nhã. Tánh Bình đẳng như trên đã thuyết là bất khả
thuyết, bất khả tư nghì, là một trong thập nhị Chân như, cũng chính là Phật
tánh, cũng chính là Tánh Không, cũng gọi Tất cánh tịnh hay Niết bàn… Vậy thì
tất cả pháp và tất cả hữu tình làm sao có thể vượt qua (To overcome—To outdo)
được.
Lược
giải:
Đây là một phẩm đặc biệt được Phật thuyết trước khi chấm
dứt Hội thứ I, ĐBN. Tại sao phẩm này gọi là đặc biệt? Điểm thứ nhất: Vì phẩm
này trả lời được những thắc mắc của chúng ta: Tại sao tất cả pháp kể cả pháp
Phật đều như huyễn như mộng không giúp ích gì, không thể thành tựu sở cầu quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà lại phải học phải tu, và còn được ca tụng là
thắng nghĩa? Điểm thứ hai là nói về pháp tánh tất cả pháp đều rỗng không?
1. Nhất
tánh Bình đẳng hay Thắng nghĩa Du già:
Có một điều làm cho chúng ta ngạc nhiên (tôi không muốn
nói là ngỡ ngàng hay lẫn lộn) là Kinh thường nói tất cả pháp (kể cả pháp Phật)
đều như mộng ảo, như trăng trong nước, như ảnh trong gương hay như thành bằng
hương khói, chẳng thật có (vì những lý do như không có tự tánh hòa hợp, do
duyên hội, nên nói là giả có v.v...). Nếu như vậy không riêng gì Thiện Hiện mà
kể cả chúng ta cũng tự nghĩ là không thể thành tựu những việc làm như
nguyện ước, cũng chẳng có thể chứng đắc sở cầu là quả vị Giác ngộ tối cao?
Để trả lời Phật bảo Thiện Hiện: “Các pháp như thế tuy
chẳng phải thật (đều do tư duy tạo tác), nhưng nếu chẳng viên mãn thì
nhất định chẳng có thể thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng đắc quả
vị Giác ngộ tối cao”.
Câu trả lời có vẻ như mâu thuẫn với cái hiểu biết thông
thường của chúng ta. Vì sao? Vì đã nói các pháp không thật như trò huyễn đều do
tư duy tạo tác, nhưng nếu không viên mãn nhất định sẽ không thể chứng đắc sở
cầu? Tại sao? Để trả lời vấn nạn này, Phật bảo nếu hành tất cả các thiện
pháp như trò huyễn cho đến ảo thành như vậy, thì đối với tất cả pháp
chẳng chấp thủ. Nếu chấp thủ thì không thể thành tựu hay chứng đắc quả vị Giác
ngộ tối cao.
Lý do gì đưa đến chấp thủ? Câu trả lời là: Tại vì nắm
bắt!
Động cơ chính nằm đằng sau chấp thủ hay nắm bắt đó chính
là ngã. Chư Bồ tát vì muốn cứu độ chúng sanh ra khỏi mê lộ đó nên mới
giảng nói rằng chẳng có ngã mà tưởng có ngã, nên phải quay đi lộn lại trong sáu
nẻo luân hồi. Diệt ngã thì không còn điên đảo, vọng tưởng, chấp trước nữa thì
mới có thể an trụ trong cảnh giới cam lồ vô tướng. Muốn được như vậy, thì phải
học và hành Bát nhã Ba la mật để tự mình không còn chấp ngã nữamới sạch hết các
lậu hoặc, các tập khí tương tục, rồi thì chỉ trong sát na tương ưng với diệu
huệ thì “đắc” Vô Thượng Giác ngộ. Nhưng còn nói đắc là còn thấy năng chứng sở
chứng. Đó là nói theo thế tục, trong thắng nghĩa “năng đắc, sở đắc, đều bất
khả đắc. Vì sao? Vì nếu bảo đắc pháp tức rơi vào hữu sở đắc. Kẻ hữu sở đắc bèn
chấp có hai. Kẻ chấp hai chẳng năng đắc quả, cũng chẳng hiện quán, kẻ chấp
không hai cũng lại như thế. Nếu không hai, không chẳng hai tức gọi đắc quả,
cũng gọi là hiện quán. Vì sao? Vì chấp đây chấp kia đều là hý luận. Lìa hý luận
mới gọi là bình đẳng”. (Q.396, ĐBN)
Có bình đẳng mới có thanh tịnh, đó là mục tiêu chính của
việc tu hành. Vậy thế nào là bình đẳng? Phật thường bảo: “Nếu ở nơi nào
không nói hữu tánh, cũng không nói vô tánh, cũng chẳng nói là tánh bình đẳng,
thì như thế mới gọi là tánh bình đẳng của pháp. Nên biết, tánh bình đẳng của
pháp đã bất khả thuyết, cũng bất khả tri, trừ tánh bình đẳng không có pháp nào
có thể đắc, lìa tất cả pháp không có tánh bình đẳng”.
“Hoặc pháp tánh bình đẳng của các phàm phu, hoặc pháp tánh
bình đẳng của Thánh giả… cho đến hoặc pháp tánh bình đẳng của chư Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác, tất cả pháp tánh bình đẳng như thế đều đồng nhất tướng, chỗ
gọi vô tướng. Nhất tướng bình đẳng này không hai, không khác, cho nên chẳng
thể nói: Đây là pháp tánh bình đẳng của phàm phu, nói rộng cho đến đây là pháp
tánh bình đẳng của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Ở trong tánh bình đẳng nhất
tướng đây, các tánh bình đẳng đã chẳng thể nắm bắt được…” (Q.396, ĐBN)
Bởi lý do đó, nên mở đầu phẩm “Thắng Nghĩa Du Già”, Phật
Bảo:
“Các pháp chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng,
tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật
tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, dù Như Lai xuất thế hay chẳng
xuất thế, tánh tướng thường trụ, đó gọi là tánh bình đẳng của tất cả pháp; tánh
bình đẳng này gọi là pháp thanh tịnh; đây chỉ nương vào thế tục mà nói là thanh
tịnh, chứ chẳng y cứ vào thắng nghĩa. Vì sao? Vì trong thắng nghĩa đế, không có
sự phân biệt, không có hý luận, tất cả ngôn ngữ danh tự đều dứt”.
Như vậy, chúng ta có thể kết luận: Nhất tướng bình đẳng
này cũng chính là Chân như, Pháp giới, Pháp tánh, Pháp định, Pháp trụ, Thật
tế... cũng gọi là Phật tánh, Tánh không, Thật Tướng, Pháp thân, Viên Thành
Thực, Tự tánh Thanh tịnh thân, Như lai tạng, Niết bàn... tất cả không hai không
khác. Chứng biết như vậy thì cơ cảnh hành quả đạt đến chỗ rối ráo, tức đạt được
đạo lý chân thực tối thắng, nên gọi là “Thắng nghĩa Du già”. Nếu đạt tới chỗ đó
thì pháp tánh của phàm phu cùng chư Phật nào khác.
2. Tất
cả pháp tánh đều rỗng không.
Pháp tánh của sắc là rỗng không, pháp tánh của thọ, tưởng,
hành, thức là rỗng không. Pháp tánh của 12 xứ, 18 giới cũng rỗng không. Pháp
tánh của tứ thiền tứ, vô lượng, tứ định vô sắc, 37 pháp trợ đạo 18 pháp bất
cộng, Nhất thiết trí… cũng rỗng không. Pháp tánh của phàm phu ngu si rỗng
không. Pháp tánh của tùy tín hành, tùy pháp hành, Đệ bát, cho đến Phật Vô
thượng cũng rỗng không. Pháp tánh của pháp thế gian, xuất thế gian rỗng không.
Pháp tánh của pháp hữu lậu vô lậu, pháp hữu vi vô vi cũng rỗng không. Nói
chung, tất cả pháp tánh đều là rỗng không.
Trong cái rỗng không, tất cả tướng sai khác đều chẳng thể
nắm bắt được. Do đó nên biết, pháp tánh bình đẳng chẳng phải sắc, chẳng lìa
sắc; chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức, chẳng lìa thọ, tưởng, hành, thức;
pháp tánh bình đẳng chẳng phải 12 xứ, 18 giới, chẳng lìa 12 xứ, 18 giới; pháp
tánh bình đẳng chẳng phải tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 37 pháp trợ
đạo 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí…cho đến Vô thượng Chánh Đẳng Chánh giác,
cũng chẳng lìa tất cả các pháp ấy; pháp tánh bình đẳng chẳng phải pháp thế gian
xuất thế gian, chẳng lìa pháp thế gian xuất thế gian; chẳng phải pháp hữu lậu
vô lậu, pháp hữu vi vô vi, chẳng lìa pháp hữu lậu vô lậu, pháp hữu vi vô vi.
Vì lìa pháp hữu vi, thì không có pháp vô vi; lìa pháp vô
vi, thì không có pháp hữu vi.
Do đó, phẩm “Bình Đẳng” quyển thứ 29, Kinh MHBNBLMĐ,
nói:
“Đức Phật cũng dùng
thế đế để nói chớ chẳng phải dùng đệ nhất nghĩa. Tại sao? Vì trong đệ nhất
nghĩa không có thân hành, không có khẩu hành, không có ý hành, cũng chẳng lìa
thân, khẩu, ý hành mà được đệ nhất nghĩa. Tướng bình đẳng của các pháp hữu
vi, vô vi ấy tức là đệ nhất nghĩa.
Lúc hành Bát nhã Ba
la mật, đại Bồ Tát ở trong đệ nhất nghĩa chẳng động mà làm lợi ích cho chúng
hữu tình”.
Phẩm “Pháp Tánh Vô Động” tiếp theo sẽ quản diễn thêm pháp
rỗng không này.
---o0o---