PHẨM “CÁC PHÁP BÌNH ĐẲNG”
Phần cuối quyển 383 cho đến phần đầu
quyển 386, Hội thứ I, ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Thiện Đạt”,
phần cuối quyển thứ 27, MHBNBLMĐ)
Gợi ý:
Phẩm này chỉ nối tiếp phẩm trước là
sau khi học các pháp công đức còn gọi là diệu pháp, các pháp hy hữu, các pháp
mầu Phật đạo... thì làm sao có thể tiếp tục học vô lượng vô biên các pháp môn
Phật học khác, để “hoàn toàn đạt được thật tướng của tất cả pháp” xuyên
qua mạn lưới sai biệt trùng điệp của những thiên sai vạn biệt phủ kín đôi mắt
trần của thế gian.
Tóm lược:
(Tất cả pháp không có sở hành)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Làm sao đại Bồ tát
khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, đối với tất cả pháp hoàn toàn đạt được
thật tướng(1)?
Phật
dạy:
- Này Thiện Hiện! Thí như hóa Phật
mà Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hoá ra chẳng hành tham, chẳng hành sân, chẳng
hành si; chẳng hành sắc, cũng chẳng hành thọ tưởng hành thức; chẳng hành mười
hai xứ, mười tám giới; chẳng hành tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba
mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến chẳng
hành quả vị Giác ngộ tối cao; chẳng hành pháp thế gian, cũng chẳng hành pháp
xuất thế gian; chẳng hành pháp hữu lậu, cũng chẳng hành pháp vô lậu; chẳng hành
pháp hữu vi, cũng chẳng hành pháp vô vi; chẳng hành đạo, cũng chẳng hành đạo
quả.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát khi hành Bát
Nhã thậm thâm, cũng giống như thế: Đối với tất cả pháp, hoàn toàn không có
sở hành. Đấy là khéo đạt thật tướng các pháp, nghĩa là đối pháp tánh không sở
phân biệt.
(Cụm từ không hành và không
sở hành là một cụm từ có vẻ ngược đời và hơi lạ tai đối với người thường
tục như chúng ta nhưng lại thường xuyên được nhắc nhở trong Kinh điển hệ Bát
Nhã. Một khi thông hiểu các pháp rồi thì phải áp dụng vào đời sống. Sự áp dụng
đó gọi là hành. Phẩm “Tam Tiệm Thứ”, Kinh dạy gì? Phải làm việc theo thứ bậc,
phải tu theo thứ bậc, phải hành theo thứ bậc. Trong các đoạn Kinh khác
cũng nói: Phải hành, phải dẫn và phải tu. Nhưng tại sao chỗ này Kinh bảo là
không hành? Không hành sắc, không hành thọ tưởng hành thức, không hành 12 xứ,
18 giới, không hành tất cả pháp kể cả pháp Phật. Vì một khi hành thì thường
hành theo sở duyên, nghĩa là hành có nắm bắt, buông bỏ... , hành theo tốt xấu,
thương ghét, nhiễm tịnh... Một khi bị lôi cuốn vào sở duyên thì tâm không còn
cái bản nguyên thanh tịnh của thuở ban đầu nữa, và cũng từ đó tâm theo khách
trần mà lưu chuyển. Vì vậy, Kinh thường khuyên là không hành. Không hành làm
sao đắc Bồ tát hạnh, làm sao thành thục hữu tình, làm sao thanh tịnh Phật độ đạt
Giác ngộ, chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề hay đắc Nhất thiết trí trí. Hành vẫn
hành, không ai có thể cấm đoán nếu không phân biệt, chấp đắm).
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Tại sao đại Bồ tát
khi hành Bát Nhã thông đạt các pháp đều không thật có? Tất cả pháp đều
là huyễn hóa? Ngũ uẩn huyễn hóa? Mười hai xứ, mười tám giới huyễn hóa? Tứ
thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp bất
cộng, Nhất thiết trí... cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cũng huyễn hóa? Như thế
cho đến tất cả pháp thế gian, pháp xuất thế gian, tất cả pháp hữu lậu, pháp vô
lậu,tất cả pháp hữu vi, pháp vô vi cũng đều như huyễn hóa?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như
lời ông nói, tất cả pháp đều như hóa! Không những vậy, tất cả pháp cũng như
mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như ảo
thành. Nhưng chúng sanh không tự biết, khởi tưởng phân biệt chấp trước điên
đảo, nên bị lưu chuyển. Đại Bồ Tát vì vậy, phải chịu khổ nhọc trải bao số kiếp
vì cứu độ chúng sanh, tu Bồ Tát đạo, hành sáu Ba la mật, nghiêm tịnh cõi Phật,
thành thục hữu tình.
Chúng sanh chỉ an trụ trong danh
tướng, hư vọng, ức tưởng, phân biệt, các đại Bồ tát hành Bát Nhã từ chỗ
danh tướng hư vọng phân biệt ấy, cứu vớt khiến được giải thoát.
(Thế nào là Danh và Tướng?)
Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nhưng cái gì gọi là danh?
Cái gì gọi là tướng?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Danh là
khách trần giả lập, đều do đặt tên, đây gọi là sắc, đây gọi là thọ, tưởng,
hành, thức; đây là nam, đây là nữ, đây là tiểu, đây là đại, đây là địa ngục,
đây là bàng sanh, đây là quỷ giới, đây là người, đây là trời; đây là pháp thế
gian, đây là pháp xuất thế gian, đây là Dự lưu, đây là Nhất lai, đây là Bất
hoàn, đây là A la hán, đây là Độc giác; đây là Bồ tát; đây là Phật v.v…
Tất cả danh xưng như thế đều là giả
lập, đặt ra để chỉ bày, chẳng phải thật có; các pháp hữu vi cũng chỉ có
danh, các pháp vô vi cũng chỉ có danh, chẳng phải thật có. Phàm phu ngu si ở
trong(danh)vọng chấp, đại Bồ tát khi hành Bát Nhã phương tiện thiện xảo
giáo hóa khiến xa lìa, nên nói: Danh là phân biệt, do vọng tưởng sanh khởi,
chỉ do các duyên hòa hợp giả có, chẳng nên chấp trước; danh không thật có, tự
tánh đều không.
Đó là đại Bồ tát khi hành Bát Nhã
phương tiện thiện xảo, vì chúng hữu tình, thuyết pháp lìa danh.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch
Phật:
- Này Thiện Hiện! Đó gọi là danh.
Còn cái gì gọi là tướng?
- Này Thiện Hiện! Tướng có hai thứ:
Một là sắc tướng, hai là vô sắc tướng.
Cái gì có hình thể, màu sắc hoặc thô
hoặc tế, hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc đen trắng, xấu đẹp, ngon dở… mà mắt có thể
thấy, tay có thể xúc chạm, lưỡi có thể nếm v.v… thì gọi là sắc tướng.
Cái gì không thấy được, không có
hình dáng màu sắc thì gọi là vô sắc tướng như âm thanh, mùi vị… Đại Bồ
tát khi hành Bát Nhã phương tiện thiện xảo, giáo hóa các hữu tình xa lìa hai
tướng, lại giáo hóa an trụ trong cảnh giới vô tướng; tuy giáo hóa an trụ
trong cảnh giới vô tướng, nhưng chẳng khiến họ rơi vào chấp nhị biên: Tướng, vô
tướng.
Đó là đại Bồ tát khi hành Bát Nhã
phương tiện thiện xảo, khiến các hữu tình, xa lìa các tướng, an trụ cảnh giới
vô tướng nên chẳng chấp trước.
(Lấy vô tướng làm phương tiện mà tu Bát
Nhã)
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp chỉ
là những danh tướng giả lập, do phân biệt sanh khởi, không có thật tánh thì làm
sao các đại Bồ tát khi hành Bát Nhã đối với các thiện pháp có thể tự mình thăng
tiến và có thể làm cho người khác thăng tiến được?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu các pháp có
chút thật, chẳng phải giả lập danh tướng, thì đại Bồ tát khi hành Bát Nhã đối
với các thiện pháp, chẳng tự thăng tiến, cũng chẳng làm cho người khác thăng
tiến được. Vì các pháp không có chút thật, chỉ giả lập các danh và tướng, vì
vậy, đại Bồ tát khi hành Bát Nhã lấy vô tướng làm phương tiện, có thể viên mãn Bát
nhã Ba la mật, lấy vô tướng làm phương tiện có thể viên mãn tịnh lự, tinh
tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí; lấy vô tướng làm phương tiện có thể viên mãn
tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất
thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; lấy vô tướng làm phương tiện,
đối với các thiện pháp tự viên mãn rồi, cũng có thể khiến người khác viên mãn
thiện pháp.
Này Thiện Hiện! Như thế, vì tất
cả pháp không có chút thật, chỉ giả lập các danh và tướng. Các đại Bồ tát đối
với chúng, chẳng khởi điên đảo chấp trước, thì đối với các thiện pháp, có thể
tự thăng tiến, cũng có thể khiến người khác thăng tiến.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các pháp có
tướng chân thật dầu chỉ bằng đầu sợi lông, thì đại Bồ tát khi hành Bát Nhã đối
với tất cả pháp đâu biết tất cả pháp đều vô tướng, vô niệm, vô tác ý mà có thể
chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, an lập hữu tình ở pháp vô lậu. Vì sao? Vì
tất cả pháp không thật có, nên đại Bồ tát mới biết rõ các pháp vô lậu đều vô
tướng, vô niệm, vô tác ý.
Này Thiện Hiện! Như thế, Đại Bồ tát
khi hành Bát Nhã thậm thâm, an lập hữu tình ở pháp vô lậu, mới nói là lợi tha
chơn thật.
Pháp Thanh văn, pháp Duyên giác, Bồ
tát, Như Lai cùng với pháp tánh vô lậu, vô tướng… không khác nhau; các pháp thế
gian cùng với pháp tánh vô lậu, vô tướng… cũng không khác nhau. Tất cả pháp
chính là pháp tánh vô lậu, vô tướng, vô niệm, vô tác ý. Do nhân duyên này, nên
biết tất cả pháp đều là vô tướng, vô niệm, vô tác ý.
Đại Bồ tát khi học tất cả pháp đều
là vô tướng, vô niệm, vô tác ý có thể tăng ích sở hành các thiện pháp. Đó là
lục Ba la mật, hoặc tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, 18
pháp bất cộng… Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Tất cả các
Phật pháp như thế đều do học vô tướng, vô niệm, vô tác ý mà được tăng ích. Vì
sao? Vì đại Bồ tát, trừ pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện không
có pháp môn quan trọng nào khác cần phải học. Vì ba pháp môn giải thoát có thể
thu nhiếp tất cả pháp diệu thiện. Pháp môn giải thoát không quán tất cả pháp tự
tướng đều không; pháp môn giải thoát vô tướng quán tất cả pháp xa lìa các
tướng; pháp môn giải thoát vô nguyện quán tất cả pháp xa lìa sở nguyện. Ba pháp
môn này có thể thu nhiếp tất cả thiện pháp thù thắng, lìa ba pháp môn này các
thiện pháp chẳng thể sanh trưởng được.
Nếu đại Bồ tát có thể học ba pháp
môn giải thoát như thế, thì có thể học năm uẩn, cũng có thể học mười hai xứ
cũng có thể học mười tám giới, cũng có thể học sáu giới(2); cũng có thể học bốn
Thánh đế, cũng có thể học bốn duyên; cũng có thể học các pháp từ duyên sanh ra;
cũng có thể học mười hai duyên khởi; cũng có thể học 18 pháp không; cũng có thể
học chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác,
bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không,
cảnh giới bất tư nghì; cũng có thể học mười pháp Ba la mật; cũng có thể học Bồ
tát thập địa; cũng có thể học 37 pháp trợ đạo; cũng có thể học bốn tịnh lự, bốn
vô lượng, bốn định vô sắc; cũng có thể học tám giải thoát, tám thắng xứ, chín
định thứ đệ, mười biến xứ; cũng có thể học tất cả pháp môn Đà la ni, tất cả
pháp môn Tam ma địa; cũng có thể học năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng có
thể học Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ,
đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng có thể học pháp không
quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng có thể học Nhất thiết trí, Đạo tướng trí,
Nhất thiết tướng trí; cũng có thể học nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu
tình; cũng có thể học vô lượng vô biên các Phật pháp khác.
(Phải như thật biết tất cả pháp Phật
như thế nào?)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát hành Bát
Nhã có thể học tướng ngũ ấm như thế nào?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát hành Bát
Nhã như thật biết sắc, như thật biết thọ, tưởng, hành, thức là có thể học tướng
năm uẩn.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát khi tu
hành Bát Nhã như thật biết sắc như thế nào?
Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát như
thật biết tướng của sắc, như thật biết sự sanh của sắc, như thật biết sự diệt
của sắc, như thật biết sắc như thì gọi là như thật biết sắc.
- Này Thiện Hiện! Thế nào là biết
tướng của sắc?
Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát như thật
biết sắc rốt ráo có lỗ hổng, rốt ráo có chỗ hở, giống như bọt nước, tánh chẳng
bền chắc thì đó gọi là như thật biết tướng của sắc.
- Này Thiện Hiện! Thế nào là biết
sắc sanh diệt?
Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát như
thật biết sắc không từ đâu đến, không đi về đâu; tuy không đến, không đi nhưng
tương ưng với pháp sanh, thì đó gọi là như thật biết sự sanh của sắc. Đại Bồ
tát như thật biết sắc không từ đâu đến, không đi về đâu; tuy không đến, không
đi, nhưng tương ưng với pháp diệt, thì đó gọi là như thật biết sự diệt của sắc.
- Này Thiện Hiện! Thế nào là biết
sắc như?
Này Thiện Hiện! Như thật biết sắc
như ấy không sanh, không diệt, không đến, không đi, không tăng, không giảm,
không cấu, không tịnh. Như đó là nói như thật chẳng hư. Như đó trước sau và
chặng giữa cũng vậy, thường chẳng đổi khác. Đó là biết sắc như.
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát khi tu
hành Bát Nhã như thật biết thọ như thế nào?
Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi
tu hành Bát Nhã như thật biết tướng thọ, như thật biết sự sanh diệt của
thọ, như thật biết thọ như, thì gọi là như thật biết thọ.Đại Bồ tát như thật
biết thọ rốt ráo như ung nhọt, rốt ráo như mũi tên, giống như bọt nổi, hư ngụy
chẳng trụ, chóng khởi chóng diệt, thì đó gọi là như thật biết tướng của
thọ. Đại Bồ tát như thật biết thọ không từ đâu lại, đi không chỗ đến. Đó là
biết thọ sanh diệt. Như thật biết thọ như ấy không sanh, không diệt,
không đến, không đi, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, tánh của
nó thường như, chẳng hư vọng, chẳng đổi khác. Đó là biết thọ như.
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát khi tu
hành Bát Nhã như thật biết tưởng như thế nào?
Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi
tu hành Bát Nhã, như thật biết tướng của tưởng, như thật biết sự sanh
diệt của tưởng, như thật biết tưởng như, thì như vậy là như thật biết tưởng. Như
thật biết tưởng giống như sóng nắng, chẳng thể nắm bắt được, do hư vọng khát ái
mà khởi tưởng ấy, giả bày đặt có, giả phát ra lời nói, thì đó gọi là như
thật biết tướng của tưởng. Tướng ấy không từ đâu lại, đi không chỗ đến. Đó là
biết tưởng sanh diệt.Như thật biết tưởng nhưkhông sanh, không diệt,
không đến, không đi, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, tánh của
nó thường như, chẳng hư vọng, chẳng đổi khác. Đó là biết tưởng như.
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát khi tu
hành Bát Nhã như thật biết hành như thế nào?
Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi
tu hành Bát Nhã như thật biết tướng của hành, như thật biết sự sanh diệt
của hành, như thật biết hành như thì như vậy là như thật biết hành.Như thật
biết về hành như cây chuối lột bỏ từng bẹ thì không còn gì cả. Minh, vô
minh đều do các duyên tạo thành, nghiệp phiền não đều do các duyên tạo thành
giả lập, thì đó gọi là như thật biết tướng của hành.Các hành sanh khởi không từ
đâu lại, đi không chỗ đến. Đó là biết hành sanh diệt. Hành như ấy không
sanh, không diệt, không đến, không đi, không nhiễm, không tịnh, không tăng,
không giảm, tánh của nó thường như, chẳng hư vọng, chẳng đổi khác. Đó là biết
hành như.
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát khi tu
hành Bát Nhã như thật biết thức như thế nào?
Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi
tu hành Bát Nhã như thật biết tướng của thức, như thật biết sự sanh diệt của
thức, như thật biết thức như thì như vậy gọi là như thật biết thức. Như thật
biết thức giống như trò huyễn, do các duyên hòa hợp, giả an lập là có, thật
chẳng thể nắm bắt được, giống như nhà ảo thuật hoặc đệ tử của ông, ở ngã tư
đường, biến hóa làm bốn loại quân lính, đó là quân voi, quân ngựa, quân xe,
quân bộ; hoặc lại biến hóa làm các hình sắc khác, tướng tuy như có, nhưng kỳ
thực là không. Thức cũng như thế, thật chẳng thể nắm bắt được, thì đó gọi là
như thật biết tướng của thức. Thức ấy lúc phát sanh không từ đâu lại, lúc diệt
không chỗ đến. Đó là biết thức sanh diệt.Thức như ấy không sanh, không
diệt, không đến, không đi, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm,
tánh của nó thường như, chẳng hư vọng, chẳng đổi khác. Đó là biết thức như.
Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát
khi tu hành Bát nhã Ba la mật, như thật biết sắc và tự tánh của sắc là không,
như thật biết thọ và tự tánh của thọ là không, như thật biết tưởng, hành, thức
và tự tánh của tưởng, hành, thức là không, thì đó là đại Bồ tát khi hành Bát
nhã Ba la mật, có thể học năm uẩn.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát hành Bát
Nhã có thể học mười hai xứ như thế nào?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Mười hai xứ là gồm
lục căn( nội xứ: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) và lục trần (ngoại xứ:
Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Đại Bồ tát tu hành Bát Nhã như thật biết
nội xứ không và không tự tánh; biết ngoại xứ cũng không và không có tự tánh,
thì đại Bồ tát có thể học mười hai xứ.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát khi tu
hành Bát Nhã có thể học 18 giới như thế nào?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Mười tám giới gồm
lục căn, lục trần, lục thức. Đại Bồ tát như thật biết lục căn không và không tự
tánh; lục trần cũng không và không tự tánh; lục thức cũng không và không tự
tánh, thì đại Bồ tát có thể học mười tám giới.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát, khi tu
hành Bát Nhã có thể học sáu giới(lục đại chủng)như thế nào?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi
tu hành Bát Nhã, như thật biết địa giới và tự tánh của địa giới là không, như
thật biết thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tự tánh của chúng là không, thì
đó là đại Bồ tát có thể học sáu giới.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát khi tu
hành Bát Nhã, có thể học bốn Thánh đế như thế nào?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi
tu hành Bát Nhã, như thật biết Thánh đế khổ, như thật biết Thánh đế tập, diệt,
đạo, thì đại Bồ tát có thể học bốn Thánh đế.
Đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã, như
thật biết khổ là tướng bức bách, tự tánh vốn không, xa lìa hai pháp, là
sự thật của bậc Thánh: Khổ tức là Bồ đề, Bồ đề tức là khổ, không hai,
không khác, chỉ có bậc chân Thánh có thể biết như thật, thì đó gọi là như thật
biết Thánh đế khổ.
Như thật biết Thánh đế tập: như thật
biết tập là tướng sanh khởi, tự tánh vốn không; Thánh đế diệt: như thật biết
diệt là tướng tịch tịnh, tự tánh vốn không; Thánh đế đạo: như thật biết
đạo là tướng xuất ly, tự tánh vốn không. Nếu biết như vậy thì đại Bồ tát
khi tu hành Bát Nhã, có thể học bốn Thánh đế.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát khi tu
hành Bát Nhã, có thể học bốn duyên như thế nào?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi
tu hành Bát Nhã như thật biết nhân duyên, như thật biết đẳng vô gián duyên, sở
duyên duyên, tăng thượng duyên(3), thì đó gọi là có thể học bốn duyên.
Thiện Hiện! Thế nào là biết nhân
duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên?
Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi
tu hành Bát Nhã như thật biết nhân duyên là tướng chủng tử(4), tự tánh vốn
không, xa lìa hai pháp thì đó gọi là như thật biết nhân duyên. Nếu đại Bồ tát
khi tu hành Bát Nhã, như thật biết đẳng vô gián duyên là tướng khai phát, tự
tánh vốn không, xa lìa hai pháp, thì đó gọi là như thật biết đẳng vô gián
duyên. Nếu đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã, như thật biết sở duyên duyên là
tướng trụ trì, tự tánh vốn không, xa lìa hai pháp, thì đó gọi là như thật biết
sở duyên duyên. Nếu đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã, như thật biết tăng thượng
duyên là tướng chẳng ngại, tự tánh vốn không, xa lìa hai pháp, thì đó gọi là
như thật biết tăng thượng duyên.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát khi tu
hành Bát Nhã, có thể học các pháp từ duyên sanh ra như thế nào?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi
tu hành Bát Nhã, như thật biết tất cả pháp từ duyên sanh ra mà chẳng sanh chẳng
diệt, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng một chẳng khác, chẳng đến chẳng đi, dứt
các hý luận, bản tánh vắng lặng thì đại Bồ tát có thể học các pháp từ duyên
sanh ra.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát khi tu
hành Bát Nhã, có thể học mười hai duyên khởi như thế nào?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi
tu hành Bát Nhã, như thật biết vô minh là không sanh, không diệt, không
nhiễm, không tịnh, tự tánh vốn không, xa lìa hai pháp, như thật biết hành,
thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ,
ưu, não không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, tự tánh vốn không,
xa lìa hai pháp thì đại Bồ tát có thể học mười hai duyên khởi.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát khi tu
hành Bát Nhã, có thể học 18 pháp không như thế nào?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi
tu hành Bát Nhã, như thật biết pháp không nội chẳng có tự tánh, chẳng
thể nắm bắt được mà có thể an trụ; như thật biết pháp không ngoại cho đến pháp
không không tánh tự tánh chẳng có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể an
trụ thì đại Bồ tát có thể học 18 pháp không.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát khi tu
hành Bát Nhã, có thể học chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư
vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ,
thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì như thế nào?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi
tu hành Bát Nhã, như thật biết chơn như không hý luận, không phân biệt mà
có thể an trụ; như thật biết pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì không hý
luận, không phân biệt mà có thể an trụ, thì đại Bồ tát có thể học chơn như cho
đến cảnh giới bất tư nghì. (Q.384, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát khi tu
hành Bát Nhã, có thể học thập Ba la mật như thế nào?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi
tu hành Bát Nhã, như thật biết bố thí Ba la mật không tăng, không giảm,
không nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể
tu tập; như thật biết tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, phương
tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí Ba la mật không tăng, không giảm, không
nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập,
thì đại Bồ tát có thể học bố thí cho đến trí Ba la mật.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát khi tu
hành Bát Nhã, có thể học thập địa Bồ tát như thế nào?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi
tu hành Bát Nhã, như thật biết bậc Cực hỷ không tăng, không giảm, không
nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập;
như thật biết bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc
Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân không tăng,
không giảm, không nhiễm, không tịnh, không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được
mà có thể tu tập, thì đại Bồ tát có thể học thập địa Bồ tát.
(…). Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát khi tu
hành Bát Nhã, có thể học ba mươi bảy pháp trợ đạo? Có thể học bốn tịnh lự, bốn
vô lượng, bốn định vô sắc? Có thể học tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định
thứ đệ, mười biến xứ? Tất cả pháp môn Đà la ni, tất cả pháp môn Tam ma địa? Năm
loại mắt, sáu phép thần thông? Phật Mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu
biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng? Đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả?
Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả? Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất
thiết tướng trí? Nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình? Vô lượng, vô biên
các Phật pháp khác như thế nào?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi
tu hành Bát Nhã, như thật biết tất cả các pháp nói trên hoặc vô lượng vô biên
các Phật pháp khác không tăng, không giảm, không nhiễm, không tịnh, không có
tự tánh, chẳng thể nắm bắt được mà có thể tu tập, thì này Thiện Hiện! Đại
Bồ tát khi tu hành Bát Nhã, có thể học tất cả các pháp trên và vô lượng vô biên
các Phật pháp khác.
(Tất cả pháp là pháp giới. Tất cả
pháp đều nhập vào pháp giới:
Trong chân pháp giới không có phân
biệt)
Tất cả pháp là pháp giới. Tất cả
pháp đều nhập vào pháp giới. Như Lai dù có ra đời, hoặc chẳng ra đời, các pháp
vẫn như vậy, đều nhập pháp giới, không có tướng sai biệt, chẳng phải do Phật
thuyết. Vì sao? Vì tất cả pháp thiện hoặc pháp phi thiện, hoặc pháp hữu ký hoặc
pháp vô ký, hoặc pháp hữu lậu hoặc pháp vô lậu, hoặc pháp thế gian hoặc pháp
xuất thế gian, hoặc pháp hữu vi hoặc pháp vô vi, đều nhập pháp giới tánh
không, vô tướng, vô vi. Cho nên, đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã, muốn học pháp
giới, nên học tất cả pháp. Nếu học tất cả pháp tức là học pháp giới. Nếu phân
biệt pháp tức là phá hoại pháp. (Q.
385, ĐBN)
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều
nhập pháp giới, không hai, không khác, thì tại sao đại Bồ tát phải học pháp này
hay pháp khác? Phải học lục Ba la mật, học tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô
sắc, học 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất
thiết tướng trí? Cũng học đạo Bồ tát, quả vị Giác ngộ tối cao? Tại sao đại Bồ
tát phải học thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật? Học như thế rồi, đắc
Nhất thiết trí trí, biết tất cả pháp, tất cả chủng tướng?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Chẳng phải
trong pháp giới có các thứ phân biệt như thế. Đại Bồ tát không do các thứ
phân biệt này mà hành điên đảo, trong cái không hý luận, khởi các hý luận. Vì
sao? Vì trong chơn pháp giới hoàn toàn không có phân biệt hý luận.
Pháp giới chẳng phải sắc, cũng chẳng
lìa sắc; pháp giới chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng lìa thọ,
tưởng, hành, thức. Pháp giới tức là sắc, sắc tức là pháp giới; pháp giới tức là
thọ, tưởng, hành, thức; thọ, tưởng, hành, thức tức là pháp giới. Pháp giới
chẳng phải 12 xứ, cũng chẳng lìa 12 xứ; pháp giới tức là 12 xứ, 12 xứ
chính là pháp giới. Đối với 18 giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 37
pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí, quả vị Giác ngộ tối cao… cũng
lại như thế.
Trong chơn pháp giới không có tất cả
các thứ phân biệt hý luận.
Sắc chẳng phải pháp giới, cũng chẳng
lìa sắc riêng có pháp giới; thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải pháp giới, cũng
chẳng lìa thọ, tưởng, hành, thức riêng có pháp giới. Sắc tức là pháp giới, pháp
giới tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức tức là pháp giới, pháp giới tức là thọ,
tưởng, hành, thức v.v…
Như vậy có thể nói: Pháp thế gian
chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa pháp thế gian riêng có pháp giới; pháp
xuất thế gian chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa pháp xuất thế gian riêng có
pháp giới. Pháp thế gian tức là pháp giới, pháp giới tức là pháp thế gian, pháp
xuất thế gian tức là pháp giới, pháp giới tức là pháp xuất thế gian. (Q.386, ĐBN)
Nên Phật nói: “Đại Bồ tát tu hành Bát
nhã Ba la mật, nếu thấy có pháp lìa pháp giới thì người đó chẳng thể đạt sở cầu
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề!
Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát khi tu
hành Bát nhã Ba la mật biết tất cả pháp tức là pháp giới, dùng pháp không danh
tướng, phương tiện thiện xảo, vì các hữu tình mượn danh tướng mà nói: Đây là
sắc, đây là thọ, tưởng, hành, thức; đây là 12 xứ, 18 giới; đây là tứ thiền, tứ
vô lượng, tứ định vô sắc, 18 pháp bất cộng; đây là Nhất thiết trí, Đạo tướng
trí, Nhất thiết chủng trí; đây là Bồ tát đạo, đây là quả vị Giác ngộ tối cao.
Này Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật
hoặc đệ tử của ông ta, cầm một vật nhỏ, ở trước mọi người, biến thành các loại
hình sắc khác nhau, hoặc biến thành nam nữ hoặc voi, ngựa, trâu, bò, dê… hoặc
biến thành thành ấp, làng mạc, vườn tược, ao hồ, đủ các cảnh đẹp, hoặc hóa làm
y phục, thức ăn, thức uống, phòng xá, đồ nằm, hoặc hóa hiện cảnh giới của chư
Thiên, hoặc hóa hiện làm Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát phát tâm tu các Thánh
đạo v.v…
Này Thiện Hiện! Nhà ảo thuật, hoặc
đệ tử của y, vì dối gạt người khác, nên ở trước mặt mọi người, hóa làm các trò
huyễn hóa này, nhưng trong đám người những nam nữ lớn nhỏ vô trí thấy việc ấy
rồi, đều kinh ngạc khen ngợi. Trong khi người trí thấy việc này rồi, liền
nghĩ: Thật kỳ dị! Tại sao người này có thể hóa hiện được như vậy? Trong đó
không có gì là thật, có thể nắm bắt được, lại khiến cho mọi người mê lầm vui mừng.
Đối với sự vật không thật, khởi tưởng là vật có thật.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát cũng
giống như thế, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, tuy chẳng thấy có pháp nào lìa
chơn pháp giới, cũng chẳng thấy pháp giới lìa các pháp, cũng chẳng thấy có hữu
tình và sự an lập của chúng hữu tình thật sự có thể nắm bắt được, nhưng có thể
dùng các loại phương tiện thiện xảo, tự hành bố thí, cũng khuyên người hành bố
thí, hoan hỷ khen ngợi người hành bố thí; tự hành tịnh giới, cũng khuyên người
hành tịnh giới, hoan hỷ khen ngợi người hành tịnh giới…, cho đến tự hành Bát
Nhã, cũng khuyên người hành Bát Nhã, hoan hỷ khen ngợi người hành Bát Nhã; tự
thọ trì mười nghiệp thiện đạo, cũng khuyên người thọ trì mười nghiệp thiện đạo,
hoan hỷ khen ngợi người thọ trì mười nghiệp thiện đạo; tự thọ trì tất cả pháp
Phật nói chung, cũng khuyên người thọ trì tất cả pháp Phật, hoan hỷ khen ngợi
người thọ trì tất cả pháp Phật.
Này Thiện Hiện! Nếu chơn pháp giới,
khoảng trước, khoảng giữa, khoảng sau có sai khác thì đại Bồ tát khi tu hành Bát
Nhã, chẳng có thể dùng phương tiện thiện xảo, thuyết chơn pháp giới, thành thục
hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, tu Bồ tát hạnh, chứng đắc quả vị Giác ngộ tối
cao; vì chơn pháp giới, khoảng trước, khoảng giữa, khoảng sau thường không sai
khác. Cho nên, đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã có thể phương tiện thiện xảo thuyết
chơn pháp giới, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, tu Bồ tát hạnh,
chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. (Q.386, ĐBN)
Thích nghĩa:
(1). Thật tướng hay thực tướng: (實相) Phạm: Dharmatà bhùta-tathatà.
Vốn có nghĩa là bản thể, thực thể, chân tướng, bản tính...; từ đó được khai
triển để chỉ cho thể tướng chơn thực bất hư của tất cả muôn pháp, hoặc lý pháp
chân thực, lý bất biến, chơn như, pháp tính... Đây là nội dung giác ngộ của đức
Phật, hàm ý là chơn thực bản nhiên; tất cả danh từ: Nhất như, thực tính,
thực tế, chân tính, Niết bàn, vô vi, vô tướng... đều là tên khác của Thật tướng.
Vì hết thảy hiện tượng mà thế tục nhận biết đều là giả tướng, chỉ khi nào thoát
khỏi sự nhận biết của thế tục mới hiển bày được cái tướng trạng chơn thực
thường trụ bất biến của các pháp, cho nên gọi là Thực tướng. Cứ theo Kinh Đại
Bát Niết Bàn quyển 36 (bản Nam) và luận Đại Trí Độ quyển 32 thì tất cả tướng
sai biệt của các pháp(như tướng cứng của đất, tướng ướt của nước, tướng nóng
của lửa) đều là hư giả, tất cả đều có thể phá hoại; trái lại, Thực tướng mà trí
vô lậu chứng được thì lìa các tướng hư giả và bình đẳng nhất như. Nếu còn vọng
tâm thì không thể nào thấy được thực tướng. Trong các dịch phẩm của Ngài Cưu Ma
La Thập, Thực tướng cũng bao hàm ý nghĩa Không, từ Ngài Long Thọ về sau thì
Thực tướng được xem là nội dung Chân đế của Phật giáo. Còn thuyết Chư pháp thực
tướng là tiêu biểu(tức pháp ấn) của Phật giáo Đại thừa cũng chính là đối lại
với Tam pháp ấn(Vô thường, Vô ngã, Niết bàn) của Phật giáo Tiểu thừa mà được thành
lập và được gọi là Thực tướng ấn. Tướng trạng chơn thực của tất cả các pháp gọi
là Chư pháp thực tướng, tuy nội dung chư pháp thực tướng tùy theo các tông mà
có khác nhau, nhưng phán đoán theo lập trường của mỗi tông, bất cứ pháp nào hễ
được xem là tối hậu và rốt ráo thì đều dùng từ Thực tướng để biểu thị. Tướng
trạng của thực tướng thông thường cho rằng không thể dùng lời nói để diễn đạt,
hay tâm trí để suy lường được. Từ sự phát triển của lập trường này, đến tông
Thiên Thai thì lấy việc phát hiện ra tự ngã hoàn toàn nhất, gọi là Chư pháp
thực tướng, cũng tức là dứt bặt sự sai khác giữa bản chất(Lý) và hiện thực(Sự),
một thế giới trong đó tất cả các pháp hoàn toàn dung hợp, điều hòa, phàm phu
trong cõi mê cũng có khả năng thể hiện cảnh giới Phật giác ngộ cao siêu, nêu tỏ
tinh thần hiện tượng tức thực tại, sai biệt tức bình đẳng. Thiền tông cho
rằng Chư pháp thực tướng là sự hiện thành của Phật Tổ hoặc bản lai diện mục;
tông Tịnh độ thì lấy danh hiệu của Phật A di đà làm Thực tướng pháp; Mật tông
thì có thuyết Thanh tự thực tướng. Còn tông Nhật liên của Nhật bản thì giải
thích thực tướng là đề mục của Bản môn, dẫn thực tướng của chơn như đến hiện
thực, bàn về sự dung hợp tương tức của cả 2, đây chính là từ mặt lý luận mà nói
rõ thái độ khẳng định hiện thực của Phật giáo Đại thừa. [X. Trung luận Q.3; Đại
Bát Niết Bàn Kinh sớ Q.33; Chú Duy Ma Cật Kinh Q.3; Đại Nhật Kinh sớ Q.1; Vãng
Sinh Luận chú Q. hạ; Duy Ma Kinh nghĩa kí Q.4, phần cuối; Pháp Hoa Kinh văn cú
ký Q.4 trung]- Phật Quang tự điển. Đã có thích nghĩa rồi.
Nói gọn lại thật tướng: Bản thể
tuyệt đối (trái với hư vọng), là pháp thân (dhamakàya) hay chơn như
(bhùtatathatà) cũng có nghĩa là nhất như, nhất tướng chỗ gọi là vô tướng, là
Niết bàn, là chân không, là thật tế. Nó cũng là Bản thể Phật tánh cùng khắp
không gian thời gian. Các pháp như thế chẳng do ai tạo tác, chân thật bất hư,
nên gọi là Thật tướng.
(2). Sáu giới, từ giới có lẽ hơi “lạ
tai”. Giới ở đây không có nghĩa là sáu căn hợp với sáu trần và sáu thức thành
mười tám giới, giới đây cũng không có nghĩa là cảnh giới như 10 cảnh giới của
chúng sanh từ địa ngục đến Phật. Giới ở đây có nghĩa là chủng loại, ý nói là
“lục giới” hay còn gọi là lục đại chủng: Địa đại chủng (địa giới), thủy đại
chủng (thủy giới), phong đại chủng (phong giới), hỏa đại chủng (hỏa giới),
không đại chủng (không giới) và thức đại chủng (thức giới). Chúng ta sẽ còn gặp
từ “giới” này rất nhiều lần trong ĐBN.
(3). Nhân duyên, đẳng vô gián duyên,
sở duyên duyên, tăng thượng duyên: Giải thích của H.T. Thích thiện Hoa trong
Duy Thức Học (nhà xuất bản Tôn Giáo):
1- Nhân duyên (cái duyên thuộc về duyên): Tất cả các pháp, từ
chủng tử khởi ra hiện hành, hoặc từ hiện hành huân trở lại thành chủng tử, đều
do chủng tử làm nhân, rồi trực tiếp sanh ra quả. Như hạt giống bắp sanh ra cây
bắp, hạt giống đậu sanh ra đậu v.v… gọi hạt giống đó là “Nhân duyên”.
2- Đẳng vô gián duyên (cái duyên bình đẳng tương tục không gián
đọan). Đây là nói tám Thức hiện hành cùng với các Tâm sở, mỗi niệm sanh diệt
luôn luôn không gián đoạn. Hình trạng sanh diệt của nó: Khi niệm trước vừa
diệt, thì nó tránh đường để dẫn dắt niệm sau sanh ra. Vì sanh diệt tương tục
như vậy, trước sau bình đẳng, không có vật gì chen vào làm gián đoạn, nên gọi
là “Đẳng vô gián duyên”.
3- Sở duyên duyên (cái duyên thuộc về sở duyên). Nói tóm gọn là
mỗi Thức, khi kiến phần duyên qua tướng phần, thì gọi kiến phần là “năng
duyên”, tướng phần là “sở duyên”. Hiệp lại hai phần này, kêu là “sở duyên
duyên”. Nếu y theo sách vở Duy thức nói, thì vật gì có thật thể, như Tâm vương
và Tâm sở, nó cập hợp cái tướng phần của nó, có sở lự(bị phân biệt)và nơi
gá nương(sở thác)để phát sanh, mới gọi là “sở duyên duyên”.
Như Nhãn thức duyên (thấy) cái hoa giữa hư không; tuy có cập tướng phần
của hoa, như thế cũng gọi là có “sở lự”. Nhưng cái hoa giữa hư không không có
“thật thể”, nên không có chỗ gá nương để cho Nhãn thức phát sanh(không có sở
thác); cho nên có thể gọi là “duyên”mà không thể gọi là “Sở duyên”.
Trái lại, như cái gương chiếu cảnh vật, trong gương có bóng cảnh vật;
như thế là có cập cái “tướng phần” và cũng có thể gá nương nơi đó (tướng phần) phát
sanh phân biệt (có sở thác). Nhưng cái gương không phân biệt (duyên lự) nên
không thể phân biệt được vật gì cả. Bởi thế nên có thể gọi là “sở duyên”, mà
không thể gọi là “duyên”. Phải đủ hai nghĩa: 1. Bị phân biệt(sở lự) và 2.Nơi gá
nương (sở thác) mới kêu là “Sở duyên duyên”.
Nay nói một thí dụ để chỉ rõ “Sở duyên duyên”. Như cái bình hoa trên bàn
đây là vật có thật thể; khi Nhãn thức xem cái bình hoa, thì Tâm vương và Tâm sở
của Nhãn thức đều có cập cái bình hoa, như thế kêu là thấy bình hoa. Khi hình
tướng của bình hoa, nó làm chỗ cho Nhãn thức nương nơi đó mà phát sanh phân
biệt và cũng làm cái chỗ phân biệt (sở lự) của Nhãn thức; nên gọi cái bình hoa
này là “Sở duyên duyên”của Nhãn thức.
4- Tăng thượng duyên: Thường những pháp có thật thể, không thuộc
về ba duyên trước, thì thuộc về Tăng thượng duyên. Tăng thượng duyên là những
duyên phụ trợ thêm, có hai thứ:
- Thuận tăng thượng duyên: Như lúa mạ v.v… từ hạt giống của nó
sanh ra, lại nhờ phân, nước v.v… giúp thêm làm cho lúa mạ kia được tươi tốt,
thì phân nước đó là “thuận tăng thượng duyên” của lúa mạ.
- Nghịch tăng thượng duyên: Như nắng hạn nước khô, làm cho lúa mạ không
lớn nổi, thì nắng hạn nước khô là “nghịch tăng thượng duyên”của lúa mạ.
Lưu ý: Trong phẩm
"Học Quán", quyển 3 cho đến phần đầu quyển 4, Hội thứ I, ĐBN chúng
tôi có trích dẫn thích nghĩa bốn duyên theo Từ điển Phật Quang rồi. Tuy nhiên,
ở đây chúng tôi lại trích dẫn thích nghĩa bốn duyên theo Duy Thức Học một lần
nữa. Đây không phải là một việc làm thừa thãi, mà mục đích của chúng tôi giúp
quý vị nhìn vấn đề dưới nhiều khía cạnh khác nhau.
(4). Chủng tử: Nói nôm na là “hạt
giống” để duy trì thân căn và khí thế trong thời gian như hạt giống của ngũ
cốc: lúa, mè, đậu v.v... Nhờ hột giống này mà thực vật duy trì mãi trong thế
gian. Người ta gọi hột giống này là ngoại chủng. Theo Duy Thức học, cũng như
hạt giống của thực vật, hạt giống động vật cũng được gọi là chủng tử, chứa
trong A lại da thức gọi là nội chủng, có đủ khả năng sản sinh hết thảy mọi hiện
tượng. Chủng tử duy trì thân căn và khí thế của con người, được tàng trữ, huân
tập trong Tàng Nha thức(một từ khác của A lại da thức) có thể là thiện hay ác,
xấu hay tốt, hữu vi hay vô vi, hữu lậu hay vô lậu…, và trở thành hiện hành trong
kiếp này hay kiếp khác. Chủng tử có thể coi là một năng lượng, nói theo hiện
đại, đi theo thần thức của một người quá vãng, nhập vào thai nhi với tất cả quá
khứ xấu tốt, thiện ác... tiếp nối sự sống cho một cuộc du hành mới. Nghiệp quả
là kết quả của các chủng tử thiện ác, xấu tốt ấy. Đó là một lối giải thích tại
sao nghiệp quả lại có thể lưu hành từ đời này sang đời khác!
Lược giải:
1. Thật tướng:
Bắt đầu học Bát Nhã, chúng ta thấy
Phật nói về các pháp như thế nào? Các pháp là duyên hợp giả có, không thật,
không có tự tánh, lấy vô tánh làm tự tánh; hơn thế nữa Phật còn bảo các pháp
như huyễn, như hóa, như mộng... ; kế đến Phật bảo các pháp là như, là như như,
chúng như vậy là như vậy, chẳng lúc nào chẳng như; người có cái nhìn như vậy sẽ
chứng được chân như thật tướng của các pháp. Vì sao? Vì thấy các pháp như,
chứng được như tánh của vạn pháp nên tâm đạt được bình đẳng và chính cái bình
đẳng này đưa đến thanh tịnh. Ở chỗ tịch tĩnh(an nhiên tịch lặng, có nghĩa là an
lạc) này, không phải là không còn gì cả mà ở đây cánh cửa giác ngộ hé mở và chỉ
một sát na tương ưng với diệu huệ, thức biến thành trí, Bát Nhã liền hiện tiền.
Phẩm này Phật thuyết về cái thấy
bình đẳng đối với các pháp, nghĩa là trình bày cái thấy trong giờ phút chứng
ngộ qua một diễn trình trông như có thứ lớp như trên. Nhưng thật ra trong giờ
chứng ngộ khi ánh bình minh chiếu vào cội Bồ đề sau 48 ngày thiền định, Phật
đạt được tam minh, ngũ nhãn, lục thần thông và kết quả là chứng Bát Nhã Trí.
Trí này chỉ xuất hiện trải qua bao a tăng kỳ kiếp tu Bồ tát đạo, không phải chỉ
qua sự quán xét vạn hữu một cách giản dị theo một diễn trình nào cả.
Trọng tâm của phẩm này thật sự chỉ
là tóm tắt và đúc kết 400 quyển trong số 600 quyển Đại Bát Nhã của Hội thứ I:
Khi con người dùng cảm quan và ý thức soi rọi vật thể trần gian trên danh và
tướng thì không khỏi trở ngại là do phân biệt chấp trước. Phân biệt chấp trước
những gì? Chấp trước danh và tướng. Có chấp trước là có nghiêng ngã, thiên lệch
làm sao chứng tánh. Phật bảo: “Danh là phân biệt, do vọng tưởng
sanh khởi, chỉ do các duyên hòa hợp giả có, chẳng nên chấp trước; danh không
thật có, tự tánh đều không".(...)"Vì các pháp không có chút thật, chỉ
giả lập các danh và tướng, vì vậy, đại Bồ tát khi hành Bát Nhã lấy vô tướng làm
phương tiện, có thể viên mãn Bát nhã Ba la mậtvà tất cả các pháp khác”.
Khi thấy các tướng là vô tướng, vô
tướng là không có tướng tức thấy các pháp là không, là như như, là bình đẳng.
Bình đẳng này Phật gọi là tất cánh tịnh. Tất cánh tịnh là tuyệt đối thanh tịnh
vì không còn tác ý, không sở hành nên cũng nói là không, vô niệm, vô tác ý chỗ
cao nhất của Bát Nhã. Kinh nói: “Đấy là khéo đạt thật tướng các
pháp, nghĩa là đối pháp tánh không sở phân biệt”.
Người tu đạt đến cảnh giới này là
đạt đến cái tột cùng của biên tế thực tại của tất cả pháp, nói khác là chứng
được thể tánh thường hằng bất biến của vạn hữu nên gọi là chân như, thật tướng,
pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, hư không giới, bất tư
nghì giới, pháp định, pháp trụ, thất tế v.v...
Đây là một đoạn Kinh cốt tủy của Bát
Nhã. Vì vậy, mà chúng tôi thường lưu ý người nào ngộ nhập được chân như, pháp
giới, pháp tánh, pháp trụ, thật tế v.v... thì được xem là Giác ngộ. Vậy, phải
đọc và nghiền ngẫm đoạn Kinh này.
2. Tất cả pháp là pháp giới. Tất cả
pháp đều nhập vào pháp giới:
Không phân biệt.
Cảnh giới cuối cùng của tất cả pháp
là gì, nếu không phải là Tánh không, nếu không phải là Chân như, Thực tế hay
Niết bàn? Nếu không thể vượt qua thế giới lý luận, phân tích, so đo của cảm
quan và ý thức thường tục thì không thể chứng nhập bất cứ tri giác nào thuộc về
giác ngộ. Và chỉ có tri giác thực chứng, loại bỏ được nhị nguyên đối đãi mới hy
vọng tìm thấy ánh sáng của cảnh giới cuối cùng đó.
Đó chính là lý do tại sao các nhà
Đại thừa từ chối, không tìm gốc rễ của mình trong thế giới của uẩn xứ giới mà
lại tìm trong cảnh giới tuyệt đối nào khác? Thế giới của uẩn xứ giới là thế
giới thiên sai vạn biệt, vô thường, biến hoại, ngược với thế giới tuyệt đối
nhất thể, thường hằng, bất biến. Nói như vậy, có nghĩa là vẫn còn so đo phân
biệt! Vì vẫn còn thấy biên giới hai đầu có và không, tương đối và tuyệt đối của
nhị nguyên. Bồ tát không tìm chỗ đứng của mình ở bờ bên này (Tục tế - tương
đối) hay bờ bên kia (Thánh đế - tuyệt đối). Bồ tát cũng giống như bất cứ chúng
sanh nào khác là mặc dầu sống trong phân biệt của thế giới đối đãi này, nhưng
Bồ tát khác với các chúng sanh khác là không phân biệt hay nói cách khác là sống
trong phân biệt nhưng không thấy sai biệt. Nếu còn thấy bờ bên này, bờ bên
kia hay giữa dòng đi nữa, là vẫn còn thấy giới biên, nghĩa là không tránh khỏi
phân biệt chấp trước. Nếu không tránh khỏi phân biệt chấp trước thì không thể
tránh khỏi sự câu thúccủa thế giới nhị nguyên, đối đãi!
Nhưng đâu là chỗ đứng của các Ngài
để từ đó các Ngài thực thi các phương tiện thiện xảo, cứu rỗi chúng sanh?
Các Ngài biết rằng cảnh giới cuối
cùng của tất cả các pháp là không(1), tánh của tất cả pháp cũng không,
không phân biệt. Pháp tánh chẳng phải uẩn, xứ, giới, cũng chẳng lìa uẩn, xứ,
giới. Pháp tánh tức là uẩn, xứ, giới và uẩn, xứ, giới tức là pháp tánh. Nội
không chẳng phải pháp tánh, cũng chẳng lìa nội không riêng có pháp tánh; ngoại
không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi
không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không,
bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất
khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Nội không
chẳng phải pháp tánh, cũng chẳng lìa nội không cho đến vô tánh tự tánh không,
riêng có pháp tánh. Nội không tức pháp tánh, pháp tánh tức nội không; ngoại
không cho đến vô tánh tự tánh không tức pháp tánh, pháp tánh tức ngoại không
cho đến vô tánh tự tánh không. Tứ Thánh đế, Thập nhị nhân duyên, lục Ba la mật,
từ bi hỷ xả, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, tất
cả Đà la ni, Tam ma địa, Bồ tát thập địa, Phật mười lực, tứ vô sở uý, tứ vô
ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng v.v… chẳng phải pháp tánh, cũng chẳng
lìa tất cả pháp đó riêng có pháp tánh. Pháp tánh tức là tất cả pháp, tất cả
pháp tức pháp tánh.
Pháp thế gian chẳng phải pháp tánh,
cũng chẳng lìa pháp thế gian riêng có pháp tánh. Pháp xuất thế gian chẳng phải
pháp tánh, cũng chẳng lìa pháp xuất thế gian riêng có pháp tánh. Pháp thế gian
tức là pháp tánh, pháp tánh tức là pháp thế gian, pháp xuất thế gian tức là
pháp tánh, pháp tánh tức là pháp xuất thế gian.
Nếu biết như vậy, Bồ tát thật sự
nhập pháp giới, tức tìm thấy chỗ đứng đúng của mình hay nói khác là xác định
được tinh thể của chính mình trong cảnh giới mà chính các Ngài đang sống, trong
chính cảnh giới mà các Ngài chứng nhập. Do thâm hiểu như vậy nên tuy chứng Thật
tế nhưng không nhập Niết bàn, quên đi những nổi thống khổ của chúng sanh.
Nếu chân pháp giới, trước, giữa, sau
có sự sai biệt thì Bồ tát khi tu hành Bát Nhã, chẳng có thể thi thiết những
phương tiện thiện xảo; vì chân pháp giới, khoảng trước, giữa, sau thường không
sai biệt. Cho nên, đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã có thể thuyết chân pháp giới,
thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, tu Bồ tát hạnh, chứng đắc quả vị Giác
ngộ tối cao, độ thoát chúng hữu tình không hề mệt mỏi.
Trong Đại thừa giáo, tất cả từ Chơn
như, Pháp giới, Pháp tánh, Bất hư vọng tánh, Bất biến dị tánh, Bình đẳng tánh,
Ly sanh tánh, Pháp định, Pháp trụ, Thật tế, Hư không giới, Bất tư nghì giới,
Phật tánh, Tánh không, Vô tướng, Thật Tướng, Pháp thân, Viên Thành Thực, Tự
tánh Thanh tịnh thân, Như như, Niết bàn… tất cả những từ này đồng nghĩa với
nhau, chúng lưu xuất từ giữa lòng chân tánh của tất cả các vật thể trần gian
hay nói theo thuật ngữ đạo Phật, từ trong cùng một bào thai của Như Lai gọi là
Như Lai tạng nên như như không khác.
Các pháp, nó là nó, nó phơi bày như
vậy, bởi vì nó là như vậy, mọi vật đều như vậy, mọi hiện hữu đều như vây, chẳng
lúc nào chẳng như. Và những từ dùng diễn tả trạng thái đó là gọi Chơn như, Pháp
giới, Pháp tánh, Thật tế, v.v... Nó không có gì xa lạ, ẩn nhiệm, nó chỉ thể
tính tuyệt đối của vạn hữu. Thể tính đó bất động, thường hằng, chẳng tăng chẳng
giảm, chẳng nhiễm chẳng tịnh… nằm ngoài mọi lý luận nhận thức, ngược lại thế
giới hiện tượng mà chúng ta đang sống.
Tri kiến được chơn như, pháp giới,
pháp tánh, bình đẳng tánh, thật tế, v.v… tức là Giác ngộ. Người có cái thấy
biết muôn sự muôn vật như thế, Ngài Thạch Đầu nói: “Người hội muôn vật làm tự
mình, ấy là Thánh nhân…” Chính Bát Nhã tiêu biểu bằng con mắt thứ ba giữa trán,
chiếu rọi trên muôn sự muôn vật, bắt chúng hiện nguyên hình trong chân như,
thật tướng... của chúng. Chân như, thật tướng, bình đẳng tướng... đó là nhất
tướng chỗ gọi là vô tướng, chúng vô sở hữu, bất khả đắc nên cũng gọi là tánh
không, bản tánh không.
Phẩm kế tiếp nói nhiều về lý bản
tánh không này.
Thích nghĩa của phần lược giải này:
(1). Không(空) Phạm:
Zùnya. Dịch âm: Thuấn nhã. Dịch ý: Không tánh, Không vô, Không hư, Không tịch,
Phi hữu. Đối lại: Hữu. Tất cả vật tồn tại đều không có tự thể, thực thể, thực
ngã... tư tưởng ấy gọi là Không. Nói cách khác, Không là sự hư huyễn không thực
của muôn vật, hoặc là sự rỗng lặng trong sáng của lý thể. Tư tưởng không đã có
từ thời đại đức Phật còn tại thế, rõ ràng nhất trong Phật giáo Đại thừa sau này
và là tư tưởng căn bản của hệ thống Kinh Bát Nhã. Không được chia ra thành các
loại như sau:
1- Nhị không:
1/. Theo phẩm Quán tà kiến trong Trung luận quyển 4 và luận Thành duy
thức quyển 1, thì Không được chia ra làm 2 loại là Nhân không và Pháp
không. Nhân không nghĩa là trong cá thể của hữu tình không có thực ngã, cho
nên Nhân không còn được gọi là Ngã không, Nhân vô ngã, v.v... Pháp không nghĩa
là tất cả các pháp do nhân duyên sinh không có thực thể tồn tại, cho nên gọi là
Pháp vô ngã. Tiểu thừa chỉ nói Nhân không, chứ không nói Pháp không, còn Đại
thừa chủ trương Nhân pháp nhị không(cũng gọi Nhân pháp nhị vô ngã, Ngã pháp nhị
không).
2/. Phẩm Thân kiến trong luận Thành thực quyển 10, chia Không thành 2
loại là Tích không và Thể không. Tích không nghĩa là phân tích sự
vật tồn tại đến khi không còn phân tích được nữa thì gọi là Không; còn Thể
không có nghĩa là ngay bản thân của tất cả sự vật tồn tại đã là không rồi,
đương thể tức không, chứ không cần phải phân tích nữa. Tiểu thừa và tông Thành
thực chủ trương Tích không, còn Đại thừa thì chủ trương Thể không.
3/. Theo Tam luận huyền nghĩa, thì Không được chia làm Đãn không
và Bất đãn không. Đãn không là chỉ chấp không, chứ không biết đến Chân
không và Diệu hữu. Bất đãn không nghĩa là biết rõ Chân không và thừa nhận Diệu
hữu, tức là Trung đạo không.
2- Tam không:
1/. Theo luận Biện trung biên quyển trung và luận Hiển dương Thánh giáo,
thì 3 tính Biến kế sở chấp, Y tha khởi và Viên thành thực đều có nghĩa không,
vì thế gọi đó là Tam không. Cảnh mà phàm phu vọng chấp thuộc về tính
Biến kế sở chấp, tính này xưa nay vốn không, cho nên gọi là Vô tính không.
Pháp do nhân duyên sinh thuộc về tính Y tha khởi, khác với tính Biến kế sở
chấp, nhưng không phải hoàn toàn Vô, mà cũng chẳng phải là Hữu như chúng sinh
vọng chấp, đây tức là Dị tính không. Còn chân như là tính Viên thành
thực, là tự tính do quán xét nhân và pháp đều không mà hiển hiện, đó là Tự
tính không.
2/. Theo Kinh Kim cương toàn yếu san định ký quyển 1, thì Không có 3 thứ
là Nhân không, Pháp không và Câu không.
3-Tứ không:
Kinh Đại tập quyển 54 và Kinh Đại
Phẩm Bát Nhã quyển 5 cho rằng Không có 4 loại: Pháp pháp tướng không, Vô pháp
vô pháp tướng không, Tự pháp tự pháp tướng không, Tha pháp tha pháp tướng
không.
4-Lục không:
Theo luận Xá lợi phất a tì đàm
quyển 16, thì Không có 6 loại: 1/. Nội không, cũng gọi Thụ giả không, Năng thực
không nghĩa là 6 chỗ bên trong (6 căn) đều là không. 2/. Ngoại không, cũng gọi
Sở thụ không, Sở thực không, nghĩa là 6 chỗ bên ngoài (6 cảnh) đều là không.
3/. Nội ngoại không, cũng gọi Thân không, Tự thân không. 4/. Không không: Cái
Không bị quán chiếu(Sở quán) cũng là Không, vì thế còn gọi là Năng chiếu không.
5/. Đại không, cũng gọi Thân sở trụ xứ không, nghĩa là 10 phương thế giới đều
là không. 6/. Đệ nhất nghĩa không, cũng gọi Thắng nghĩa không, Chân thực không,
Chân cảnh không. Nghĩa là ngoài các pháp ra không có cái gì được gọi là tự tính
của thực tướng.
5-Thất không:
Cứ theo Kinh Lăng già quyển 1
(bản 4 quyển), thì Không có 7 loại: 1/. Tướng không, cũng gọi Tự tướng không,
nghĩa là tự tướng và cộng tướng của các pháp đều là không. 2/. Tính tự tính
không, cũng gọi Tự tính không, nghĩa là tự tính của các pháp tức là không. 3/.
Hành không, 5 uẩn xa lìa ngã và ngã sở, vì do nhân duyên sinh. 4/. Vô hành
không, cũng gọi Bất hành không, nghĩa là trong 5 uẩn không hề có Niết bàn. 5/.
Nhất thiết pháp li ngôn thuyết không: Tất cả các pháp không thể dùng lời nói để
diễn tả, nên là không. 6/. Đệ nhất nghĩa Thánh trí đại không: Đệ nhất nghĩa
không thấy được từ quả vị Thánh trí. 7/. Bỉ bỉ không: Mình, người, kia, đây đều
là không; cái Không này là theo nghĩa hẹp.
6-Thập không. Luận Đại tì
bà sa quyển 8 nêu ra 10 không: Nội không, Ngoại không, Nội ngoại không, Hữu vi
không, Vô vi không, Tán hoại không, Bản tính không, Vô tế không, Thắng nghĩa
không và Không không.
7-Thập nhất không.
Theo Kinh Niết bàn quyển 16 (bản Bắc), thì Không có 11 loại: Nội không,
Ngoại không, Nội ngoại không, Hữu vi không, Vô vi không, Vô thủy không, Tính
không, Vô sở hữu không, Đệ nhất nghĩa không, Không không, Đại không... Trong
đó, Vô sở hữu không cũng gọi Bất khả đắc không.
8-Thập lục không.
Theo luận Biện trung biên quyển thượng, thì Không có 16 thứ: Nội không,
Ngoại không, Nội ngoại không, Đại không, Không không, Thắng nghĩa không, Hữu vi
không, Vô vi không, Tất kính không, Vô tế không, Vô tán không, Bản tín không,
Tướng không, Nhất thiết pháp không, Vô tính không và Vô tính tự tính không.
9-Thập bát không.
Theo Kinh Đại Phẩm Bát Nhã quyển 3, Kinh Đại tập quyển 54 và luận Đại
trí độ quyển 31, thì Không có 18 loại: Nội không, Ngoại không, Nội ngoại không,
Không không, Đại không, Đệ nhất nghĩa không, Hữu vi không, Vô vi không, Tất
kính không, Vô thủy không, Tán không, Tính không, Tự tướng không, Chư pháp
không, Bất khả đắc không, Vô pháp không, Hữu pháp không và Vô pháp hữu pháp
không... [X. Kinh Đại Bát Nhã Ba la mật Q.44; Kinh Niết bàn Q.25 (bản
Bắc); luận Đại trí độ Q.38; luận Bồ đề tâm; luận Thập bát không; Đại thừa nghĩa
chương Q.1 đến Q.4; Duy Ma Kinh nghĩa ký Q.3; Hoa Nghiêm pháp giới quán môn;
Trung Quán Luận sớ Q.2 phần cuối]. (xt. Bản Thể, Không Hữu Luận Tranh)- Phật
Quang từ điển.
Lưu ý: Tất cả
pháp Không trên được hình thành theo tiến trình của (không gian và thời gian)
theo dòng lịch sử là như vậy. Kết quả chúng ta có mười tám pháp không
hoàn hảo như ngày hôm nay để giải thích thế nào là nhất thiết pháp không. Mười
tám pháp không đã được giải thích ở phần thứ I Tổng luận rồi. Tuy nhiên, khi
chúng tôi tra cứu các Kinh luận hoặc sách vở hoặc tự điển hoặc ý kiến của các
học giả Phật học nào mà thấy hữu ích cho việc học hỏi thì chúng tôi tiếp tục
ghi thêm để quý vị có dịp thâm cứu, học hỏi thêm. TB
---o0o---