PHẨM “BẤT KHẢ ĐỘNG"
Phần cuối quyển 386 đến phần đầu
quyển 390, Hội thứ I, ĐBN.
(Tương tương với phẩm “Thật Tế”
quyển thứ 28, MHBNBLMĐ)
Gợi ý:
Hai phẩm trước nói về “Các Tướng
Công Đức” và “Các Pháp Bình Đẳng”. Học các pháp này sẽ chứng biết được cái “như
tánh, như tướng chỗ gọi là vô tướng của vạn hữu, mà có cái thấy biết bình đẳng
đối với muôn sự muôn vật”, nên tâm bất động mà chứng được chân như thật
tướng. Phẩm “Bất Khả Động” này không nói về tâm mà Phật nói đến hai vấn đề: Vấn
đề thứ nhất là Thật tế và Chúng sanh tế và vấn đề thứ hai nói về Bản tánh
không, trong khi phẩm tương đương với phẩm này, Kinh MHBNBLMĐ lấy tên là “Thật
Tế”.
Chúng tôi không dám phê bình Kinh
trong vấn đề đặt tên phẩm, chỉ nêu ý kiến để độc giả tự thẩm định. Cũng xin
đừng nhầm lẫn phẩm “Bất Khả Động” này (bắt đầu từ quyển 386 cho đến hết phần
đầu quyển 390) với phẩm “Pháp Tánh Vô Động” ở cuối quyển 397. Phẩm “Bất Khả
Động” nói: Vì thấy tất cả pháp Không (Tánh Không hay Bản tánh không) nên tâm
không động. Phẩm “Pháp Tánh Vô Động” lại nói: Vì soi thấy tất cả pháp như huyễn
như hóa v.v... nên tâm rỗng không, bất động. Cách diễn tả có khác nhưng ý không
khác.
Chứng được Tánh Không, Chân như,
Thật tế... tức là chứng được cái biên tế thật sự của tất cả pháp thì thành La
hán, Bồ tát, Phật, nên tâm bất động. Cũng vậy, nếu thấy các pháp như huyễn như
hóa... thì pháp không chuyển được tâm, do đó thấy biết pháp tánh vô động. Pháp
tánh vô động thì pháp không chuyển được tâm mà ngược lại tâm có thể chuyển được
pháp. Hai phẩm có tiến trình khác nhau nhưng kết quả chỉ là một.
Nói tóm lại, ba phẩm “Các Tướng Công
Đức”, “Các Pháp Bình Đẳng” và “Bất Khả Động”được xem là kết luận chung của giáo
lý Bát Nhã Tánh Không, kết thúc 400 quyển trong số 600 quyển ĐBN mà Phật thuyết
để kết thúc pháp hội thứ I. Học và hành các giáo lý này thì chứng ngộ, nên ba
phẩm này có thể coi là cốt tủy của Đại Bát Nhã.
Tóm lược:
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu tình và sự an lập của hữu tình đều rốt ráo
chẳng thể nắm bắt được thì các Đại Bồ-tát vì ai mà tu Bát Nhã?
Phật bảo: Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
lấy thật tế làm lượng, nên tu hành Bát nhã Ba la mật. Thiện Hiện! Nếu hữu tình
tế(1) cùng thật tế(2) ấy có khác, các đại Bồ tát chẳng nên tu hành Bát nhã Ba
la mật. Vì hữu tình tế chẳng khác thật tế. Vậy nên, đại Bồ tát vì các hữu tình
hành Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
khi hành Bát nhã Ba la mật, vì chẳng hoại pháp thật tế, an lập hữu tình nơi
trong thật tế.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu tình tế tức là thật tế, đại Bồ tát làm sao khi
tu hành Bát nhã Ba la mật, vì chẳng hoại pháp thật tế, an lập hữu tình nơi
trong thật tế? Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát khi hành Bát nhã Ba la mật, an lập
hữu tình nơi thật tế ấy thời là an lập thật tế nơi thật tế? Bạch Thế Tôn! Nếu
đại Bồ tát khi hành Bát nhã Ba la mật an lập thật tế nơi thật tế ấy, thời là an
lập tự tánh nơi tự tánh, nhưng chẳng lẽ an lập tự tánh nơi tự tánh? Bạch Thế
Tôn! Làm sao nói được đại Bồ tát ấy, khi tu hành Bát nhã Ba la mật vì chẳng
hoại pháp thật tế, an lập hữu tình nơi thật tế?
Phật bảo: Thiện Hiện! Chẳng thể an
lập thật tế nơi thật tế, cũng chẳng thể an lập tự tánh nơi tự tánh. Nhưng các
đại Bồ tát khi hành Bát nhã Ba la mật phương tiện khéo léo năng an lập hữu tình
nơi thật tế, mà hữu tình tế chẳng khác thật tế. Như vậy, Thiện Hiện! Hữu tình
tế cùng thật tế không hai không phần.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
Bạch Thế Tôn! Những gì là đại Bồ tát phương tiện khéo léo, đại Bồ tát khi hành Bát
nhã Ba la mật do sức phương tiện khéo léo đây nên an lập hữu tình nơi thật tế
mà năng chẳng hoại tướng thật tế?
(Tất cả pháp bản tánh không).
- Thiện Hiện! Các nhà Đại thừa tức các
Bồ tát tu hành Bát Nhã, từ lúc mới phát tâm, đã thành tựu phương tiện thiện xảo
như thế. Do sức phương tiện thiện xảo này, nên an lập hữu tình ở trong bố
thí, đã an lập rồi, vì họ tuyên thuyết bố thí khoảng trước, sau, giữa không
có tướng sai biệt: Bố thí như thế khoảng trước, sau, giữa tất cả đều không.
Người thí, kẻ thọ, kết quả sự bố thí đều không. Tất cả hoàn toàn vô sở hữu, bất
khả đắc. Như thế, chớ chấp bố thí có sự sai khác và kẻ thí, người thọ, kết quả
bố thí, thật tế có sự sai khác. Nếu chẳng chấp thì phước đức tu bố thí sẽ đưa
đến quả vị Cam lồ.Khi tu bố thí này chớ chấp thủ sắc, chớ chấp thủ thọ, tưởng,
hành, thức; chớ chấp thủ mười hai xứ, mười tám giới, chớ chấp thủ tứ thiền, tứ
vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp bất cộng,
Nhất thiết trí… cho đến chớ chấp thủ Bồ tát hạnh; chớ chấp thủ quả vị Giác ngộ
tối cao; chớ chấp thủ pháp thế gian, chớ chấp thủ pháp xuất thế; chớ chấp thủ
pháp hữu lậu pháp vô lậu; chớ chấp thủ pháp hữu vi pháp vô vi. Vì sao? Vì tất
cả bố thí và tánh bố thí là không; tất cả người thí và tánh người thí là
không; tất cả người thọ và tánh người thọ là không; tất cả kết quả bố thí và
tánh của kết quả bố thí cũng không; trong cái không bố thí chẳng thể nắm bắt
được, người thí chẳng thể nắm bắt được, người thọ chẳng thể nắm bắt được, kết
quả bố thí chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh của các pháp rốt ráo
không. Trong cái rốt ráo không (tất cánh không)(3), tất cả đều
chẳng thể nắm bắt được.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát khi
tu hành Bát Nhã, từ lúc mới phát tâm đã thành tựu phương tiện thiện xảo như
thế; do sức phương tiện thiện xảo này, nên an lập hữu tình ở trong tịnh giới;
đã an lập rồi, nay đối với các hữu tình nên thương xót sâu xa, xa lìa sự giết
hại, xa lìa dâm dục, tà hạnh, xa lìa lời nói hư dối, xa lìa lời nói ly gián, xa
lìa lời nói thô ác, xa lìa lời nói hỗn tạp, xa lìa tham dục, xa lìa sân nhuế,
xa lìa tà kiến. Vì sao? Vì các pháp như thế hoàn toàn không có tự tánh, nếu
pháp không có tự tánh thì gọi là vô tánh, nên chẳng phân biệt chấp trước.
Thiện Hiện! đại Bồ tát này khi hành Bát
nhã Ba la mật trọn nên phương tiện khéo léo như thế, nên hay khéo thành thục
các loài hữu tình, vì nói quả bố thí và tịnh giới đều chẳng khá được,
khiến biết quả bố thí và tịnh giới tự tánh đều không. Các Bồ tát đã rõ biết sở
tu quả bố thí và tịnh giới tự tánh đều không rồi, mà năng đối trong ấy chẳng
sanh chấp trước. Do chẳng chấp trước tâm không tán loạn. Vì không tán loạn, nên
năng phát sanh diệu huệ. Nhờ diệu huệ đây dứt hẳn thùy miên tùy miên và các
ràng buộc rồi mới vào Vô dư Niết bàn. Thiện Hiện! Như vậy là nương thế tục mà
nói chẳng nương thắng nghĩa. Vì sao? Vì trong không, không có chút pháp khá
được, hoặc đã Niết bàn, hoặc sẽ Niết bàn, hoặc nay Niết bàn, hoặc kẻ Niết bàn,
hoặc do đây nên được Niết bàn, tất cả như thế đều vô sở hữu, rốt ráo đều không.
Tánh rốt ráo không tức là Niết bàn, lìa Niết bàn đây không riêng có pháp
khác.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát tu
hành Bát Nhã từ lúc mới phát tâm, đã thành tựu phương tiện thiện xảo như thế;
do sức phương tiện thiện xảo này thấy các hữu tình tâm nhiều sân hận, vô cùng
thương xót, phương tiện dạy bảo: Nên tu an nhẫn, ưa pháp an nhẫn, chế
ngự tâm mình, thọ hạnh an nhẫn. Tại sao phải sân hận? Vì sao sân hận? Sân hận
ai? Các pháp ấy, bản tánh đều không; pháp bản tánh không chưa từng chẳng
không; tánh không như thế chẳng phải Như Lai tạo ra, chẳng phải Độc giác
tạo ra, chẳng phải Thanh văn tạo ra, chẳng phải Bồ tát tạo ra, cũng chẳng phải
trời, rồng, chư thần tạo ra, cũng chẳng phải chư thiên trong cõi Dục, Sắc hay
Vô sắc tạo ra. Tất cả pháp như thế, bản tánh đều không, chẳng phải trong tánh
không có sân hận, cho nên cần phải an nhẫn để đem lại lợi ích mình người.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ tát tu hành Bát
Nhã, từ lúc mới phát tâm đã thành tựu phương tiện thiện xảo như thế; do sức
phương tiện thiện xảo này, thấy các hữu tình thân tâm giải đãi, thối thất tinh
tấn, phương tiện khuyên bảo, dẫn dắt, khiến họ phát khởi thân tâm tinh tấn,
tu các thiện pháp. Trong bản tánh không, không có pháp giải đãi, không có người
giải đãi, không xứ giải đãi, không thời giải đãi, không do việc này phát sanh
giải đãi, biếng nhác. Tất cả pháp ấy đều bản tánh không, chẳng vượt lý không.
Phải phát khởi thân tâm tinh tấn, từ bỏ giải đãi, siêng tu thiện pháp, đó
là lục Ba la mật; hoặc tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp
trợ đạo, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối
cao. Chớ sanh giải đãi; nếu sanh giải đãi thì phải chịu nhiều thống khổ. Tất cả
pháp ấy, bản tánh đều không, không có các chướng ngại, trong cái không chướng
ngại, không có giải đãi, không có người giải đãi, xứ, thời, duyên của việc này
cũng chẳng thể nắm bắt được.
Bồ tát ấy, khi hành Bát Nhã, thành
tựu phương tiện thiện xảo như thế, có khả năng khéo léo thành thục hữu tình, vì
họ mà nói quả bố thí, tịnh giới, an nhẫn và tinh tấn hoàn toàn chẳng thể nắm
bắt được, khiến họ biết quả bố thí, tịnh giới, an nhẫn và tinh tấn tự tánh đều
không. Khi họ đã hiểu rõ quả bố thí, tịnh giới… tự tánh đều không rồi, thì có
thể đối với pháp ấy chẳng sanh chấp trước, do chẳng chấp trước, tâm không tán
loạn, do không tán loạn, có thể phát diệu tuệ, do diệu tuệ này đoạn trừ vĩnh
viễn thùy miên và các triền rồi, nhập cảnh giới Niết bàn tuyệt đối.
Như vậy là nương vào thế tục mà nói,
chẳng y cứ vào thắng nghĩa. Vì sao? Vì trong không, không có một pháp nhỏ nào
có thể nắm bắt được; hoặc đã Niết bàn, hoặc sẽ Niết bàn, hoặc hiện Niết bàn,
hoặc người Niết bàn, hoặc do đó mà đắc Niết bàn, tất cả như thế, hoàn toàn vô
sở hữu, rốt ráo đều không; tánh không rốt ráo tức là Niết bàn, lìa Niết bàn này
không có một pháp riêng khác.(Q.386, ĐBN)
Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ tát tu hành Bát
Nhã, từ lúc sơ phát tâm, thành tựu phương tiện thiện xảo như thế; do sức phương
tiện thiện xảo này, thấy các hữu tình, tâm nhiều loạn động, đối với các cảnh
dục chẳng thể nhiếp tâm, nên dạy bảo khuyến dẫn tu thiền định, nhập các
Tam ma địa thù thắng. Vì tất cả pháp đều bản tánh không; trong bản tánh
không, không có pháp có thể nắm bắt, có thể gọi là tán loạn, hoặc gọi là nhất
tâm. Nếu có thể an trụ định thù thắng này thì có thể viên mãn tất cả các
thiện pháp. Nhờ viên mãn các thiện pháp thù thắng, nên có thể từ cõi Phật
này đến cõi Phật khác, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế
Tôn; ở chỗ các đức Phật, nghe, thọ chánh pháp, bỏ thân thọ thân, trải vô lượng
kiếp cho đến đắc quả vị Giác ngộ tối cao, ở khoảng giữa, chẳng bao giờ quên
mất.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ tát tu hành Bát
Nhã, từ lúc mới phát tâm đã thành tựu phương tiện thiện xảo như thế. Do sức
phương tiện thiện xảo này an trụ bản tánh không, thấy các hữu tình trí tuệ bạc
mỏng, ngu si điên đảo, tạo các nghiệp ác, nên phương tiện khuyến dẫn siêng
tu Bát Nhã, quán tất cả pháp bản tánh không tịch, tu hành các nghiệp thân,
ngữ, ý đều hướng đến Niết bàn; đắc quả Niết bàn quyết dùng Niết bàn mà tạo dựng
đời sau. Tất cả pháp đều bản tánh không. Trong bản tánh không, hữu tình và
pháp tuy chẳng thể nắm bắt được, nhưng việc tu hành cũng không thối thất. Vì
sao? Vì trong bản tánh không, không có pháp tăng giảm, không có người tăng
giảm. Vì lý của bản tánh không chẳng phải có tự tánh, chẳng phải không có tự
tánh, lìa phân biệt, dứt các hý luận, cho nên ở trong đó, không tăng, không
giảm.
Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
khi tu hành Bát nhã Ba la mật phương tiện khéo léo, tự tu hành nghiệp lành
thường không biếng bỏ, dạy bảo dạy trao các loại hữu tình khiến tu nghiệp lành
thường không biếng bỏ. Thiện Hiện! Đấy gọi là đại Bồ tát khi tu hành Bát nhã Ba
la mật phương tiện khéo léo. Các đại Bồ tát do sức phương tiện đây, nên an lập
hữu tình trong thật tế mà chẳng hoại tướng.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật
rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp bản
tánh đều không. Trong bản tánh không, hữu tình và các pháp đều chẳng khá được.
Do ở trong đấy cũng không có phi pháp, đại Bồ tát làm sao vì các hữu tình cầu
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thường làm nhiêu ích?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Như vậy. Như ngươi đã
nói, có bao nhiêu pháp bản tánh đều không. Trong bản tánh không, hữu tình và
các pháp đều chẳng khá được. Do ở trong đây cũng không phi pháp.
Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp bản tánh
chẳng không, thì khi Bồ tát tu hành Bát Nhã chẳng thể an trụ lý bản tánh không,
tu chứng quả vị Giác ngộ tối cao, vì lợi ích hữu tình, thuyết bản tánh không.
Vì tất cả pháp đều bản tánh không, nên Bồ tát khi tu hành Bát Nhã, an trụ đạo
lý đó, tu chứng quả vị Giác ngộ tối cao, vì lợi ích hữu tình thuyết bản tánh
không.
(Những pháp nào bản tánh không?)
Thiện Hiện! Những pháp nào bản tánh
đều không mà đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã như thật rõ biết bản tánh không
rồi, trụ nơi bản tánh không, vì hữu tình thuyết pháp?
Thiện Hiện! Sắc bản tánh không, thọ,
tưởng, hành, thức bản tánh không; đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã như thật rõ
biết các uẩn bản tánh không như thế rồi, an trụ bản tánh không, vì các hữu
tình, tuyên thuyết bản tánh không; mười hai xứ, mười tám giới bản tánh không,
tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp
bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao bản tánh không; đại
Bố tátkhi hành Bát Nhã, như thật rõ biết bản tánh không rồi, an trụ bản tánh
không, vì các hữu tình, tuyên thuyết bản tánh không như thế.
Nếu bản tánh của tất cả pháp chẳng
không, thì các đại Bồ tát chẳng vì các hữu tình thuyết tất cả pháp đều bản
tánh không; thuyết như thế là hoại bản tánh không. Nhưng bản tánh không, lý
chẳng thể hoại, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn. Vì sao? Vì lý bản tánh
không không phương, không xứ, không từ đâu đến, cũng không về đâu. Lý không như
thế cũng gọi là pháp tánh(4). Trong ấy không có pháp, không tụ, không tán,
không tăng, không giảm, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; tất cả
pháp ấy vốn là tánh an trụ. Các đại Bồ tát an trụ trong đó, cầu đạt quả vị Giác
ngộ tối cao chẳng thấy các pháp có chỗ hướng đến, không chỗ hướng đến, vì tất
cả pháp hoàn toàn không sở trụ, cho nên gọi là pháp trụ. Các đại Bồ tát an trụ
trong đó, tu hành Bát Nhã, thấy tất cả pháp bản tánh không rồi, nhất định hướng
đến quả vị Giác ngộ tối cao, được bất thối chuyển. Vì sao? Vì đại Bồ tát ấy
chẳng thấy có pháp có thể gây chướng ngại. Vì thấy tất cả pháp không chướng
ngại nên đối với quả vị Giác ngộ tối cao chẳng sanh nghi hoặc, vì vậy nên không
bao giờ thối thất.
Trong bản tánh không, ngã chẳng thể
nắm bắt được, hữu tình chẳng thể nắm bắt được, sự an lập hữu tình
chẳng thể nắm bắt được; dòng sanh mạng, khả năng sanh khởi, sự dưỡng dục, sự
trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sanh, nho đồng, khả năng làm việc, khả năng
khiến người làm việc, khả năng tạo nghiệp, khả năng khiến người tạo nghiệp, khả
năng thọ quả báo, khả năng khiến người thọ quả báo, cái biết, cái thấy cũng
chẳng thể nắm bắt được.
Trong bản tánh không, sắc chẳng
thể nắm bắt được; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể nắm bắt được. Trong
bản tánh không, mười hai xứ, mười tám giới chẳng thể nắm bắt được. Trong bản
tánh không, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo,
mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cũng
chẳng thể nắm bắt được. Trong bản tánh không, pháp sắc phi sắc chẳng thể nắm
bắt được; pháp hữu kiến vô kiến, hữu đối vô đối, hữu lậu vô lậu, hữu vi vô vi
cũng chẳng thể nắm bắt được.
Thiện Hiện! Như bốn chúng mà Phật
hóa ra là Tỳ kheo nam, Tỳ kheo nữ, Cư sĩ nam, Cư sĩ nữ, giả sử có hóa Phật,
trải qua trăm ngàn, triệu kiếp, vì bốn chúng ấy tuyên thuyết pháp yếu, hóa
chúng ấy cũng chẳng thể đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, hoặc đắc
quả vị Độc giác, hay quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì hóa chúng đó hoàn toàn
không phải thật, nên không thể đắc quả. Các pháp cũng vậy, đều bản tánh không,
hoàn toàn không thật có thì làm sao có thể đắc quả. Đại Bồ tát, vì hữu tình gì,
nói pháp gì khiến hữu tình có thể đắc quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả
Bất hoàn v.v…?
Thiện Hiện! Đại Bồ tát tuy vì hữu
tình tuyên thuyết các pháp bản tánh không, nhưng các hữu tình, thật chẳng thể
hiểu biết được, thương xót họ rơi vào điên đảo, nên cứu vớt khiến an trụ pháp
không điên đảo, không điên đảo nghĩa là không phân biệt; không phân biệt thì
không điên đảo, nếu có phân biệt thì có điên đảo vì chúng đồng loại.
Thiện Hiện! Trong cái không phân
biệt, không điên đảo, không có ngã, hữu tình, dòng sanh mạng, khả năng sanh
khởi, sự dưỡng dục, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sanh, nho đồng… cho
đến cái biết, cái thấy; cũng không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức;
cũng không có mười hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô
sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến
quả vị Giác ngộ tối cao. Cũng không có pháp sắc phi sắc, không có pháp hữu kiến
vô kiến, hữu đối vô đối, hữu lậu vô lậu, hữu vi vô vi; cũng không có ba mươi
hai tướng Đại sĩ, không có tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc.
Như vậy, nói lược là “tất cả đều
không”: Không ngã, không chúng sanh, không mạng giả… cho đến không có cái
thấy cái biết, không có sắc thọ tưởng hành thức, không có xứ giới, không có tứ
thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, không có tập diệt đạo, không có vô minh
cũng không hết vô minh, không có già chết cũng không hết già chết, cũng không
có pháp không nội, không có pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không
không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô
vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp
không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng
tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không
không tánh, pháp không không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, cũng không
có đạo, không có quả, cũng không có chứng đắc v.v…Tất cả đều không sở hữu, nếu
không sở hữu thì gọi là bản tánh không. Các đại Bồ tát khi hành Bát Nhã, an trụ
trong đó thấy các hữu tình đọa vào tưởng điên đảo, phương tiện thiện xảo khiến
được giải thoát. Giải thoát những gì? Giải thoát những trói buộc:
Không có ngã, tưởng có ngã; không có chúng sanh, tưởng có chúng sanh… cho đến
không có cái thấy cái biết, tưởng có thấy biết. Cũng giải thoát những trói
buộc: Không có sắc, tưởng có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, tưởng có
thọ, tưởng, hành, thức. Cũng khiến giải thoát những trói buộc: Không có xứ,
giới, tưởng có xứ, giới, không có tất cả pháp Phật, tưởng có tất cả pháp
Phật. Cũng khiến giải thoát những trói buộc:Không có pháp sắc, phi sắc mà tưởng
có pháp sắc phi sắc; không có pháp hữu kiến vô kiến, hữu đối vô đối, hữu lậu vô
lậu, hữu vi vô vi, mà tưởng có pháp hữu kiến vô kiến cho đến hữu vi vô vi.
Còn Đệ nhất nghĩa đế thì không sanh,
không diệt, không tướng, không tác, không hý luận, không phân biệt. Thắng nghĩa
đế tức là bản tánh không. Bản tánh không này tức là sở chứng của chư Phật, cũng
gọi là Phật đạo. Trong ấy chúng sanh bất khả đắc, cho đến người thấy, người
biết bất khả đắc; sắc, thọ, tưởng, hành, thức bất khả đắc cho đến tám mươi tùy
hình hảo bất khả đắc.Tại sao?Vì đại Bồ Tát chẳng phải vì đạo pháp mà cầu Vô
Thượng Bồ Đề. Đại Bồ Tát vì chư pháp thật tướng tánh không mà cầu Vô Thượng Bồ
Đề. Tánh không ấy, tiền tế, hậu tế và trung tế đều tánh không! Thường là tánh
không, chưa từng chẳng không. (Q.388, ĐBN)
Thiện Hiện! Các đại Bồ tát(trụ)
bản tánh không, vì muốn giải thoát các loại hữu tình nên hành Đạo tướng trí. Bồ
tát này hành Đạo tướng trí tức là hành tất cả đạo: Thanh văn, hoặc Độc giác,
hoặc Bồ tát hay Như Lai đạo. Đại Bồ tát này đối tất cả đạo được viên mãn rồi,
mới năng thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, cho đến khi chứng quả Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đã chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nên khiến Phật
nhãn thường không đoạn hoại. Phật nhãn là gì? Tức là bản tánh không.
Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác quá khứ đều dùng bản tánh không, gọi là Phật nhãn. Tất cả Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác vị lai đều dùng bản tánh không làm Phật nhãn. Hiện tại mười
phương vô biên thế giới có bao nhiêu Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều dùng bản
tánh không làm Phật nhãn. Nhất định không có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nào
lìa bản tánh không mà có thể xuất hiện ở đời.Chư Phật xuất thế đều thuyết bản
tánh không; hữu tình được giáo hóa cần phải lắng nghe Phật thuyết lý bản tánh
không, mới có thể nhập Thánh đạo, chứng quả Thánh đạo; lìa bản tánh không,
không có phương tiện nào khác. Cho nên, các đại Bồ tát muốn chứng quả vị Giác
ngộ tối cao, cần phải an trụ vững vàng lý bản tánh không, tu hành Bát nhã Ba la
mật và các Bồ tát hạnh. Nếu an trụ vững vàng lý bản tánh không, tu hành Bát Nhã
và Bồ tát hạnh thì chẳng bao giờ thối thất Nhất thiết trí trí.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Như vậy, các đại Bồ tát thật hi hữu! Tuy hành tất cả pháp
bản tánh không nhưng chẳng phá hoại các pháp, đó là chẳng chấp sắc khác với bản
tánh không, cũng chẳng chấp thọ, tưởng, hành, thức khác với bản tánh không;
chẳng chấp mười hai xứ, mười tám giới khác với bản tánh không, chẳng chấp tứ
thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp bất
cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ khác với bản tánh không.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Như vậy. Như ngươi vừa
nói. Các đại Bồ tát rất là hiếm có. Tuy hành tất cả pháp bản tánh đều không,
mà đối bản tánh không chẳng hoại các pháp. Thiện Hiện! Sắc tức là bản tánh
không, bản tánh không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức tức là bản tánh không,
bản tánh không tức là thọ, tưởng, hành, thức; mười hai xứ, mười tám giới tức là
bản tánh không, bản tánh không tức là mười hai xứ, mười tám giới; tất cả pháp
Phật tức là bản tánh không, bản tánh không tức là tất cả pháp Phật.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu sắc khác
bản tánh không, bản tánh không khác sắc; sắc chẳng phải bản tánh không, bản
tánh không chẳng phải sắc. Nếu thọ, tưởng, hành, thức khác bản tánh không, bản
tánh không khác thọ, tưởng, hành, thức; thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải bản
tánh không, bản tánh không chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Nếu 12 xứ, mười
tám giới khác bản tánh không, bản tánh không khác mười hai xứ, mười tám giới;
mười hai xứ, mười tám giới chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải
mười hai xứ, mười tám giới v.v… cho đến nếu quả vị Giác ngộ tối cao khác bản
tánh không, bản tánh không khác quả vị Giác ngộ tối cao; quả vị Giác ngộ tối
cao chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải quả vị Giác ngộ tối
cao thì các đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã chẳng nên quán tất cả pháp đều
bản tánh không, để chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao.
Thiện Hiện! Vì sắc chẳng khác bản
tánh không, bản tánh không chẳng khác sắc; sắc tức là bản tánh không, bản tánh
không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng khác bản tánh không, bản
tánh không chẳng khác thọ, tưởng, hành, thức; thọ, tưởng, hành, thức tức là bản
tánh không, bản tánh không tức là thọ, tưởng, hành, thức. Vì mười hai xứ, mười
tám giới chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác mười hai xứ, mười
tám giới; mười hai xứ, mười tám giới tức là bản tánh không, bản tánh không tức
là mười hai xứ, mười tám giới v.v… Quả vị Giác ngộ tối cao chẳng khác bản tánh
không, bản tánh không chẳng khác quả vị Giác ngộ tối cao; quả vị Giác ngộ tối
cao tức là bản tánh không, bản tánh không tức là quả vị Giác ngộ tối cao, nên
các đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã, quán tất cả pháp đều bản tánh không, nên
chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì lìa bản tánh không, không có một
pháp nào là thật, là thường, có thể hoại, có thể đoạn. Trong bản tánh không,
cũng không có một pháp nào là thật, là thường, có thể hoại, có thể đoạn, chỉ có
những kẻ ngu si mê muội, điên đảo mới khởi tưởng sai khác, đó là chấp
sắc khác bản tánh không, hoặc chấp thọ, tưởng, hành, thức khác bản tánh không;
hoặc chấp mười hai xứ,mười tám giới khác bản tánh không; hoặc chấp tất cả pháp
Phật khác bản tánh không.
Thiện Hiện! Các phàm phu ngu si ấy
chấp các pháp khác bản tánh không rồi, chẳng như thật biết sắc: chẳng như thật
biết thọ, tưởng, hành, thức; vì do chẳng biết nên chấp trước sắc, chấp trước
thọ, tưởng, hành, thức; vì do chấp trước nên đối với sắc chấp có ngã và ngã sở,
đối với thọ, tưởng, hành, thức chấp có ngã và ngã sở; vì do vọng chấp nên đắm
vào vật trong ngoài, thọ nhận sắc, thọ, tưởng, hành, thức của thân sau. Do đó,
chẳng có thể giải thoát sanh, lão, bệnh, tử… qua lại ba cõi luân chuyển không
cùng. Do nhân duyên ấy, các đại Bồ tát an trụ bản tánh không Ba la mật, tu hành
Bát Nhã, chẳng chấp thọ sắc, cũng chẳng hoại sắc, hoặc không, hoặc chẳng không;
chẳng chấp thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng hoại thọ, tưởng, hành, thức hoặc
không, hoặc chẳng không.
Thiện Hiện! Thí như hư không chẳng
hoại hư không(5), cảnh giới hư không nội chẳng hoại cảnh giới hư
không ngoại(6); cảnh giới hư không ngoại chẳng hoại cảnh giới hư không
nội. Như vậy, sắc chẳng hoại không, không chẳng hoại sắc; thọ, tưởng, hành,
thức chẳng hoại không, không chẳng hoại thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì các
pháp như thế đều không có tự tánh, chẳng thể hoại nhau, đây là không, đây là
bất không.
(Tất cả pháp không, không có hai
tướng, không phân biệt).
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều
bản tánh không, mà trong bản tánh không hoàn toàn không sai biệt thì các đại Bồ
tát an trụ ở đâu mà phát khởi tâm cầu quả vị Giác ngộ tối cao với lời nguyện:
Ta sẽ chứng đắc quả vị đại giác ngộ? Bạch Thế Tôn! Quả vị Giác ngộ tối cao
không có hai hành tướng, để có thể chứng quả vị Giác ngộ tối cao?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời
ông nói, quả vị Giác ngộ tối cao không có hai hành tướng, chẳng phải hai hành
tướng có thể chứng quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì Bồ đề không hai, cũng
không phân biệt. Nếu đối với Bồ đề mà hành hai tướng, có phân biệt thì chắc
chắn không có thể chứng. (Q. 388, ĐBN)
Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát đối
với Bồ đề, chẳng hành hai tướng, cũng chẳng phân biệt, hoàn toàn không trụ vào
đâu, mà phát khởi tâm cầu quả vị Giác ngộ tối cao. Các đại Bồ tát đối với tất
cả pháp, chẳng hành hai tướng, cũng chẳng phân biệt, hoàn toàn không có sở hành
thì có thể chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao.
Này Thiện Hiện! Sở cầu của các đại
Bồ tát là quả vị Giác ngộ tối cao chẳng phải hành hai tướng mà có thể chứng
đắc. Các đại Bồ tát sở hữu quả vị giác ngộ, hoàn toàn không có sở hành. Đó là
chẳng hành sắc, cũng chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức; cũng chẳng hành xứ
giới, chẳng hành tất cả pháp kể cả quả vị Giác ngô tối cao. Vì sao? Vì các đại
Bồ tát sở hữu quả vị giác ngộ, chẳng duyên vào danh vị chấp ngã, ngã sở, nghĩa
là chẳng nghĩ: Ta hành sắc, ta hành thọ, tưởng, hành, thức; cũng chẳng nghĩ là
ta hành xứ giới. ta hành tất cả pháp Phật kể cả quả vị Giác ngộ tối cao. Các
đại Bồ tát sở hữu quả vị Giác ngộ, cũng chẳng phải thủ mà hành, cũng chẳng phải
xả mà hành.
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!
Nếu đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã chẳng thủ, chẳng xả mà hành, hoàn
toàn không có chỗ hành, nghĩa là chẳng hành sắc, cũng chẳng hành thọ, tưởng,
hành, thức; chẳng hành mười hai xứ mười tám giới, chẳng hành tứ thiền, tứ vô
lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp bất cộng, Nhất
thiết trí… cho đến chẳng hành quả vị Giác ngộ tối cao thì làm sao chứng đắc quả
vị Vô Thượng Bồ đề?
Phật bảo: Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
sở hữu quả vị Giác ngộ tuy không có chỗ hành nhưng vẫn phải hành bố thí,
tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã; vẫn phải hành mười tám pháp
không, vẫn phải hành ba mươi bảy pháp trợ đạo; phải hành Thánh đế khổ, tập,
diệt, đạo; cần phải hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cần phải
hành tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cần phải
hành tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa; cần phải hành tam giải thoát môn;
cần phải hành Bồ tát thập địa; cần phải hành ngũ nhãn, lục thần thông; cần phải
hành Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt v.v… cần
phải hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; cần phải an
trụ thần thông thù thắng, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật mới có
thể chứng đắc quả vị Vô Thượng Bồ đề.
(Không có chỗ hành có nghĩa là
không hành được mất, có không, thủ xả…tức không hành hai tướng. Không có chỗ
hành cũng có nghĩa là không vì lợi danh mà hành. Hạnh nguyện của Bồ tát là làm
đẹp thế gian này, nên chỗ nào có khổ thì chỗ đó có Bồ tát, dầu chỗ đó là tận
cùng thế giới đầy dầu xôi lửa bỏng. Các Ngài luôn ước nguyện: “Kẻ mù được
thấy, kẻ điếc được nghe, kẻ câm được nói, kẻ cuồng được nhớ, kẻ loạn được định,
kẻ nghèo được giàu, kẻ trần được áo, kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ bệnh
được lành, kẻ xấu được đẹp, kẻ tàn tật được đầy đủ, kẻ căn khuyết được vuông
tròn, kẻ mê lầm được tỉnh ngộ và kẻ mỏi mệt được thư thới”. Vì vậy, những ai
phát tâm cầu Vô Thượng Bồ đề, phải an trụ tất cả Phật pháp mới có thể hành Bồ
tát đạo, thực thi các hạnh nguyện cao cả nhằm phục vụ lợi ích chúng sanh. Đó là
không chỗ hành nhưng vẫn phải hành. Hành như vô sự hay gọi là vô đạo hành!)
(Bản tánh không là sở chứng của chư
Phật, cũng gọi là Phật đạo).
Nếu đại Bồ tát muốn đắc Vô Thượng Bồ
đề thì phải an trụ tất cả pháp Phật. Mà an trụ tất cả pháp Phật tức là an
trụ bản tánh không của sắc, an trụ bản tánh không của thọ tưởng hành thức;
an trụ bản tánh không của mười hai xứ mười tám giới; an trụ bản bản tánh không
của tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám
pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến an trụ quả vị Giác ngộ tối cao. Nói
gọn, là phải an trụ tất cả pháp Phật.Kinh nói “bản tánh không là sở chứng của
chư Phật, cũng gọi là Phật đạo”, “Nhất định không có Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác nào lìa bản tánh không mà có thể xuất hiện ở đời”. Vậy, bản tánh không là
Như Lai Ứng Cúng Đẳng giác, là Vô Thượng Bồ đề, là Phật Đạo.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát nương
vào thế tục mà nói, phô diễn các pháp như thật rõ biết bản tánh không rồi,
chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chứ chẳng phải như chơn thắng nghĩa. Vì sao?
Vì trong chơn thắng nghĩa, không có sắc có thể nắm bắt được, cũng không có thọ,
tưởng, hành, thức có thể nắm bắt được; không có nhãn xứ có thể nắm bắt được…;
cũng không có quả vị Giác ngộ tối cao có thể nắm bắt được; không có người hành
Bồ tát hạnh có thể nắm bắt được, cũng không có người hành quả vị Giác ngộ tối
cao có thể nắm bắt được.
Thiện Hiện! Các pháp như thế, đều
nương vào ngôn từ thế tục mà phô diễn, chẳng y cứ vào thắng nghĩa.
Thiện Hiện! Các đại Bồ tát tu hành Bát
Nhã, từ lúc mới phát tâm, tuy rất hăng hái vì các hữu tình hành Bồ đề đạo,
nhưng đối với tâm này hoàn toàn không có sở đắc, đối với các hữu tình cũng
không có sở đắc, đối với Bồ đề cũng không có sở đắc, đối với Phật, Bồ tát cũng
không có sở đắc.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch
Phật:
- “Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp
hoàn toàn không sở đắc, đều chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao đại Bồ tát hành
hạnh Bồ đề có thể đắc quả vị Giác ngộ tối cao?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao?
Khi trước ông nương vào Bồ đề mà đoạn các phiền não, được căn vô lậu an trụ
định vô gián, đắc quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hay A la
hán, thì khi ấy, ông có thấy hữu tình, hoặc tâm hoặc đạo, hoặc quả chăng?
Thiện Hiện đáp:
- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện
Thệ! Không!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu khi đó ông
hoàn toàn không có sở đắc thì tại sao nói là đắc quả A la hán?
Thiện Hiện đáp:
- Vì nương vào thế tục mà nói, chẳng
y cứ vào thắng nghĩa.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như
ông nói. Các đại Bồ tát cũng giống như thế, nương vào thế tục mà nói hành đạo
Bồ đề và đắc quả Giác ngộ, chứ chẳng y cứ vào thắng nghĩa.
Này Thiện Hiện! Vì nương vào thế tục
nên đặt bày có sắc, đặt bày có thọ, tưởng, hành, thức; vì nương vào thế tục nên
đặt bày có mười hai xứ, mười tám giới; vì nương vào thế tục nên đặt bày tứ
thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp bất
cộng, Nhất thiết trí… đặt bày có quả vị Giác ngộ tối cao; vì nương vào thế tục
nên đặt bày có hữu tình, đặt bày có Bồ tát, chư Phật Thế Tôn, chẳng y cứ thắng
nghĩa.
Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát chẳng
thấy có pháp nào có thể đối với quả vị Giác ngộ có tăng có giảm, có ích có tổn,
vì tất cả pháp, bản tánh không vậy.
Các đại Bồ tát đối với tất cả pháp,
quán bản tánh không còn chẳng thể nắm bắt được, huống là mới phát tâm mà có cái
có thể nắm bắt được, huống là tu lục Ba la mật mà có cái có thể nắm bắt được,
huống là tu mười tám pháp không, tứ Thánh đế, ba mươi bảy pháp trợ đạo mà có
cái có thể nắm bắt được; huống là tu mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí…
cho đến huống là tu quả vị Giác ngộ tối cao mà có cái có thể nắm bắt được.
Các đại Bồ tát nếu có sở đắc, đối
với sở tu mà có thể an trụ tất cả pháp Phật là điều không thể có!
Thích nghĩa:
(1). Hữu tình tế: HT Thích Trí
Nghiêm dịch là hữu tình tế khi dịch Đại Bát Nhã, HT Thích Trí Tịnh dịch là
chúng sanh tế khi dịch Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, cả hai như nhau. Chúng tôi dùng
là chúng sanh tế.
(2). Thật tế là một từ trong thập
nhị chân như: (十二真如) Cũng
gọi Thập nhị vô vi, Thập nhị không. Chỉ cho 12 tên gọi của Chân như. 1. Chân
như: Chân là chân thực, như là thường như. Thể tính của các pháp chân thực
thường như. 2. Pháp giới: Giới nghĩa là chỗ nương. Chân như là chỗ nương của
các pháp. 3. Pháp tính: Tức là thể tính của các pháp. 4. Bất hư vọng tính: Pháp
tính chân thực, xa lìa hư vọng. 5. Bất biến dị tính: Tức pháp thể không biến
đổi. 6. Bình đẳng tính: Lìa tướng sai biệt của các pháp, bình đẳng không hai.
7. Ly sinh tính: Tức lìa sinh diệt. 8. Pháp định: Tức pháp tính thường trụ.9.
Pháp trụ: Trụ trong pháp vị chân như.10. Thực tế (hay thật tế): Thực lý
chân như rất mực, đến mé cùng cực. 11. Hư không giới: Tức lý thể của chân như
cùng khắp. 12. Bất tư nghị giới: Lý thể chân như dứt bặt mọi suy tư nói năng,
không thể nghĩ bàn. [X. KinhĐại Bát Nhã 360]. (xt. Chân Như). - Phật Quang Từ
điển.
Phụ chú: Đại cương
chân như (Phạm: Bhùta-tathatà hoặc tathatà) chỉ bản thể chân thực tràn khắp vũ
trụ - là nguồn gốc của hết thảy muôn vật. Còn gọi Như như, Như thực, Pháp giới,
Pháp tính, Thật tế, Tánh không, Thực tướng, Như lai tạng, Pháp thân,
Phật tính, Tự tính thanh tịnh thân, Nhất tâm,Cảnh giới hư không, Cảnh giới
đoạn, Cảnh giới ly, Cảnh giới diệt, Cảnh giới vô tánh, Cảnh giới vô tướng, Cảnh
giới vô tác, Cảnh giới vô vi, Cảnh giới an ổn, Cảnh giới tịch tịnh, Cảnh
giớiNiết bàn, Bổn vô v.v…
Niết bàn với thập nhị chân như chỉ
là một, vì Niết bàn bao gồm tất cả nghĩa. Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm vẫn
giữ y nguyên văn của bản chữ Hán như trong Hoavouu.com là thật tế, nghĩa là
chẳng dịch gì cả. Trong khi bản dịch củ soát của Quangduc.com của một số cư sĩ
lại dịch lại dịch là Niết bàn. Chúng tôi theo bản dịch của HT. Thích Trí
Nghiêm, không dịch gì cả, giữ y nguyên văn là thật tế. TB
(3). Rốt ráo không hay tất cánh
không:(cái Không tối hậu, Atyanta-sunyata), Thiền sư D.T. Suzuki giải thích: “Chỗ này nhấn mạnh ý niệm
tất cả “các pháp” đều Không một cách tuyệt đối. “Cứu cánh” tức “Tuyệt đối”. Phủ
nhận thực tại tính khách quan nơi tất cả các pháp ở đây được chủ trương một
cách đương nhiên, không điều kiện thắc mắc. “Không của Không”, trên thực tiễn,
cũng chỉ cho một cái như nhau. Phòng được quét sạch là nhờ chổi; nhưng nếu còn
chổi thì không phải là Không tuyệt đối. Quả vậy, phải gạt sang một bên cái
chổi, cùng với người quét, mới mong đạt tới ý niệm về Tất cánh Không
(Atyanta-sunyata). Còn giữ lại dù chỉ một pháp, một vật hay một người, là còn
có điểm chấp để từ đó sản xuất một thế giới của những sai biệt rồi kéo theo những
ước muốn và đau khổ. Tánh Không vượt ngoài mọi quyết định tính có thể có, vượt
ngoài chuỗi quan hệ bất tận; đó là Niết bàn”.
(4). Lý không như thế cũng gọi là
pháp tánh: Như chúng ta biết thập nhị chân như còn gọi là thập nhị không
mà trong đó pháp tánh chỉ là một. Nói rộng tánh không cũng chính là chân như,
pháp giới, pháp tánh, thật tế… như nhau không khác.
(5). Hư không chẳng hoại hư không:
Từ hư không theo Kinh này là: Một trong sáu đại chủng hay sáu giới: Địa giới,
thủy giới, phong giới, hỏa giới, không giới và thức giới. Không giới là
thành phần thứ năm còn gọi là hư không. Con người có tất cả năm thành phần kia
như thiếu không gian thì không thể hoạt động được. Khoảng không gian thấy được
này là không giới, thuộc hữu vi.
Phật Quang tự điển giải thích rộng
từ hư không(虛空)như sau:
Phạm là Àkàza, dịch âm: A ca xá.
1- Hư Không: Chỉ cho pháp vô vi thanh tịnh,
không bị chướng ngại. Là 1 trong 3 vô vi của Thuyết nhất thiết hữu bộ và Kinh
lượng bộ, 1 trong 9 vô vi của Đại chúng bộ và Hóa địa bộ, 1 trong 6 vô vi của
luận Bách pháp minh môn và luận Thành duy thức, 1 trong 4 vô vi của luận Đại
thừa ngũ uẩn, 1 trong 8 vô vi của luận Du già sư địa và luận A tì đạt ma tạp
tập, v.v...
2- Hư Không: Khoảng không bao la, gồm có 5
nghĩa: Trùm khắp, thường hằng, không bị ngăn ngại, không phân biệt, dung nạp
hết thảy muôn vật. Còn theo Tông kính lục quyển 6, thì Hư không có 10 nghĩa:
Không chướng ngại, cùng khắp, bình đẳng, rộng lớn, vô tướng, thanh tịnh, bất
động, hữu không, không không, vô đắc. [X. luận Đại tỳ bà sa Q.75; luận Câu xá
Q.1, Q.6; luận Ngoại đạo tiểu thừa niết bàn, luận Du già sư địa Q.53; luận A tỳ
đạt ma tạng hiển tông Q.1; luận Thuận chính lý Q.1; Đại thừa nghĩa chương Q.2;
Câu xá luận bảo sớ Q.1]. (xt. Hư Không Vô Vi).
3- Hư Không: Tên khác của Không giới. Chỉ cho
khoảng không gian, nơi tồn tại của tất cả các pháp, 1 trong 6 giới. Tuy nhiên,
cứ theo Thuyết nhất thiết hữu bộ, thì giữa hư không và không giới có sự khác
nhau, bộ này cho rằng Hư không chẳng phải sắc, còn Không giới thì là sắc; Hư
không không thấy được, Không giới thì thấy được; Hư không vô lậu, Không giới
hữu lậu; Hư không vô vi, Không giới hữu vi. Cái không mà chúng ta thấy đó là
không giới, chứ chẳng phải Hư không. Nhưng trong các Kinh thì phần nhiều không
phân biệt 2 từ này mà dùng thay cho nhau. Ngoài ra, Hữu bộ còn cho rằng sắc của
Không giới lấy sáng, tối làm thể, là có thật. Nhưng các bộ phái khác thì không
công nhận thuyết này. [X. luận Du già sư địa Q.54; luận Đại tỳ bà sa Q75; luận
Câu xá Q.1; luận Pháp uẩn túc Q.10; luận Thuận chính lý Q.2; Đại thừa nghĩa
chương Q.2; Du già luận ký Q.14 phần dưới]. Còn thế nào là hư không chẳng hoại
hư không? thích nghĩa kế tiếp sẽ giải đáp.
(6). Cảnh giới hư không nội chẳng
hoại cảnh giới hư không ngoại. Kinh chia ra làm hai loại hư không: Hư không
nội và hư không ngoại. Hư không nội thuộc về vô sắc thể(vô vi), theo
Tông kính lục quyển 6, thì Hư không có 10 nghĩa: “Không chướng ngại, cùng khắp,
bình đẳng, rộng lớn, vô tướng, thanh tịnh, bất động, hữu không, không không, vô
đắc”. Hư không ngoại tức thuộc sắc thể (hữu vi) là không giới nói trên,
nó cũng là một cảnh định gọi là Không vô biên xứ định trong Tứ không định hay
tứ định vô sắc. Khoảng không mà chúng ta có thể thấy được mặc dầu không có
biên giới tức là hư không ngoại hay không giới. Trong Kinh không phân biệt hai
thứ hư không này, vì dù là tâm hay vật cũng không thể lấn áp, hoại diệt lẫn
nhau, nên Kinh nói: “Hư không chẳng hoại hư không, cảnh giới hư không nội
chẳng hoại cảnh giới hư không ngoại. Cảnh giới hư không ngoại chẳng hoại cảnh
giới hư không nội. Như vậy, sắc chẳng hoại không, không chẳng hoại sắc…” Sắc có
ý nói về sắc thể tức là Vật, Không ý nói vô sắc thể tức là Tâm. Cho nên,
Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật có câu “Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc.
Sắc tức là Không, Không tức là Sắc”.
Với những giải thích tỉ mỉ trên có
thể giúp độc giả hiểu phẩm này dễ dàng hơn.
Lược giải:
Đây là một đoạn Kinh rất dễ lẫn lộn
nhất từ cách dịch cho đến cách dùng danh từ. Sau khi tham khảo nhiều bản dịch,
chúng tôi dùng phẩm “Thật Tế” quyển thứ 28, Kinh MHBNBLMĐ tương đương
với phẩm “Bất Khả Động” của ĐBN (phù hợp với bản gốc bằng chữ Hán trong
Hoavouu.com), ghi lại cuộc đối thoại giữa Ngài Tu Bồ đề và đức Phật, trong phần
mở đầu phẩm này để chiết giải:
“Ngài Tu
Bồ Đề bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu chúng sanh rốt ráo bất khả đắc thì
Bồ Tát vì ai mà thực hành Bát nhã Ba la mật?”.
Đức Phật
bảo Ngài Tu Bồ Đề: “Bồ Tát vì thật tế(1) mà hành Bát nhã Ba la mật.
Này Tu Bồ
Đề! Nếu thật tế cùng chúng sanh tế(2) dị biệt thì Bồ Tát chẳng hành Bát nhã Ba
la mật. Nhưng vì thật tế, chúng sanh tế chẳng dị biệt nên đại Bồ Tát vì lợi ích
chúng sanh mà hành Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa,
này Tu Bồ Đề! Lúc hành Bát nhã Ba la mật, đại Bồ Tát vì chẳng phá hoại thật tế
mà kiến lập chúng sanh trong thật tế.
- Bạch
Thế Tôn! Nếu thật tế tức là chúng sanh tế thì đại Bồ Tát kiến lập thật tế ở nơi
thật tế. Nếu kiến lập thật tế ở nơi thật tế có nghĩa là kiến lập tự tánh ở nơi
tự tánh. Nhưng chẳng thể kiến lập tự tánh nơi tự tánh. Bạch Thế Tôn! Tại sao
lúc hành Bát nhã Ba la mật, đại Bồ Tát kiến lập chúng sanh nơi thật tế?
- Này Tu
Bồ Đề! Thật tế chẳng thể kiến lập thật tế, tự tánh chẳng thể kiến lập tự
tánh. Nay đại Bồ Tát lúc hành Bát nhã Ba la mật vì sức phương tiện nên kiến lập
chúng sanh ở thật tế. Thật tế chẳng khác chúng sanh tế. Thật tế cùng chúng sanh
tế không hai, không khác.
- Bạch
Thế Tôn! Những gì là sức phương tiện của đại Bồ Tát? Dùng sức phương tiện ấy,
đại Bồ Tát lúc hành Bát nhã Ba la mật kiến lập chúng sanh ở thật tế, cũng chẳng
phá hoại tướng thật tế?”.
Đoạn Kinh này không khác với các
đoạn Kinh được dịch trong Tuvienquangduc.com, hay bản dịch đã củ soát trong
Quangduc.com, chỉ khác là dùng các từ mà thôi. Sở dĩ, chúng tôi dùng đoạn Kinh
này là vì chúng tôi thấy các từ trong đoạn Kinh này hợp với nguyên bản bằng chữ
Hán và dễ hiểu hơn.
1. Thật tế và chúng sanh tế:
1- Cái thấy biết của người chưa
chứng ngộ (tức nói theo Tục đế):
Tri kiến của mỗi người về nhân sinh và vũ trụ khác nhau hay nói theo
thuật ngữ ngày nay gọi chung tri kiến đó là văn hóa. Thứ văn hóa (bao
gồm khoa học kỹ thuật, văn chương, mỹ thuật, luân lý, đạo đức, thói quen tập
tục cũng như quan điểm sống v.v...) của mỗi cá nhân đều khác nhau tùy theo hoàn
cảnh sống và sự thâu thập hay học hỏi của mỗi cá nhân đó. Người ít học, quê
mùa, thiếu tiếp xúc với thế giới bên ngoài thì có văn hóa thấp; người thông
minh, lanh lợi, chịu khó học hỏi thâu lượm… thì có văn hóa cao hơn. Ta có thể
biểu thị văn hóa của mỗi phần tử đó trong xã hội bằng những vòng tròn khác
nhau: Các vòng tròn đều có giới hạn của nó: Vòng tròn nhỏ tiêu biểu cho người
ít học và vòng tròn lớn tiêu biểu cho người học rộng hiểu nhiều. Giới hạn của
các vòng tròn lớn nhỏ đó có thể xem là “biên tế tri thức” của mỗi người. Danh
từ tri thức có thể xem là sự hiểu biết của mỗi cá nhân mà thiền ngữ thường gọi
là kiến văn giác tri, cái giác tri của hữu sư trí, lượm lặt từ ngoài vào.
Hai vòng tròn có thể lớn hay nhỏ, rộng hay hẹp tùy theo kiến thức, có
thể tiếp xúc ở một điểm hay nhiều điểm. Điểm giao thoa duy nhất này là chỗ gặp
gỡ của hai tư tưởng tương đồng (tương đồng ở một điểm mà thôi)- (Hình 2).
Hai vòng tròn cũng có thể giao nhau ở nhiều điểm (chỗ tiếp xúc của hai
vòng tròn chập vào nhau). Nếu chỗ gặp gỡ của những giao điểm càng lớn, thì tư
tưởng tương đồng càng nhiều, càng rộng- (Hình 3). Và cũng có thể vòng tròn nhỏ
nằm gọn trong vòng tròn lớn- (Hình 4), nhưng chắc chắn cả hai vòng tròn không
thể chập khít lên nhau và đồng tâm với nhau, trừ trường hợp các chư Như Lai.
Chỗ mà hai vòng tròn không tiếp xúc với nhau (không chập lên nhau) đó là
chỗ sai biệt tư tưởng của hai cá thể- (Hình 1). Sự sai biệt trở thành
tất nhiên trong thế giới Tục đế này. Giới hạn của các tư tưởng tương đồng và dị
biệt đó có thể tạm gọi là biên tế tri kiến của hữu tình gọi là chúng sanh tế
trong thế giới đa thù đa dạng này. Đó là quan niệm của cái nhìn của chúng
sanh hay gọi là Tục đế.
2- Cái thấy biết của người chứng ngộ
Bát Nhã (tức nói theo Thắng nghĩa đế):
Chư Phật, chư Bồ tát do sự tu tập và hành trì các diệu pháp chứng Bát Nhã Trí, nên thấy biết được cái bản thể rốt ráo chân thường của vạn pháp như nhau nên bảo là chứng được giới hạn chung cùng của hết thảy thực tại, gọi là thật tế. Ngộ rồi thì tri kiến như nhau, nên nói thật tế tức chân như, pháp giới, pháp tánh, pháp trụ v.v... như nhau không khác. Nói theo Thắng nghĩa đế(Chân đế), vì chân như hay thật tế chỉ là một.
“Biên tế của Thực tại”, bhùta: Thực (thực tại), và koti: Tế (biên
tế). Không phải chiết tự là như thế, nhưng chư Phật bằng Phật nhãn (đồng hóa
với trí Bát Nhã, tiêu biểu bằng con mắt thứ ba giữa trán) soi thấy cái biên tế
thực tại tuyệt đối của mọi vạn hữu không ngoài bản tánh Không. Bản tánh Không
chính là cái biên tế tuyệt đối, cùng đích của hết thảy thực tại. Thật tế
(Bhutakoti) cũng là một từ ngữ khác chỉ cho Tuyệt Đối. Vậy thật tế tức bản tánh
Không và bản tánh Không tức là thật tế. (3)
Cái thấy biết của chư Phật với chư Phật đối với mọi vật thể trần gian là
bình đẳng. Cái thấy biết trong sát na chứng ngộ của chư Phật rộng lớn như hư
không, không có biên giới, không có tiền tế, không có trung tế, không có hậu
tế, vô giới hạn... tạm gọi là thật tế. Biên tế của Phật này không khác với biên
tế của Phật kia hay nói khác biên tế của tất cả chư Phật không hai không khác.
Cái thấy biết của chúng sanh do nghiệp dư nói theo đạo Phật hay do hoàn
cảnh huân tập nói theo tục đế, biểu hiện bằng những vòng tròn có giới hạn, tạm
gọi là chúng sanh tế như diễn tả trên.
Sự phân biệt giữa thật tế và chúng sanh tế là do chúng sanh sống trong
mê muội, còn chư Bồ tát, chư Phật cũng là chúng sanh, nhưng khác với chúng sanh
là giác ngộ nên được gọi là hữu tình giác ngộ. Do đâu mà chư Bồ tát chư Phật
giác ngộ, vì chư Bồ tát chư Phật không còn phân biệt chấp trước nữa, tâm như
như bất động nên nhìn thấy muôn sự muôn vật trong chân như thật tướng (bhùtatathatà)
của nó hay nói khác là nhìn thấy biên tế tột cùng của thực tại nên nói là chứng
thật tế.
Nếu hữu tình có cái thấy biết cùng đích trên hết thảy mọi thực tại như
chư Phật thì hữu tình không còn là hữu tình nữa. Vì chân như, pháp giới, pháp
tánh, pháp trụ, pháp vị, tánh không, thật tướng, Như lai tạng, pháp thân, Phật
tính, tự tính thanh tịnh thân, nhất tâm, cảnh giới hư không, cảnh giới đoạn,
cảnh giới ly, cảnh giới diệt, cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô tướng, cảnh giới
vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tịnh, cảnh giới Niết
bàn, bổn vô, bản thể, thật tế, v.v… của hữu tình và chư Phật đều không hai,
không khác. Bổn thể(4) tức Lý và hiện thực(5) tức Sự chỉ là một, trong một thế
giới mà ở đó tất cả các pháp hoàn toàn dung hợp. Phàm phu trong cõi mê cũng có
khả năng thể hiện cảnh giới mà chư Phật giác ngộ, trong đó hiện tượng tức thực
tại, sai biệt tức bình đẳng, nghĩa là “thật tế cũng đồng nghĩa với chúng sanh
tế” vì phàm phu (trong cõi mê) cũng có khả năng kiến lập cảnh giới tối cao (cõi
ngộ) như chư Phật, nếu chứng được chân như thật tướng của tất cả pháp.
Trên thực tế, cảnh giới mà chư Phật đạt được là do tu tập Bát nhã Ba la
mật trong nhiều kiếp... không ai có thể kiến lập cho chư Phật và khi chư vị
chứng đắc giác ngộ cũng không thể kiến lập cho chúng hữu tình. Chỉ có hữu tình,
không ai khác hơn hữu tình tự kiến chiếu vào tự tánh, vươn lên trong ánh sánh
giác ngộ để chứng lấy thật tế. Đó là đứng về thế tục mà nói.
Nhận thức trên là kết quả do chúng sanh phân biệt nên lúc nào cũng thấy
thế giới phân hai có mê là có ngộ, có chúng sanh là có Phật, có Tục đế là có
Thắng nghĩa đế v.v... Vì vậy, Bát Nhã lúc nào cũng chỉ cho chúng sanh thấy hai
chiều đối lập để chúng sanh tự tìm lấy lối thoát giữa những bế tắt đó. Còn chư
Phật vượt qua và vượt trên cả hai nên không còn ngăn ngại.
Nhưng, Phật với cái nhìn bao dung khi nói hữu tình tâm đồng tâm Phật, cảnh
giới của hữu tình đồng với cảnh giới Phật, thật tế chẳng khác hữu tình tế.
Phần “Mạn Thù Thất lợi”(6), quyển 574, Hội thứ VII, ĐBN. Mạn Thù bạch
Phật:
- “Bạch Thế tôn! Hữu tình tâm đồng tâm Phật, tánh chẳng nghĩ bàn ư?
Phật bảo Mạn Thù Thất Lợi:
- Đồng Tử! Như vậy, như ngươi đã nói. Vì sao? Vì Phật, hữu tình, tâm và
tất cả pháp thảy đều bình đẳng chẳng nghĩ bàn vậy”.
Đó là cái thấy của Thắng nghĩa đế. Vì trong Thắng nghĩa đế không có phân
biệt. Tất cả đều cùng một Phật tánh, bản hữu như nhau nên nói sanh ra từ bào
thai của vũ trụ hay cùng trong một Như Lai tạng vì cùng là anh em với
nhau.
Kinh VănThù Sư Lợi Sở Thuyết Ma Ha Bát nhã Ba la mật(7), thuộc
phần “Mạn Thù Thất Lợi”, Hội thứ VII, Phật hỏi:
- “Mạn Thù Thất Lợi! Sao gọi là thật tế?
- Bạch Thế Tôn! Thật tế phải biết đó là ngụy thân (thân hư giả).
- Mạn Thù Thất Lợi! Vì sao ngụy thân được gọi là thật tế?
- Bạch Thế Tôn! Thật tế không đến không đi, chẳng chơn chẳng ngụy, tướng
thân chẳng thân đều chẳng thể được. Ngụy thân cũng vậy, vậy nên ngụy thân
tức là thật tế”.
Phật lại hỏi Mạn Thù:
- “Muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, ngươi phải quán nghĩa
nào?
Mạn Thù Thất Lợi thưa:
- Bạch Thế Tôn! Đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, con còn không
có trụ tâm, huống hồ muốn chứng. Đối với Bồ đề con không mong cầu chứng đắc. Vì
sao? Vì Bồ đề tức là con, con tức là Bồ đề thì cầu làm gì?
Phật dạy:
- Đồng tử! Hay thay! Ngươi đã nói được nghĩa lý sâu xa một cách hoàn
hảo. Đời trước ông gieo trồng nhiều căn lành với các đức Phật, phát đại nguyện
lâu dài, thường nương vào vô đắc, tu hành các phạm hạnh thanh tịnh.
Mạn Thù Thất Lợi liền bạch Phật:
- Nếu kẻ đối các pháp có sở đắc nên nương vô sở đắc tu phạm hạnh thanh
tịnh. Con đều chẳng thấy có pháp khả đắc hay bất khả đắc, làm sao nói được năng
nương vô đắc tu phạm hạnh thanh tịnh?”
“Bồ đề tức là con”, điều đó có nghĩa là Mạn Thù thường nương vào vô đắc
tu phạm hạnh mà đắc Bồ đề. Nhưng Mạn Thù lại phủi: Con chẳng thấy có pháp khả
đắc hay bất khả đắc, làm sao nói được năng nương vô đắc tu phạm hạnh thanh tịnh
mà được Bồ đề. Đó là cái thấy của bậc Thánh, cái thấy của Thắng nghĩa đế. Vì
Mạn Thù Thất Lợi tên khác của Văn Thù Sư Lợi, một cổ Phật giúp Phật Thích Ca
Mâu Ni giáo hóa chúng sanh ở Diêm Phù đề này.
Tất cả dẫn chứng trên cốt thâu vào một mối: Khi thâm nhập Bát Nhã rồi
thì không phân biệt phàm Thánh, thật tế hay chúng sanh tế. Tất cả đều bình đẳng
như như nằm trong cùng một pháp giới, cũng gọi là chân như, pháp tánh, thật tế
v.v...
Để dẫn chứng cho luận giải này tôi lấy một đoạn Kinh trong phẩm “Các
Tướng Bình Đẳng”, quyển 384, ĐBN làm thí dụ: “Tất cả pháp là pháp giới. Tất cả
pháp đều nhập vào pháp giới. Như Lai dù có ra đời, hoặc chẳng ra đời, các
pháp vẫn như vậy, đều nhập pháp giới, không có tướng sai biệt, chẳng phải do
Phật thuyết. Vì sao? Vì tất cả pháp thiện hoặc pháp phi thiện, hoặc pháp hữu ký
hoặc pháp vô ký, hoặc pháp hữu lậu hoặc pháp vô lậu, hoặc pháp thế gian hoặc
pháp xuất thế gian, hoặc pháp hữu vi hoặc pháp vô vi, đều nhập pháp giới
tánh không, vô tướng, vô vi. Cho nên, đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã, muốn
học pháp giới, nên học tất cả pháp. Nếu học tất cả pháp tức là học pháp giới.
Nếu phân biệt pháp tức là phá hoại pháp”.
Như vậy, Pháp giới gồm cả Chân như, Pháp tánh, Bất hư vọng tánh, Bất
biến dị tánh, Bình đẳng tánh, Ly sanh tánh, Pháp định, Pháp trụ, thật tế…Chúng
sanh tế cũng phải thâu gọn trong đó, vì tất cả pháp đều là pháp giới. Tất cả
pháp đều nhập vào pháp giới, bình đẳng không hai không khác. Đó là cái nhìn của
Thắng nghĩa đế trong tinh thần lạc quan của Bát Nhã, tất cả đều bình đẳng như
như, tất cả đều là anh em với nhau trong cùng bào thai của Như Lai tạng nên nói
thật tế tức chúng sanh tế (hay hữu tình tế) không hai không khác. Chúng tôi chỉ
có thể giảng luận được như thế, không hơn không kém!
2. Bản tánh không:
1- Những pháp nào bản tánh đều
không?
“Phật bảo cụ thọ:
- Thiện Hiện! Sắc bản tánh không, thọ, tưởng, hành, thức bản tánh
không; đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã như thật rõ biết các uẩn bản tánh
không như thế rồi, an trụ bản tánh không, vì các hữu tình, tuyên thuyết bản
tánh không; mười hai xứ, mười tám giới bản tánh không, tứ thiền, tứ vô lượng,
tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết
trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao bản tánh không; đại Bố tátkhi hành Bát Nhã,
như thật rõ biết bản tánh không rồi, an trụ bản tánh không, vì các hữu tình,
tuyên thuyết bản tánh không như thế.
Nếu bản tánh của tất cả pháp chẳng không, thì các
đại Bồ tát chẳng vì các hữu tình thuyết tất cả pháp đều bản tánh không; thuyết
như thế là hoại bản tánh không. Nhưng bản tánh không, lý chẳng thể hoại,
chẳng phải thường, chẳng phải đoạn. Vì sao? Vì lý bản tánh không không phương
hướng, không xứ sở, không từ đâu đến, cũng không về đâu. Lý không như thế cũng
gọi là pháp tánh. Trong ấy không có pháp, không tụ, không tán, không tăng,
không giảm, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; tất cả pháp ấy vốn
là tánh an trụ. Các đại Bồ tát an trụ trong đó, cầu đạt quả vị Giác ngộ tối cao
chẳng thấy các pháp có chỗ hướng đến, không chỗ hướng đến, vì tất cả pháp hoàn
toàn không sở trụ, cho nên gọi là pháp trụ. Các đại Bồ tát an trụ trong đó, tu
hành Bát Nhã, thấy tất cả pháp bản tánh không rồi, nhất định hướng đến quả vị Giác
ngộ tối cao, được bất thối chuyển. Vì sao? Vì đại Bồ tát ấy chẳng thấy có pháp
có thể gây chướng ngại. Vì thấy tất cả pháp không chướng ngại nên đối với quả
vị Giác ngộ tối cao chẳng sanh nghi hoặc, vì vậy nên không bao giờ thối thất.
Trong bản tánh không, ngã chẳng thể nắm bắt được, hữu tình chẳng thể nắm
bắt được, sự an lập hữu tình chẳng thể nắm bắt được; dòng sanh mạng, khả năng
sanh khởi...cho đến cái biết, cái thấy cũng chẳng thể nắm bắt được.
Trong bản tánh không, sắc chẳng thể nắm bắt được; thọ, tưởng, hành, thức
cũng chẳng thể nắm bắt được; mười hai xứ, mười tám giới chẳng thể nắm bắt được;
tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp
bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cũng chẳng thể nắm
bắt được. Trong bản tánh không, pháp sắc phi sắc chẳng thể nắm bắt được; pháp
hữu kiến vô kiến, hữu đối vô đối, hữu lậu vô lậu, hữu vi vô vi cũng chẳng thể
nắm bắt được.
Thiện Hiện! Như bốn chúng mà Phật hóa ra là Tỳ kheo nam, Tỳ kheo nữ, Cư
sĩ nam, Cư sĩ nữ, giả sử có hóa Phật, trải qua trăm ngàn, triệu kiếp, vì bốn
chúng ấy tuyên thuyết pháp yếu, hóa chúng ấy cũng chẳng thể đắc quả Dự lưu,
Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, hoặc đắc quả vị Độc giác, hay quả vị Giác ngộ tối
cao. Vì sao? Vì hóa chúng đó hoàn toàn không phải thật, nên không thể đắc quả.
Các pháp cũng vậy, đều bản tánh không, hoàn toàn không thật có thì làm sao có
thể( đem lại) quả đắc. Đại Bồ tát, vì hữu tình gì, nói pháp gì khiến hữu
tình có thể đắc quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn v.v…?
Thiện Hiện! Đại Bồ tát tuy vì hữu tình tuyên thuyết các pháp bản tánh
không, nhưng các hữu tình, thật chẳng thể hiểu biết được, thương xót họ rơi vào
điên đảo, nên cứu vớt khiến an trụ pháp không điên đảo, không điên đảo nghĩa là
không phân biệt; không phân biệt thì không điên đảo, nếu có phân biệt thì có
điên đảo vì chúng đồng loại.
Thiện Hiện! Trong cái không phân biệt, không điên đảo, không có ngã, hữu
tình, dòng sanh mạng, khả năng sanh khởi… cho đến cái biết, cái thấy; cũng
không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức; cũng không có mười hai xứ, mười
tám giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười
tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao. Cũng không
có pháp sắc phi sắc, không có pháp hữu kiến vô kiến, hữu đối vô đối, hữu lậu vô
lậu, hữu vi vô vi; cũng không có ba mươi hai tướng Đại sĩ, không có tám mươi vẻ
đẹp phụ thuộc.
Như vậy, nói (tóm)lược là “tất cả đều không”: Không
ngã, không chúng sanh, không mạng giả… cho đến không có cái thấy cái
biết; không có sắc thọ tưởng hành thức; không có xứ giới; không có tứ thiền, tứ
vô lượng, tứ định vô sắc, không có tập diệt đạo, không có vô minh cũng không
hết vô minh, không có già chết cũng không hết già chết, cũng không có pháp
không nội, không có pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không,
pháp không lớn... cho đến pháp không không tánh tự tánh, cũng không có đạo,
không có quả, cũng không có chứng đắc v.v…Tất cả đều không có sở hữu, nếu không
có sở hữu thì gọi là bản tánh không. Các đại Bồ tát khi hành Bát Nhã, an trụ
trong đó thấy các hữu tình đọa vào tưởng điên đảo, phương tiện thiện xảo khiến
được giải thoát. Giải thoát những gì? Giải thoát những trói buộc:
“Không có ngã, tưởng có ngã; không có chúng sanh, tưởng có chúng sanh… cho đến
không có cái thấy cái biết, tưởng có thấy biết. Cũng giải thoát những trói
buộc: Không có sắc, tưởng có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, tưởng có
thọ, tưởng, hành, thức. Cũng khiến giải thoát những trói buộc: Không có xứ,
giới, tưởng có xứ, giới, không có tất cả pháp Phật, tưởng có tất cả pháp
Phật. Cũng khiến giải thoát những trói buộc:Không có pháp sắc phi sắc mà tưởng
có pháp sắc phi sắc; không có pháp hữu kiến vô kiến, hữu đối vô đối, hữu lậu vô
lậu, hữu vi vô vi, mà tưởng có pháp hữu kiến, vô kiến cho đến hữu vi, vô vi”.
Tất cả pháp đều không, cho đến cái thấy cái biết cũng không. Vì thấy
biết không nên mới được giải thoát. Giải thoát không có nghĩa đi lên thiên đàng
hay đi đâu cả mà giải thoát có nghĩa là chặt đứt được những trói buộc do cảm
thọ hay thức vọng gây ra. Nếu thấy biết của chúng sanh (tục đế) là không thì
cái thấy biết này ngang đồng với cái thấy biết của Thánh giả (thắng nghĩa đế).
Nên Phật bảo:
“Còn Đệ nhất nghĩa đế thì không sanh, không diệt, không tướng, không
tác, không hý luận, không phân biệt. Thắng nghĩa đế tức là bản Tánh Không.
Bản Tánh Không này tức là sở chứng của chư Phật, cũng gọi là Phật đạo. Trong ấy
chúng sanh bất khả đắc, cho đến người thấy, người biết bất khả đắc; sắc, thọ,
tưởng, hành, thức bất khả đắc cho đến tám mươi tùy hình hảo bất khả đắc.Tại
sao?Vì đại Bồ Tát chẳng phải vì đạo pháp mà cầu Vô Thượng Bồ Đề. Đại Bồ Tát
vì chư pháp thật tướng tánh không mà cầu Vô Thượng Bồ Đề. Tánh không ấy, tiền
tế, hậu tế và trung tế đều tánh không! Thường là tánh không, chưa từng chẳng
không”. (Q. 388, ĐBN)
2- Bản tánh không là sở chứng của
chư Phật, cũng gọi là Phật đạo.
“Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ, vị lai, hiện tại mười
phương đều dùng bản tánh không, làm Phật nhãn. Nhất định không có Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác nào lìa bản tánh không mà có thể xuất hiện ở đời. Chư
Phật xuất thế đều thuyết bản tánh không; hữu tình được giáo hóa cần phải lắng
nghe Phật thuyết lý bản tánh không, mới có thể nhập Thánh đạo, chứng quả Thánh
đạo; lìa bản tánh không, không có phương tiện nào khác”.
“... Nếu đại Bồ tát muốn đắc Vô Thượng Bồ đề thì phải an trụ tất cả pháp
Phật, mà an trụ tất cả pháp Phật tức là an trụ bản tánh không... “Bản tánh
không là sở chứng của chư Phật, cũng gọi là Phật đạo”. “Nhất định không có Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nào lìa bản tánh không mà có thể xuất hiện ở đời”. Vậy,
bản tánh không là Như Lai Ứng Cúng Đẳng giác, là Vô Thượng Bồ đề, là Phật Đạo”.
Nếu thấy tất cả pháp bản tánh không thì không phân biệt, không phân biệt
tức không chấp. Không chấp tức vô thức thì được vô niệm vô tâm, nên nói là
chứng tánh. Chứng tánh đó là tánh gì? Tánh đó tức là Tánh không. Chỗ cao nhất
của Bát Nhã. Nhưng thật ra chứng mà chẳng có gì để chứng nên bảo là không. Tất
cả đều vô sở hữu, bất khả đắc, rỗng không, trong suốt. Đỉnh cao của giáo lý
Bát Nhã ở chỗ đó! Tất cả nổ lực của chúng ta là học ở cái rỗng không trong suốt
này. Câu nói ở trong Truyền Đăng Lục “Vin vào cái có mà chẳng có, tựa vào cái
không mà chẳng không” trở thành câu nói đầy thú vị cho người hành trì Bát Nhã!
Thích nghĩa cho phần lược giải này:
(1). Bản dịch ĐBN của HT Thích Trí
Nghiêm trong Tuvienquangduc.com dùng từ thật tế, bản
dịch của cùng một tác giả nhưng được củ soát trong thuvienhoasen.org dịch là Niết
bàn. Nguyên bản bằng chữ Hán trong hoavouu.com âm là thật tế(實際). Chúng tôi dùng từ thật tế, vì từ này cũng được HT Thích Trí Tịnh
dùng để dịch Kinh MHBNBLMĐ, tức là Kinh Đại Bát Nhã do Phật thuyết ở Hội thứ II
cũng còn gọi là đại phẩm như nhiều lần giải thích.
Thực tế hay thật tế là một trong
những từ khó giải thích nhất mà Bát Nhã thường lặp đi lặp lại nhiều lần. Tùy
các tông phái, tùy theo trình độ tu tập, công phu hành trì của mỗi cá nhân, mỗi
nhà, mỗi tông mà có những nhận định khác nhau về từ này. Trong văn chương Phật
học thường đặt từ này ngang hàng hay có thể thay thế với các từ như chân như,
pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, hư không giới, bất tư nghì giới,
Phật tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, như như, Niết bàn, Như lai tạng
v.v…như đã giải thích ở trên.
Từ điển Phật học Việt Anh - Minh
Thông giải thích Thật tế (S: Bhùtakoti): Reality-limit. Chân
thật tế cực, chỉ Niết bàn thật chứng lìa hẳn hư vọng. Từ này được
thích nghĩa nhiều lần ở các phẩm trước. Ở đây giải thích này của từ điển Minh
Thông rất phù hợp với các bản Việt dịch ĐBN, nên được nêu ra để độc giả nắm
vững vấn đề.
(2). Chúng sanh tế: Từ này
được HT. Thích Trí Tịnh dùng khi dịch Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa;
Tuvienquangduc.com dịch là hữu tình tế; Quangduc.com cũng dịch là hữu
tình tế, trong khi thuvienhoasen.org dịch là cõi hữu tình; nguyên văn
bản chữ Hán trong hoavouu.com âm là hữu tình tế 有情際. Chúng tôi dùng cụm từ chúng sanh tế vì thuận tai hơn.
Cái cùng đích biên tế của hết thảy
mọi thực tại gọi là thật tế, riêng con người thì gọi là chúng sanh tế hay hữu
tình tế. Cũng như nói chơn như của chúng sanh thì gọi là chúng sanh như, thực
tế của chúng sanh gọi là chúng sanh tế. Trong phần lược giải trên đã giải thích
rộng rồi.
(3). Định nghĩa của Thiền sư D.T.
Suzuki trong Thiền luận III.
(4). Bản thể, bổn thể, bản chất (本體): Thông thường, các nhà triết học phương Tây giải thích bản thể: Bản
thể là cái tự nó tồn tại đích thực đối lập với hiện tượng. Trong Phật giáo,
danh từ pháp thể được dùng để diễn đạt ý nghĩ tương đồng như thế, tức chỉ cái
thể tính các pháp, hoặc những danh từ như bản chất các pháp, bản tính, pháp
tính, chân như v.v... là những dụng ngữ đồng loại. Trước thời Phật giáo, người
Ấn độ cổ đại nhận bản thể của vũ trũ là Phạm (Phạm:brahman), bản thể của cá
nhân là Ngã (Phạm: àtman) và cho rằng bản chất của Phạm và Ngã là một (Phạm ngã
nhất như). Về bản thể ngã của cá nhân, thì Phật giáo lập thuyết Vô ngã, chủ
trương hết thảy các pháp đều do mối quan hệ tương y tương hỗ (nhân duyên) mà
tồn tại; trong Phật giáo Đại thừa tư tưởng này còn triệt để hơn nữa mà sản sinh
tư tưởng không (Phạm:sùnya). Trong các phái thuộc Phật giáo Bộ phái, có những
phái như Độc tử, Pháp thượng, Chính lượng v.v... khẳng định sự tồn tại của ngã
thể chủ quan (phi tức phi li uẩn ngã), cũng khẳng định các pháp hiện tượng
giới, các phái này thuộc tông Pháp ngã câu hữu (ngã pháp đều có). Lại như
Thuyết nhất thiết hữu bộ cho rằng, thể tính của vạn hữu là thường hằng bất diệt
suốt trong quá khứ, hiện tại và vị lai, đây tức là thuyết Tam thế thực hữu,
pháp thể hằng hữu (ba đời thực có, pháp thể hằng có), nhưng ở một mặt khác, thì
lại không thừa nhận sự tồn tại của Ngã, vì thế thuộc tông Ngã không pháp hữu
(ngã không pháp có). Còn các phái Kinh lượng, Hóa địa, Pháp tạng, Đại chúng, Kê
dận, Tây sơn trụ, Bắc sơn trụ v.v... thì chủ trương các pháp quá khứ và vị lai
không có thể tính, duy chỉ pháp hiện tại là thực có, đây tức là thuyết Quá vị vô
thể (quá khứ vị lai không có thể tính). Lại như Thuyết giả bộ, thì không những
chỉ nhận quá vị vô thể, mà ngay cả đối với các pháp hiện tại cũng chủ trương có
giả có thực. Theo Thuyết giả bộ nói, thì vạn hữu chia làm năm uẩn, mười hai xứ,
mười tám giới, trong đó năm uẩn là thực thể, nhưng mười hai xứ, mười tám giới
là những pháp sở y, sở duyên, thuộc pháp tích tụ, là có giả, đây tức là thuyết
Hiện pháp giả thực (pháp hiện tại có giả có thực). Ngoài ra, Thuyết xuất thế bộ
thì cho các pháp thế gian đều là có giả, duy chỉ pháp xuất thế gian là có thực
thể, đây tức là thuyết Tục vọng chân thực (tục đế vọng chân đế thực). Nhất
thuyết bộ thì chủ trương hết thảy vạn hữu, dù là pháp thế gian hay xuất thế
gian, đều chỉ có giả danh chứ không có thực thể, đây tức là thuyết Chư pháp đãn
danh (các pháp chỉ có cái tên). Vào giữa thế kỷ thứ IV Tây lịch, Ha lê bạt ma
(Phạm: Harivarman), viết luận Thành thực 16 quyển, nêu cao tư tưởng không, phản
đối thuyết Tam thế thực hữu, pháp thể hằng hữu của Nhất thiết hữu bộ, không những
chỉ phủ nhận sự tồn tại của ngã thể chủ quan, mà còn bác luôn cả sự tồn tại của
pháp thể vạn tượng khách quan, đây tức là thuyết Ngã pháp câu không (cả ngã và
pháp đều là không). Giáo hệ Phật giáo có liên quan đến vấn đề bản thể tính
tướng, mở đầu tự Hữu không luận của Tiểu thừa, biến chuyển mà thành Hữu không
luận của Đại thừa, như giáo nghĩa Duy thức dùng thuyết Tam tính, Tam vô tính để
trình bày hữu không quan về vạn hữu, và khảo sát thực lý Hữu, Không, Trung đạo.
Tức dựa vào ba tính Biến kế sở chấp, Y tha khởi, Viên thành thực, từ phương
diện có thuyết minh tự tính của vạn hữu, đồng thời, dựa vào ba vô tính: Tướng
vô tính, Sinh vô tính, Thắng nghĩa vô tính, từ phương diện không hiển bày cái
chí lý các pháp đều không, cho nên nhấn mạnh hiện tượng tuy là không hoặc có
giả, nhưng thực thể thì là có thật, đây tức là luận Hữu Không Trung Đạo. Tông
Tam luận thì bác bỏ loại tư tưởng có, không tương đối ấy, mà lấy cái Không
tuyệt đối bất khả đắc làm lí tưởng cùng cực, cho nên đem Tứ trùng nhị đế, Bát
bất trung đạo để thuyết minh chân đế pháp tính siêu việt tính chấp, bặt hết tư
lự, đây tức là luận Vô tướng giai không. Tư tưởng Không này của tông Tam luận
bị coi là Bản thể luận tiêu cực; đối lại, được coi là Bản thể luận tích cực,
phát huy giáo chỉ cao nhất của Đại thừa, là luận Chư pháp thực tướng của tông
Thiên thai. Tông Thiên thai dựa vào Kinh Pháp hoa và mấy câu kệ trong phẩm Quán
Tứ đế của Trung luận (Đại 30, 33 trung): Các pháp nhân duyên sinh, Tôi bảo đó
là không, cũng tức là giả danh, cũng là nghĩa trung đạo, và câu nói trong luận
Đại trí độ Trong một tâm được ba trí, mà thuyết minh cái lí mầu nhiệm Không,
Giả, Trung ba đế viên dung, và nêu tỏ thể tính của các pháp xưa nay vốn viên
dung vô ngại. Đồng thời, chủ trương nếu người ta phá tan được khối mê vọng thì
lập tức bước vào cảnh giới thông suốt sáng chói, thể nhận hết thảy các pháp
thuần là thực tướng, ngoài thực tướng ra, không có một pháp nào khác. Pháp giới
muôn tượng la liệt, mỗi mỗi đều là thực tướng, vì thế sai biệt tức là bình
đẳng, hiện tượng tức là thực thể, sự tướng và thực thể chẳng hai chẳng khác,
muôn pháp là nhất như. Trong Phật giáo Đại thừa, ngoài luận Chư pháp thực tướng
của tông Thiên thai ra, như Pháp giới duyên khởi của tông Hoa nghiêm, Lục đại
duyên khởi của Mật tông, đều là tư tưởng lý luận chủ trương hiện tượng tức là
bản thể. Tóm lại, cái Không mà Phật giáo Đại thừa thuyết minh, tức là cái trạng
thái không thể chấp trước. Bát Nhã tâm Kinh (bản dịch của Ngài Huyền Trang)
dùng những tiếng sau đây để thuyết minh mối quan hệ giữa bản thể và hiện tượng
(Đại 8, 848 hạ): Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không,
không tức là sắc. Trong Kinh Phổ biến trí tạng Bát nhã Ba la mật-đa tâm do Ngài
Pháp Nguyệt dịch, trước hai câu trên đây, còn có hai vế (Đại 8, 849 thượng):
Sắc tính là không, không tính là sắc. Thông thường người ta dùng hiện tượng để
nắm bắt vật chất tồn tại. Nhưng cái gọi là hiện tượng, tức phải dựa vào vô số
nguyên nhân, điều kiện và luôn luôn biến hóa; trên đời tuyệt không có một hiện
tượng nào là không biến hóa, vì biến hóa không ngừng nên mới có hiện tượng sản
sinh, cho nên người ta mới mong nắm bắt sự tồn tại của chúng, đây tức là thế
giới Sắc tính là không, không tính là sắc, tương đương với cái Không trong ba
đế Không Giả Trung do đại sư Trí khải lập ra. Cái thế giới hỗn độn không chủ
thể, chưa chia thành chủ khách, là thế giới duy nhất, toàn nhất, thế giới một
tức hết thảy, hết thảy tức một, người ta nên nắm bắt cái thế giới ấy. Nhưng,
muốn đạt được cảnh giới ấy, người ta không thể không dựa vào hiện tượng làm cơ
sở. Duy có điều là một hiện tượng tuyệt không có bản thể, mà do nhiều hiện
tượng và hết thảy pháp hỗ tương quan hệ mới có thể thành lập được; đồng thời,
cũng thể nhận được thế giới duyên khởi tất cả đều do nguyên nhân và điều kiện
hỗ tương y tồn mà vận hành. Giả sử hiện tượng Ngã không hoạt động, thì hãy quan
sát mối liên quan với người khác, lúc đó có thể hiểu hiện tượng Ngã thường
không phải do Ngã mà do các nhân tố ngoại lai người khác thêm vào khiên chế mà
dần dần khác với cái Ngã hiện tại. Đứng trên lập trường lý luận mà nói, cũng có
thể lý giải hết thảy sự vật ngoại tại không ngừng phủ định tự kỷ, hoặc đối lập
với tự kỷ, và trong những điều kiện như thế, người ta phải hạn định quan hệ để
khẳng định tự kỷ, đây tức là thế giới Sắc chẳng khác không, không chẳng khác
sắc, tương đương với thế giới Giả của tông Thiên thai. Đã có thể nắm bắt được
sự thể nghiệm ở giai đoạn thứ nhất, thứ hai trên đây mà bàn đến giai đoạn thứ
ba, nếu thuyết minh bằng lời nói, thì hoàn toàn tương đồng với giai đoạn trước.
Song, trong Kinh nghiệm sinh động của nhân loại, trên thực cảm, xác thực có cái
thế giới có thể nắm bắt được và so với giai đoạn thứ hai thì thế giới ấy cao
hơn, đó tức là thế giới Sắc tức là không, không tức là sắc, tương đương với
thuyết Trung của tông Thiên thai. Nói theo nghĩa cùng tột thì ba đế Không Giả
Trung không có thứ tự trước sau cách lịch, mà là viên dung vô ngại, một tức ba,
ba tức một, đó là nghĩa đích thực của Viên giáo tam đế viên dung trong tông
Thiên thai. Mà tư tưởng ấy không những chỉ là một trong những giáo nghĩa trung
tâm của tông Thiên thai, mà cũng là chứng minh của Phật pháp Đại thừa đối với
bản thể viên thục nhất của muôn pháp. (xt. Không, Không Hữu Luận Tranh)- Từ
điển Phật Quang.
Lối giải thích này chỉ có người thâm
cứu dùng mà thôi. Chúng ta chỉ cần biết bản thể làbản chất của các pháp, bản
tính của tất cả pháp. Nhưng theo Bát Nhã thì chẳng có gì là bản chất hay bản
tánh trong tất cả pháp, tất cả đều giả lập tức là không.
(5). Hiện thực hay hiện tượng (現象): Đối lại với Bản thể, bản chất. Cái trạng thái của sự vật mà người ta
có thể cảm và biết được hiện bày ra trước mắt (nói theo Sự). Trong Phật
giáo, các hiện tượng được xem là có giả, mà bản thể, bản chất, hoặc gọi là tự
tính, bản tính mới là có thật (nói theo Lý). Tông Duy thức gọi đối tượng
của nhận thức là ảnh tượng (bóng dáng), gọi thực chất của ảnh tượng là bản
chất, còn cái hiện tượng biểu hiện trong thực tại thì được gọi là Hiện hành.
Những hiện tượng mà người ta thấy chỉ là bóng huyễn do nhận thức sai lầm mà có.
Ngoài ra, bản thể nhất như gọi là lý , hiện tượng sai biệt gọi là sự . (xt. Sự
Lí)- Từ điển Phật Quang.
Hiểu được hiện thực vàbản thể là
hiểu được Tục đế (hiện thực-tương đối) và Đệ nhất nghĩa đế (bản thể-tuyệt đối)
tức hiểu được sự và lí. Vượt qua và vượt trên lý và sự, tức hiểu được tánh bình
đẳng của tất cả pháp tức thâm nhập được Bát Nhã.
(6). Mạn Thù Thất Lợi có tên
khác là Văn Thù Sư Lợi là Bồ tát trí tuệ cùng với Phổ Hiền là Bồ tát thực hiện
hạnh nguyện của chư Phật, hai vị hộ pháp này giúp Phật giáo hóa chúng sanh
trong cõi Sa Bà. Mạn Thù Thất Lợi là nhân vật chánh trong Hội thứ VII, ĐBN.
(7). Văn Thù Sư Lợi là nhân vật
chính trong Kinh Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật do Mạn Đà La
Tiên dịch. Kinh này với Kinh Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Ba La Mật do Tăng Bà La
Tiên dịch, đồng với phần “Mạn Thù Thất Lợi” thuộc Hội thứ VII, Kinh Đại Bát Nhã
mà ta có dịp sẽ học ở Hội thứ VII.
Với những thích nghĩa tuy dài dòng
như trên nhưng rất hữu ích cho sự hiểu biết không những cho phẩm này mà còn cho
các phẩm khác nữa!
---o0o---