PHẨM “THÀNH THỤC HỮU TÌNH”
Phần cuối quyển 390 cho đến phần đầu quyển 393, Hội thứ I,
ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Cụ Túc” quyển thứ 28, MHBNBLMĐ)
Tóm lược:
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát tu hành bố thí Ba la mật, tu
hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã; an trụ mười tám pháp
không, tu hành tứ Thánh đế, tu hành ba mươi bảy pháp trợ đạo, tứ thiền, tứ vô
lượng, tứ định vô sắc, Nhất thiết trí… cho đến tu hành quả vị Giác ngộ tối cao,
chẳng đắc sở cầu là quả vị Giác ngộ thì làm thế nào đại Bồ tát tu Bồ tát đạo
được viên mãn, có thể chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật,
phương tiện thiện xảo khi tu hành bố thí Ba la mật, chẳng đắc bố thí,
chẳng đắc năng thí, chẳng đắc sở thí, chẳng đắc việc tu, cũng chẳng xa lìa các
pháp như thế mà tu hành bố thí Ba la mật thì đại Bồ tát ấy có thể viên mãn Bồ
tát đạo. Nếu đại Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật, phương tiện thiện xảo khi tu
hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã và tất cả pháp Phật, chẳng
đắc tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã và tất cả pháp Phật, chẳng
đắc năng tu, chẳng đắc sở tu, chẳng đắc việc tu, cũng chẳng xa lìa các pháp mà
hành, thì đại Bồ tát ấy có thể viên mãn Bồ tát đạo.
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật,
phương tiện thiện xảo như thế có thể viên mãn Bồ tát đạo, mau chứng quả vị Giác
ngộ tối cao.
(Chú ý đến giáo lý này: Chẳng đắc sở cầu, chẳng đắc năng
tu, sở tu, chẳng đắc việc tu, chẳng xa lìa các pháp tu thì có thể viên mãn Bồ
tát đạo và có thể chứng đắcquả vị Giác ngộ tối cao. Vì tự tánh Bát Nhã là
không, là vô sở hữu, là bất khả đắc. Nếu còn mong cầu nắm bắt, còn thấy năng sở
tức còn chấp ngã, chấp pháp, chấp chúng sanh, chấp mạng giả… Còn chấp là còn
chướng ngại thì không thể viên mãn đạo Bồ đề, cũng không thể chứng đắc quả vị Giác
ngộ tối cao).
Bấy giờ, cụ thọ Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào Bồ tát hành Bát Nhã dõng mãnh
chuyên cần tu đạo Bồ đề(1)?
Phật dạy:
- Này Xá lợi Tử! Đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã, phương tiện
thiện xảo chẳng hòa hợp sắc cũng chẳng xa lìa sắc, cũng chẳng hòa hợp thọ,
tưởng, hành, thức, cũng không xa lìa thọ, tưởng, hành, thức. Vì các pháp như
thế không có tự tánh, nếu không có tự tánh thì làm gì có hợp có ly. Đối với
mười hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy
pháp trợ đạo, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ
tối cao cũng chẳng có hợp có ly. Vì tất cả pháp không có tự tánh thì không
hợp không ly.
- Này Xá lợi Tử! Như thế làđại Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật,
dõng mãnh chuyên cần tu đạo Bồ đề.Dũng mãnh chuyên cần tu học đạo Bồ đề cũng
gọi là tu học Bát nhã Ba la mật, vì Bát nhã Ba la mật thâu nhiếp tất cả thiện
pháp. Chẳng tu học Bát nhã Ba la mật, thì chẳng bao giờ có thể đắc sở cầu quả
vị Giác ngộ tối cao.
Các đại Bồ tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, nếu thấy các
pháp có tự tánh, có thể nắm bắt được, thì có chấp thủ, nhưng các pháp vốn không
có tự tánh, làm gì có thể nắm bắt được mà sanh chấp thủ. Nghĩa là chẳng chấp
thủ đây là Bát Nhã, đây là tịnh lự, đây là tinh tấn v.v…; chẳng chấp thủ đây là
sắc, đây là thọ, tưởng, hành, thức; đây là xứ giới…; đây là quả vị Giác ngộ tối
cao; đây là phàm phu, đây là Thanh văn, là Độc giác, Bồ tát hay Như Lai.
Đại Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật, như thật rõ biết, tất
cả pháp đều chẳng thể nắm bắt, đó là Bát nhã Ba la mật chẳng thể nắm bắt, tịnh
lự Ba la mật chẳng thể nắm bắt, tinh tấn Ba la mật chẳng thể nắm bắt v.v…; sắc
chẳng thể nắm bắt, thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể nắm bắt; xứ giới chẳng thể
nắm bắt, tất cả pháp Phật chẳng thể nắm bắt được.
- Này Xá Lợi Tử! Các Ba la mật chẳng thể nắm bắt được ấy tức
là Vô chướng (ngại) Ba la mật. Vô chướng Ba la mật như thế tức là Bát nhã Ba
la mật. Các đại Bồ tát nên học trong đó.
- Này Xá Lợi Tử! Đại Bồ tát khi học trong đó, còn chẳng đắc
sự học, huống là đắc quả vị Giác ngộ tối cao, huống là đắc Bát nhã Ba la mật,
huống là đắc pháp Bồ tát, huống là đắc pháp chư Phật. Vì sao? Vì không có một
chút pháp nào có tự tánh, các pháp chỉ lấy vô tánh làm tự tánh thì làm gì có
pháp phàm phu, làm gì có pháp Dự lưu, làm gì có pháp Nhất lai, pháp Bất hoàn,
pháp A la hán, pháp Độc giác, pháp Bồ tát hay pháp Như Lai?
- Này Xá Lợi Tử! Các pháp như thế đã chẳng thể nắm bắt được,
thì nương vào pháp nào mà có thể đặtbày có phàm phu. Phàm phu đã chẳng thể nắm
bắt được, thì làm sao có thể nói đây là Dự lưu, đây là Nhất lai, là Bất hoàn,
là A la hán, là Độc giác, Bồ tát hay Như Lai!
Khi ấy, Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều không có tự tánh, hoàn
toàn chẳng phải thật có, thì y cứ vào đâu mà có thể rõ biết đây là phàm phu,
đây là pháp phàm phu; đây là Dự lưu, đây là pháp Dự lưu; đây là Nhất lai, đây
là pháp Nhất lai… cho đến đây là Như Lai, đây là pháp Như Lai?
Phật hỏi lại Xá Lợi Phất:
- Này Xá lợi Tử! Theo ý ông thì sao? Có phải thật có sắc,
thật có thọ, tưởng, hành, thức như các phàm phu ngu si chấp chăng?
Xá lợi Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không! Chẳng phải thật có sắc, chẳng phải
thật có thọ, tưởng, hành, thức như các phàm phu chấp, chỉ do phàm phu ngu si
điên đảo chấp như thế; cũng chẳng phải thật có mười hai xứ, mười tám giới
như các phàm phu chấp, chỉ do phàm phu ngu si điên đảo chấp như thế; cũng chẳng
phải thật có tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo,
mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao như các
phàm phu chấp, chỉ do phàm phu ngu si điên đảo chấp như thế.
Phật dạy:
- Này Xá lợi Tử! Các đại Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật,
phương tiện thiện xảo, tuy quán các pháp đều không có tự tánh, hoàn toàn chẳng
phải thật có, nhưng nương theo thế tục, phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối
cao, chỉ vì các hữu tình mà tuyên thuyết các pháp, khiến cho hiểu biết chơn
chánh, xa lìa điên đảo. (Q. 391, ĐBN)
Cụ thọ Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật,
vì sức phương tiện thiện xảo làm thế nào có thể quán các pháp đều không có tự
tánh, hoàn toàn chẳng thật có, nhưng nương vào thế tục, phát tâm hướng đến quả
vị Giác ngộ tối cao, vì các hữu tình tuyên thuyết các pháp khiến được hiểu biết
chơn chánh, xa lìa điên đảo?
Phật dạy:
- Này Xá lợi Tử! Vì tất cả pháp hoàn toàn không thật có,
không có ngã, ngã sở, đều lấy vô tánh làm tự tánh, bản tánh vắng lặng, tự tướng
vắng lặng, chỉ có phàm phu ngu si mê lầm điên đảo, chấp trước sắc uẩn, chấp
trước thọ, tưởng, hành, thức uẩn; chấp trước xứ giới; chấp trước tứ thiền, tứ
vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp bất cộng;
chấp trước Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí;chấp trước tất
cả hạnh Bồ tát, chấp trước quả vị Giác ngộ tối cao; chấp trước phàm phu; chấp
trước Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ tát, Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác.
Do nhân duyên ấy, các đại Bồ tát quán tất cả pháp hoàn toàn
không thật có, không có ngã, ngã sở, đều lấy vô tánh làm tự tánh, bản tánh vắng
lặng, tự tướng vắng lặng, tu hành Bát nhã Ba la mật như huyễn sư, vì hữu tình
thuyết pháp, đối với người xan tham thì nói bố thí, khiến tu bố thí; hoặc người
phá giới thì nói tịnh giới, khiến tu tịnh giới; hoặc người sân hận thì nói an
nhẫn, khiến tu an nhẫn; hoặc người giải đãi thì nói tinh tấn, khiến tu tinh
tấn; hoặc người tán loạn thì nói tịnh lự, khiến tu tịnh lự; hoặc người ngu si
thì nói Bát Nhã, khiến tu Bát Nhã.
- Này Xá lợi Tử! Đại Bồ tát ấy, an lập hữu tình, khiến an trụ
bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã rồi, lại vì họ tuyên
thuyết Thánh pháp thù thắng có khả năng thoát khỏi sanh tử. Các loài hữu tình
nương vào đó mà tu học, hoặc đắc quả Dự lưu, hoặc đắc quả Nhất lai, Bất hoàn, A
la hán, hoặc Độc giác, hoặc Bồ tát, hoặc đắc quả vị Giác ngộ tối cao.
Bấy giờ, Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Tại sao đại Bồ tát là người chẳng có sở đắc,
tu hành Bát nhã Ba la mật mà có thể an trụ hữu tình trong sáu pháp Ba la mật,
khiến họ chứng đắc quả Dư lưu, Nhất lai, bất hoàn, A la hán, Bồ tát, Phật và có
thể thoát khỏi sanh tử?
Phật dạy:
- Này Xá lợi Tử! Các đại Bồ tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật,
đối với các hữu tình chẳng phải có sở đắc. Vì sao? Vì các đại Bồ tát ấy khi tu
hành Bát nhã Ba la mật, chẳng thấy thật có hữu tình nhỏ nào có thể nắm bắt
được, chỉ theo thế tục giả nói hữu tình.
Đại Bồ tát ấy, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, an trụ hai đế,
vì các hữu tình, tuyên thuyết Chánh pháp. Hai đế là gì? Đó là thế tục đế và
thắng nghĩa đế.
Trong hai đế, hữu tình chẳng thể nắm bắt được, sự an lập
hữu tình cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhưng các đại Bồ tát tu hành Bát nhã Ba
la mật, phương tiện thiện xảo, vì các hữu tình, tuyên thuyết pháp yếu. Các loài
hữu tình nghe pháp ấy rồi, ở trong hiện pháp còn chẳng đắc ngã, huống là đắc sở
cầu là quả chứng. (Q.392, ĐBN)
- Này Xá lợi Tử! Như thế, đại Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la
mật, phương tiện thiện xảo, tuy vì hữu tình tuyên thuyết Chánh pháp, khiến tu
chánh hạnh, đắc quả sở chứng, nhưng đối với họ, tâm hoàn toàn không có sở đắc.
(Đoạn này nói về vô sở đắc của Bồ tát. Các đoạn trước,
Kinh có nói “nếu muốn đắc thì không đắc, không hiện quán. Tu Bát Nhã như hư
không mà tu. Vì tất cả pháp đều vô sở hữu, bất khả đắc”. Thế giới của hữu tình
là thế giới của nắm bắt, được mất, có không…, một thế giới phân hai bất tận,
nên được gọi là thế giới Tục đế. Trái với thế giới này là thế giới tuyệt đối,
trong đó hoàn toàn tịch lặng, không có đối đãi… gọi là Thánh đế hay Đệ nhất
nghĩa đế. Bồ tát biết thế giới của chúng sanh là đa thù, phức tạp, nhưng Bồ tát
không phân biệt. Hạnh nguyện của các Ngài là phục vụ chúng sanh. Nơi nào có
khổ, nơi đó có Bồ tát. Vì vậy, Bồ tát tu hành Bát Nhã an trụ trên cả hai đế,
hoàn toàn không có sở đắc thì mới có thể tròn đầy hạnh nguyện).
Cụ thọ Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bồ tát, tuy đối với các pháp, chẳng đắc nhất
tánh, chẳng đắc dị tánh, chẳng đắc tổng tánh, chẳng đắc biệt tánh, nhưng mang
áo giáp đại công đức như thế; do mang áo giáp đại công đức như thế, nên chẳng
lưu chuyển cõi Dục, chẳng lưu chuyển cõi Sắc, chẳng lưu chuyển cõi Vô sắc,
chẳng lưu chuyển cõi hữu vi, chẳng lưu chuyển cõi vô vi. Tuy giáo hóa hữu tình
khiến thoát ba cõi nhưng đối với hữu tình hoàn toàn không có sở đắc, cũng lại
chẳng đắc sự an lập hữu tình. Vì sự an lập hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên
không bị câu thúc bởi nhiễm hay tịnh; vì không nhiễm không tịnh nên chẳng khá
rõ biết các thú sai khác; vì chẳng khá rõ biết các thú sai khác nên không
nghiệp, không phiền não; vì không nghiệp không phiền não nên cũng không bị quả
báo; đã không bị quả báo thì làm sao biết được có ngã và hữu tình lưu chuyển
các thú, hiện ở ba cõi, đủ các loại sai khác?
Phật dạy:
- Này Xá lợi Tử! Đúng vậy! Nếu loài hữu tình trước có, sau
không, thì Bồ tát, Như Lai có sự lầm lẫn; nếu sự sanh tử của các thú trước có
sau không, thì Bồ tát, Như Lai cũng có lầm lẫn; trước không, sau có, cũng như
vậy. Như Lai xuất thế, hoặc chẳng xuất thế, pháp tướng thường trụ không bao giờ
chuyển đổi. Vì tất cả pháp, pháp tánh, pháp giới, pháp định, pháp trụ, chơn
như, thật tế, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, giống như hư không.
Trong đó, còn không có ngã, không có hữu tình, không có dòng sanh mạng, không
có khả năng sanh khởi, không có sự dưỡng dục, không có sự trưởng thành v.v…,
không có cái biết, không có cái thấy, huống là có sắc, có thọ, tưởng, hành,
thức; có xứ giới, có các duyên khởi, có pháp duyên sanh, có các chi duyên khởi;
đã không có các pháp sở thuyết như thế, thì làm gì có các thú sanh tử; các thú
sanh tử đã chẳng thể nắm bắt được, thì làm gì có thành thục hữu tình, khiến họ
giải thoát, chỉ nương thế tục, giả nói.
Vì các pháp như thế, tự tánh đều không; các đại Bồ tát từ
Phật quá khứ đã nghe như thật rồi, vì cứu thoát hữu tình điên đảo chấp trước,
nên phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao. Khi phát tâm hướng đến mà cũng
chẳng nghĩ: Ta đối với pháp này sẽ đắc, khiến hữu tình kia sẽ được độ.
Đại Bồ tát ấy vì độ thoát hữu tình điên đảo chấp trước, nên
mang giáp mũ công đức, thệ nguyện rộng lớn trang nghiêm, dõng mãnh chánh cần,
không có đoái tiếc gì, chẳng lùi bỏ quả vị Giác ngộ, đối với Bồ đề thường chẳng
khởi do dự, sẽ chứng hay chẳng chứng. Luôn luôn nghĩ rằng: Chắc chắn ta sẽ
chứng sở cầu giác ngộ, làm lợi ích chân thật cho các hữu tình, đó là khiến họ
giải thoát mê lầm điên đảo, qua lại các thú chịu khổ sanh tử.
- Này Xá lợi Tử! Đại Bồ tát ấy tuy độ thoát hữu tình mê lầm
điên đảo sanh tử các thú, nhưng không có sở đắc, chỉ nương vào thế tục mà nói.
Như nhà ảo thuật hoặc đệ tử của y dùng thuật biến hóa làm vô lượng trăm ngàn ức
loài hữu tình, lại hóa đủ loại đồ ăn thức uống thượng diệu cho các hóa hữu tình
ấy ăn đều khiến no đủ; làm việc ấy rồi, mừng vui xướng lên, ta đã đạt được
phước đức to lớn.
Này Xá lợi Tử! Theo ý ông: Nhà ảo thuật ấy hoặc đệ tử của y
có thật khiến cho hữu tình được no đủ chăng?
Xá lợi Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!
Phật dạy:
- Này Xá lợi Tử! Đại Bồ tát cũng giống như thế, từ khi mới
phát tâm vì muốn độ thoát các hữu tình, nên tu hành bố thí Ba la mật, tu hành
tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã; an trụ mười tám pháp không, tu
hành ba mươi bảy pháp trợ đạo; an trụ tứ Thánh đế; tu hành bốn tịnh lự, tu hành
bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tu hành tám giải thoát, tu hành tám thắng xứ,
chín định thứ đệ, mười biến xứ; tu hành pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa;
tu hành tam giải thoát môn, tu hành Bồ tát thập địa; tu hành năm loại mắt, sáu
phép thần thông; tu hành Phật mười lực, tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu
biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng;
tu hành ba mươi hai tướng Đại sĩ, tu hành tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; tu hành
pháp không quên mất, tu hành tánh luôn luôn xả; tu hành Nhất thiết trí, Đạo
tướng trí, Nhất thiết tướng trí; viên mãn đạo Bồ đề, thành thục hữu tình,
nghiêm tịnh cõi Phật.
Này Xá lợi Tử! Các đại Bồ tát tuy làm việc như thế, nhưng đối
với hữu tình và tất cả pháp hoàn toàn không có sở đắc, cũng chẳng nghĩ: Ta dùng
pháp này điều phục các loại hữu tình như thế.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là đạo Bồ đề của đại Bồ tát mà
các đại Bồ tát tu hành đạo này, phương tiện thiện xảo, thành thục hữu tình,
nghiêm tịnh cõi Phật?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát từ khi sơ phát tâm đã tu
hành bố thí Ba la mật, đã hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã.
Đã hành tất cả các thiện pháp nói trên và vô lượng, vô biên các Phật pháp khác.
Đó là gọi đạo Bồ đề.
(Học đạo Bồ đề và dùng lục Ba la mật để thành thục hữu
tình).
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Tại sao đại Bồ tát hành đạo này thì có thể
thành thục hữu tình?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Bởi vì đại Bồ tát khi hành bố thí Ba la mật,
phương tiện thiện xảo, tự hành bố thí, cũng khuyên người hành bố thí, ân
cần dạy bảo trao truyền khuyên răn họ: Các thiện nam tử! Chớ chấp trước bố thí,
nếu chấp bố thí thì sẽ lại thọ thân, nếu lại thọ thân thì do đây mà lần lượt sẽ
thọ vô lượng khổ lớn. Trong thắng nghĩa đế, hoàn toàn không có bố thí, cũng
không có người bố thí, cũng không có người nhận, cũng không có vật bố thí, cũng
không có quả của bố thí. Các pháp như thế đều bản tánh không. Trong bản tánh
không, không có pháp có thể nắm bắt, tánh không của các pháp cũng chẳng thể nắm
bắt được.
Như vậy, các đại Bồ tát khi tu hành bố thí Ba la mật, tuy đối
với hữu tình, tự hành bố thí, cũng khuyên người bố thí, nhưng đối với bố thí,
người thí, kẻ thọ, vật thí, kết quả bố thí đều không sở đắc. Bố thí Ba la mật như
thế gọi là vô sở đắc Ba la mật. Đại Bồ tát ấy, khi đối với các pháp này
không có sở đắc, phương tiện thiện xảo, có thể giáo hóa hữu tình đắc quả Dự
lưu, quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, hoặc quả vị Độc giác, Bồ tát hay quả vị Giác
ngộ tối cao.
- Này Thiện Hiện! Như vậy, là các đại Bồ tát khi tu hành Bát
nhã Ba la mật, nương vào pháp bố thí, thành thục hữu tình, khiến được an lạc.
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát an trụ bố thí Ba la mật, tự
hành bố thí, khuyên các hữu tình hành bố thí rồi, thấy các hữu tình hủy phạm
tịnh giới, thương xót vô cùng, khuyên bảo nên thọ trì tịnh giới, ta sẽ
cúng dường, các ngươi cần đồ ăn thức uống, y phục, giường chiếu, phòng xá, xe
cộ, thuốc men cho đến các vật dụng cần thiết khác ta đều cung cấp đầy đủ. Các
ngươi do thiếu thốn vật chất nên hủy phạm tịnh giới, làm các việc ác. Ta sẽ tùy
theo nhu cầu mà cung cấp đủ. Các ngươi an trụ luật nghi giới rồi dần dần
có thể thoát vòng khổ não, hoặc nương vào Thanh văn thừa mà được xuất ly, hoặc
nương vào Độc giác thừa mà được xuất ly, hoặc nương vào Vô thượng thừa mà được
xuất ly.
Đại Bồ tát ấy, an trụ bố thí Ba la mật, tự thọ trì tịnh giới,
cũng khuyên người thọ trì tịnh giới, thẳng thắn xưng dương pháp thọ trì tịnh
giới, hoan hỷ tán thán người thọ trì tịnh giới.
- Này Thiện Hiện! Như vậy, Đại Bồ tát tu hành bố thí Ba la
mật, khuyên các hữu tình an trụ tịnh giới giải thoát sanh tử, được lợi lạc thù
thắng.
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát an trụ bố thí Ba la mật,
thấy các hữu tình sân hận nhau nên sanh lòng thương xót mà khuyên bảo họ: Vì
duyên cớ gì mà các ngươi sân hận? Các ngươi nếu do thiếu thốn mà tạo nên ác
nghiệp thì sẽ giúp cho, cần ăn uống, y phục, phòng xá, xe cộ, thuốc thang, đèn
sáng và các thứ cần yếu khác, ta đều cấp cho, khiến không thiếu thốn. Các ngươi
chẳng nên sân hận nhau mà nên tu an nhẫn. Đại Bồ tát ấy, an trụ bố thí Ba
la mật, khuyên các hữu tình tu an nhẫn rồi, lại bảo họ: Nhân duyên sân hận hoàn
toàn không chắc thật, đều do hư vọng phân biệt mà sanh, vì tất cả pháp bản tánh
không, nên các ngươi vì cớ gì mà đối với cái không thật có, vọng khởi sân hận,
nhục mạ, tàn hại nhau. Các ngươi chớ dựa vào sự phân biệt hư vọng mà phát sanh
giận dữ, tạo các ác nghiệp, sẽ đọa vào địa ngục, bàng sanh, quỷ giới… chịu các
khổ kịch liệt. Các ngươi chớ chấp vào cái chẳng phải thật có, vọng khởi sân
hận, mà tạo nghiệp. Do nghiệp tội này, nên mất thân. Các ngươi nên biết, thân
người khó được, đời có Phật khó gặp, sanh lòng tin lại càng khó hơn, chớ vì sân
hận mà để mất cơ hội tốt. Nếu mất cơ hội này thì khó cứu chữa. Vì vậy, các
ngươi đối với các hữu tình chớ khởi sân hận, nên tu an nhẫn.
Đại Bồ tát ấy, an trụ bố thí Ba la mật, tự hành an nhẫn, cũng
khuyên người hành an nhẫn, thẳng thắn tán dương pháp hành an nhẫn, hoan hỷ khen
ngợi người hành an nhẫn.
- Này Thiện Hiện! Như vậy, các đại Bồ tát an trụ bố thí,
khuyên các hữu tình tu hành an nhẫn. Các loài hữu tình do đó, lần lượt nương
vào ba thừa mà được giải thoát.
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát an trụ bố thí Ba la mật,
thấy các hữu tình thân tâm giải đãi, sanh lòng thương xót, khuyên bảo họ: Các
ngươi vì duyên cớ gì chẳng siêng năng tinh tấn tu hành các thiện pháp mà
sanh giải đãi? Nếu họ đáp vì thiếu thốn vật chất, tảo tần kiếm sống, nên không
có thời giờ tu tập. Bồ tát có thể cung cấp vật chất đầy đủ để họ có thể yên tâm
chuyên tu pháp bố thí, tịnh giới, an nhẫn v.v... Khi ấy, các hữu tình phát khởi
tinh tấn, tu các thiện pháp mau được viên mãn. Do tu các thiện pháp được viên
mãn nên dần dần phát sanh các pháp vô lậu; do các pháp vô lậu, hoặc đắc quả Dự
lưu, hoặc đắc quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, hoặc đắc quả vị Độc giác, hoặc
hướng nhập các bậc Bồ tát, dần dần chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao.
Đại Bồ tát ấy, an trụ bố thí, tự hành tinh tấn, cũng khuyên
người hành tinh tấn, thẳng thắn tán dương pháp hành tinh tấn, hoan hỷ ngợi khen
người hành tinh tấn.
- Này Thiện Hiện! Như thế, các đại Bồ tát an trụ bố thí Ba la
mật, khiến các hữu tình xa lìa giải đãi, siêng tu các thiện pháp, mau được giải
thoát.
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát an trụ bố thí Ba la mật,
thấy các hữu tình tán loạn thất niệm, thương xót khuyên bảo họ: Các ngươi vì cớ
gì mà chẳng tu tịnh lự, tán loạn thất niệm, trầm luân sanh tử? Nếu họ vì
thiếu thốn nên chẳng có thể tu tập. Bồ tát có thể cung cấp các vật dụng cần
thiết, và khuyên bảo: Các ngươi từ nay chẳng nên khởi lại tầm tứ hư vọng phan
duyên trong ngoài làm nhiễu loạn tự tâm. Khi ấy, các hữu tình được vật dụng,
không còn thiếu thốn, có thể chế phục đoạn trừ hư vọng, nhập các thiền; nương
vào các thiền có thể phát khởi từ, bi, hỷ, xả; lại dần dần có thể nhập bốn định
vô sắc; do định này thành đạt nên có thể tu ba mươi bảy pháp trợ đạo, pháp môn
giải thoát không, vô tướng, vô nguyện v.v... các thứ thiện pháp khác, và tùy
theo căn cơ có thể đắc quả tam thừa, đó là hoặc chứng đắc Niết bàn Thanh văn,
hoặc chứng đắc Niết bàn Độc giác, hoặc chứng quả vị Giác ngộ tối cao.
Đại Bồ tát ấy, an trụ bố thí Ba la mật, tự tu thiền định,
cũng khuyên người tu thiền định, thẳng thắn tán dương pháp thiền định, hoan hỷ
khen ngợi người tu thiền định.
- Này Thiện Hiện! Như vậy, các đại Bồ tát an trụ bố thí Ba la
mật, khuyên các hữu tình xa lìa tán loạn, tu các định, làm lợi ích lớn.
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát an trụ bố thí Ba la mật,
thấy các hữu tình ngu si điên đảo, thương xót khuyên các hữu tình tu Bát Nhã.
Nếu họ thật sự thiếu thốn vật chất, chẳng có thể tu tập trí tuệ thù thắng, Bồ tát
có thể cung ứng vật chất đầy đủ để họ có thể tu: Trước hết tu bố thí, tịnh
giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự được viên mãn rồi, nên quán sát kỹ thật tướng
các pháp, tu hành Bát nhã Ba la mật, nghĩa là khi ấy, nên quán sát kỹ là có
pháp nhỏ nào có thể nắm bắt được chăng? Đó là hoặc ngã, hoặc hữu tình, dòng
sanh mạng, khả năng sanh khởi, sự dưỡng dục, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi,
ý sanh, nho đồng… cái biết cái thấy có thể nắm bắt được chăng? Hoặc sắc, hoặc
thọ, tưởng, hành, thức có thể nắm bắt được chăng? Hoặc 12 xứ, 18 giới có thể
nắm bắt được chăng? Hoặc tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 37 pháp trợ
đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí, hoặc Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí
có thể nắm bắt được chăng? Hoặc quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, Bất hoàn, A la
hán, quả vị Độc giác có thể nắm bắt được chăng? Hoặc tất cả hạnh Bồ tát, hoặc
quả vị Giác ngộ tối cao có thể nắm bắt được chăng?
Các hữu tình ấy đã được vật dụng rồi không còn thiếu thốn
nữa, nương vào sự khuyên bảo của Bồ tát, trước hết tu bố thí, tịnh giới, an
nhẫn, tinh tấn, tịnh lự được viên mãn rồi, lại quán sát kỹ thật tướng các pháp,
tu hành Bát nhã Ba la mật. Khi quán sát kỹ thật tánh của các pháp đều chẳng thể
nắm bắt được; vì chẳng thể nắm bắt được nên không chấp trước; vì không chấp trước
nên chẳng thấy có pháp nhỏ nào có sanh, có diệt, có nhiễm, có tịnh. Khi họ đối
với các pháp không có sở đắc, thì đối với tất cả xứ chẳng khởi phân biệt, nghĩa
là chẳng phân biệt đây là địa ngục, đây là bàng sanh, đây là quỷ giới, đây là A
tu la, đây là người, đây là trời, đây là trì giới, đây là phạm giới, đây là
phàm phu, là Thánh giả, đây là Thanh văn, đây là Độc giác, đây là Bồ tát, đây
là Như Lai, đây là pháp hữu vi, là pháp vô vi. Vì không phân biệt như thế, nên
tùy theo căn cơ, họ dần dần chứng đắc Niết bàn ba thừa.
Đại Bồ tát ấy, an trụ bố thí Ba la mật, tự tu Bát Nhã, cũng
khuyên người tu Bát Nhã, thẳng thắn tán dương pháp tu Bát Nhã, hoan hỷ khen
ngợi người tu Bát Nhã.
- Này Thiện Hiện! Như vậy, các đại Bồ tát an trụ bố thí Ba la
mật, khuyên các hữu tình tu hành Bát Nhã, khiến đạt được lợi ích an lạc thù
thắng.
(Đó là lược tóm Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật, an
trụ Bố thí Ba la mật tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự và Bát Nhã để
thành thục hữu tình. Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật, cũng an trụ Tịnh giới
Ba la mật tu bố thí, an nhẫn, tinh tấn, thiền định như trên. Bốn pháp Ba la
mật còn lại (phương tiện thiện xảo, nguyện, lực, trí Ba la mật) cũng như vậy.
Kết quả của việc tu tập, hành trì sáu pháp Ba la mật và tất cả các thiện pháp
gọi là đạo Bồ đề, Bồ tát đạo hay Bồ tát hạnh là dẫn đến Thánh trí tự giác,
nghĩa là tròn đầy quả vị Vô thượng Giác ngộ, rồi có thể thực thi các phương
tiện thiện xảo thành thục hữu tình và thanh tịnh cõi Phật).
Thích nghĩa:
(1). Đạo Bồ đề còn gọi là Bồ tát đạo hay Bồ tát hạnh: 1-
Bồ tát đạo. Sự tu hành của Bồ tát. Tức là con đường tu lục độ vạn hạnh, lợi
mình lợi người để thành tựu quả Phật. Bởi thế, đạo Bồ tát là nhân chính yếu để
thành Phật, và thành Phật là kết quả của đạo Bồ tát. Người muốn thành Phật, trước
hết phải tu đạo Bồ tát. (Xem Kinh Pháp hoa Q.1); 2- Bồ tát đạo. Chỉ cho
Phật giáo Đại thừa. Tức là giáo pháp trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sinh.
(Xem Kinh Quán đính Q.12)- Phật Quang tự điển.
Kinh Đại Bát Nhã giải thích Bồ tát đạo hay Bồ tát hạnh là
tất cả các thiện pháp, các pháp mầu Phật đạo, còn gọi là các diệu pháp, các
pháp cực kỳ hy hữu, tư lương Bồ đề Bồ tát... mà trong đó sáu pháp Ba la
mật giữ vai trò quan trọng hơn hết. Phẩm “Tam Tiệm Thứ”, phẩm “Vô Tướng Vô Đắc”,
Phẩm “Pháp Nghĩa Vô Tạp” đã lặp đi lặp lại nhiều lần về sáu pháp Ba la mật này
rồi. Bây giờ, phẩm “Thành Thục Hữu Tình” lại trùng tụng nữa. Nhưng chưa hết, để
kết thúc Kinh Đại Bát Nhã này từ Hội thứ XI đến hết Hội thứ XVI (pháp hội cuối
cùng), Kinh lại quản diễn sáu pháp Ba la mật này còn chi li hơn nữa. Điều đó có
nghĩa sáu pháp đáo bỉ ngạn này giữ một vai trò hết sức quan trọng trong việc
hành Bồ tát đạo để cứu độ chúng sanh, thành thục hữu tình, thanh tịnh Phật độ.
Lược
giải:
Xưa kia bậc được tôn sùng là “vạn thế sư biểu” (thầy của
muôn đời) là Khổng Tử, người chủ trương Tu, Tề, Trị, Bình, nghĩa là dạy người
lập thân, lập chí để trở thành một người thầy giỏi, một người cha tốt, một công
dân mẫu mực hay một đấng quân vương chân chính như cha mẹ dân, thì trước hết
phải tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Chủ trương này giữ được
giá trị lâu dài trong suốt dòng lịch sử lập quốc của Trung Hoa lẫn các quốc gia
lân cận cho đến thời cận đại. Khổng Tử sanh vào năm 551 trước Tây lịch và sanh
sau Phật, xứng đáng được xem là bậc thượng tôn trong thiên hạ. Nhưng Khổng Tử
chỉ chủ trương xây dựng trong một khuôn khổ hạn hẹp thuộc vấn đề lập chí cá
nhân nhiều hơn.
Còn Phật là bậc siêu xuất trong xã hội loài người được ca
tụng là 1- Như lai, 2- Ứng cúng, 3- Chính biến tri, 4- Minh
hạnh túc, 5- Thiện thệ, 6- Thế gian giải, 7- Vô thượng sĩ,
8- Điều ngự trượng phu, 9- Thiên nhân sư, 10- Phật Thế Tôn (Bạc
già phạm). Giáo lý của Thế Tôn dĩ nhiên không ai có thể sanh bằng, với chủ
trương hết sức rộng lớn trong việc tạo dựng một vũ trụ hạnh phúc và an lạc, mà
trong đó Từ Bi Hỷ Xả được xem như một tôn chỉ lớn. Nên cương lãnh của Đạo Phật
còn đi xa hơn nữa khi chủ trương phá ngã, diệt tội, thành thục hữu tình,
thanh tịnh quốc độ. Nghĩa là Phật không những muốn đào tạo một con người
hoàn hảo, mà lại còn muốn xây dựng chúng sanh và tất cả cõi nước trở thành nơi
thanh bình và an lạc nhất.
- Như thế nào là phá ngã? Bố thí là một trong những phương
tiên hữu hiệu nhất để phá ngã, vì phá bỏ tự kỷ, khước từ quyền tư hữu cá nhân.
Người tu Phật chỉ có tam y nhất bát. Áo rách cốt che thân, cơm hẫm để sống qua
ngày, đầu đội trời (đầu không đội nón), chân đạp đất (đi chân không), lấy thiểu
dục tri túc làm tôn chỉ sống, niệm niệm “cho mà chẳng lấy”.
- Như thế nào là diệt tội? Tự mình lấy giới làm hàng rào
ngăn chận tội lỗi từ ngoài vào, lấy thiền định ngăn chận tội lỗi phát suất từ
bên trong, cũng dạy người tinh tấn tu hành như vậy. Ngăn chận tội lỗi là phòng
bệnh, phòng nên không phải chữa, nên nói là diệt, diệt ở đây chẳng phải diệt,
nhậm vận mà tự diệt.
- Thế nào là thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ?
Thượng cầu giác ngộ, hạ hóa chúng sanh là tu Bồ tát đạo. Nghĩa là trên cầu giác
ngộ để có trí tuệ soi sáng, lăn bánh xe pháp đem lại phúc lạc cho toàn thể
chúng sanh. Đem lại lợi ích phúc lạc cho toàn thể chúng sanh đó là kết quả của
việc thành thục hữu tình, nghiêm tịnh Phật độ vậy.
Cứ theo các pháp Phật như thế, tinh tấn tu hành cũng dạy
người khác tu hành. Một người như thế, trăm người như thế, vạn người như thế…
ngày ngày công phu, sống trong tỉnh thức lâu ngày đường mê đảo ngược mà được
tự tại, thiên hạ thái bình chẳng khác sống dưới thời Nghiêu Thuấn thuở xưa.
Nên Kinh bảo “Kết quả của việc tu tập và hành trì sáu
pháp Ba la mật và tất cả các thiện pháp còn gọi là đạo Bồ đề, là dẫn đến
Thánh giáo tự giác, nghĩa là tròn đầy quả vị Vô thượng Giác ngộ, rồi có thể
thực thi các phương tiện thiện xảo thành thục hữu tình và nghiêm tịnh cõi Phật”.
---o0o---