PHẨM “CÁC TƯỚNG CÔNG ĐỨC”
Phần cuối quyển 379 cho đến phần đầu
quyển 383, Hội thứ I, ĐBN(1).
(Tương đương với phần sau của phẩm
“Tứ Nhiếp”,
tức phẩm mở đầu của quyển thứ 27, MHBNBLMĐ)
Gợi ý:
Phẩm này của cả hai đại phẩm ĐBN hay
MHBNBLMĐ gói ghém tất cả pháp mầu Phật đạo, còn gọi là các thiện pháp, các diệu
pháp, các pháp hy hữu, tư lương Bồ đề Bồ tát hay Bồ tát đạo… Phần thứ I Tổng
luận đã giải thích cặn kẽ rồi, nay chỉ tóm lược thôi. ĐBN sở dĩ được gọi là bộ
Bách khoa toàn thư của Phật đạo, không phải do liệt kê rộng rãi các pháp môn
Phật học mà Kinh này cốt trình bày các pháp môn Phật học với mục đích luyện tâm
luyện trí để giúp chúng sanh tu thân đồng thời tạo một thế giới thanh bình tươi
đẹp và hạnh phúc. Muốn giải thoát, muốn chứng ngộ thì phải thọ trì tất cả các
pháp môn hy hữu này, ngoài ra không còn pháp môn nào khác.
Tóm lược:
Có đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật
an trụ trong báo đắc sáu Ba la mật, và an trụ trong báo đắc ngũ thần thông, ba
mươi bảy phẩm trợ đạo, các Đà la ni, các vô ngại trí, đến cõi nước mười phương,
có ai đáng dùng bố thí để độ thì dùng bố thí nhiếp hộ, có ai dùng trì giới để
độ thì dùng trì giới nhiếp hộ, có ai đáng dùng nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định,
trí huệ để độ thì dùng nhẫn nhục, tinh tấn v.v… nhiếp hộ. Có ai đáng dùng sơ
thiền để độ thì dùng sơ thiền để nhiếp hộ. Có ai đáng dùng nhị thiền, tam thiền
nhẫn đến phi phi tưởng xứ để độ thì tùy theo chỗ thích ứng mà nhiếp hộ. Có ai
nên dùng từ, bi, hỉ, xả để độ thì dùng từ bi hỉ xả nhiếp hộ. Có ai nên dùng tứ
niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác phần, bát
Thánh đạo phần, các không tam muội, vô tướng, vô tác để độ thì theo chỗ thích
ứng để nhiếp lấy.
Phật dùng Phật nhãn quán khắp vô
lượng hằng hà sa thế giới trong mười phương, thấy các đại Bồ tát dùng tứ
nhiếp pháp, nhiếp hóa các hữu tình. Tứ nhiếp pháp đó là: Bố thí, ái ngữ,
lợi hành và đồng sự để nhiếp hộ chúng sanh.
Đại Bồ tát khi hành Bát nhã Ba la
mật sâu xa, thường dùng các thứ vàng, bạc, ngọc báu, chơn châu, ma ni v.v...
cho các hữu tình; hoặc dùng các thứ y phục, thức ăn uống, cung điện, lầu gác,
phòng nhà, đồ nằm, xe cộ, hương hoa, đèn đuốc, kỹ nhạc, tràng phan, bảo cái,
anh lạc v.v... cho các hữu tình; hoặc đem các loại như voi, ngựa, trâu, dê, lừa
v.v… cho các hữu tình; hoặc đem các loại tài vật kho tàng, thành ấp, xóm làng
và ngôi vua cho các hữu tình; hoặc đem các bộ phận thân thể như tay, chân, lóng
đốt, đầu, mắt, tủy, não cho các hữu tình. Đại Bồ tát ấy, đem các thứ đồ vật đặt
ở ngã tư đường, lên trên đài cao, loan báo thế này: Tất cả hữu tình, có cần vật
gì, tự do tới lấy chớ sanh nghi mạn, như lấy của mình chớ nghĩ gì khác.
Bồ tát dùng một trong bốn nhiếp pháp
nhiếp hộ hữu tình xong, lại khuyên hữu tình tu các pháp thế gian và xuất thế
gian:
1. Các pháp thế gian:
- Quy y tam bảo: Phật Pháp Tăng:
- Hoặc khuyên thọ trì năm giới cận
sự;
- Hoặc khuyên thọ trì tám giới cận
trụ;
- Hoặc khuyên thọ trì mười thiện
nghiệp đạo;
- Hoặc khuyên tu hành sơ tĩnh lự;
- Hoặc khuyên tu hành tứ vô lượng
tâm: Từ vô lượng, bi vô lượng, hỷ vô lượng và xả vô lượng. Bốn tâm này dùng đối trị 4 phiền não là sân hận, ganh tị,
buồn phiền và tham dục;
- Hoặc khuyên tu tứ định vô sắc: Không
vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ;
- Hoặc khuyên tu hành Phật tùy niệm,
Pháp tùy niệm, Tăng tùy niệm, giới tùy niệm, xả tùy niệm, thiên tùy niệm;
- Hoặc khuyên tu quán bất tịnh;
- Hoặc khuyên tu quán sổ tức (đếm
hơi thở):
- Hoặc khuyên tu hành tưởng vô
thường, tưởng khổ, tưởng vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng nhàm ăn, tưởng tất cả
thế gian chẳng đáng vui, tưởng chết, tưởng dứt, tưởng lìa, tưởng diệt.(2)
2. Các pháp xuất thế gian:
- Hoặc khuyên tu hành ba mươi bảy
pháp trợ đạo: Bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực,
bảy đẳng giác chi và tám Thánh đạo chi:
“Này Thiện Hiện! Thế nào gọi là bốn
niệm trụ?
Này Thiện Hiện! Đó là đối với nội
thân, an trụ quán theo thân; đối với ngoại thân, an trụ quán theo thân, đối với
nội ngoại thân, an trụ quán theo thân, đầy đủ chánh cần, chánh tri, chánh niệm,
trừ tham ái ở đời, an trụ thân, quán tập; an trụ thân, quán diệt, do đó đối với
thân, an trụ quán theo thân; an trụ thân, quán tập; an trụ thân, quán diệt,
không có chỗ tựa, đối với các pháp thế gian, không có sự chấp thọ, đó là thứ
nhất. Đối với nội thọ, an trụ quán theo thọ; đối với ngoại thọ, an trụ quán
theo thọ; đối với nội ngoại thọ, an trụ quán theo thọ, đầy đủ chánh cần, chánh
tri, chánh niệm, trừ tham ái ở đời, an trụ thọ, quán tập; an trụ thọ, quán
diệt; do đó đối với thọ, an trụ quán theo thọ; an trụ thọ, quán tập; an trụ
thọ, quán diệt, không có chỗ tựa, đối với các pháp thế gian, không có sự chấp thọ,
đó là thứ hai. Đối với nội tâm, an trụ quán theo tâm; đối với ngoại tâm, an trụ
quán theo tâm; đối với nội ngoại tâm, an trụ quán theo tâm, đầy đủ chánh cần,
chánh tri, chánh niệm, trừ tham ái ở đời, an trụ tâm, quán tập; an trụ tâm,
quán diệt, do đó đối với tâm, an trụ quán theo tâm; an trụ tâm, quán tập; an
trụ tâm, quán diệt, không có chỗ tựa, đối với các pháp thế gian, không có sự
chấp thọ, đó là thứ ba. Đối với nội pháp, an trụ quán theo pháp; đối với ngoại
pháp, an trụ quán theo pháp, đối với nội ngoại pháp, an trụ quán theo pháp, đầy
đủ chánh cần, chánh tri, chánh niệm, trừ tham ái ở đời, an trụ pháp, quán tập;
an trụ pháp, quán diệt, do đó đối với pháp, an trụ quán theo pháp; an trụ pháp,
quán tập; an trụ pháp, quán diệt, không có chỗ tựa, đối với các pháp thế gian,
không có sự chấp thọ, đó là thứ tư. Đó gọi là bốn niệm trụ”.
Này Thiện Hiện! Thế nào gọi là bốn
chánh đoạn?
Này Thiện Hiện! Vì khiến cho các pháp
ác bất thiện chưa sanh, chẳng sanh, nên khởi phát ý muốn siêng năng
tinh tấn, cảnh tĩnh tâm, giữ tâm, đó là thứ nhất. Vì khiến pháp ác bất thiện
đã sanh đoạn diệt, nên phát khởi ý muốn siêng năng tinh tấn, cảnh tĩnh
tâm, giữ tâm, đó là thứ hai. Vì khiến pháp thiện chưa sanh được sanh nên
phát khởi ý muốn siêng năng tinh tấn, cảnh tỉnh tâm, giữ tâm, đó là thứ ba. Vì
khiến pháp thiện đã sanh đứng vững chẳng mất, tu và tác chứng trí làm
cho đầy đủ tăng trưởng rộng lớn, nên phát khởi ý muốn siêng năng tinh tấn, cảnh
tỉnh tâm, giữ
tâm, đó là thứ tư. Đó là bốn chánh đoạn(3).
Này Thiện Hiện! Thế nào là bốn
thần túc?
Này Thiện Hiện! Dục tam ma
địa trọn nên đoạn hành (do ước mong thành tựu tam ma địa nên đoạn được hành),
tu tập thần túc, nương dựa nhàm, nương dựa lìa, nương dựa diệt, hồi hướng về
xả, đấy là thứ nhất. Cần tam ma địa trọn nên đoạn hành (do chuyên cần
tu tập tam ma địa tròn đầy nên đoạn hành), tu tập thần túc, nương dựa nhàm,
nương dựa lìa, nương dựa diệt, hồi hướng về xả, đấy là thứ hai. Tấn tam
ma địa trọn nên đoạn hành (do tinh tấn tu tập tam ma địa thành tựu), tu
tập thần túc, nương dựa nhàm, nương dựa lìa, nương dựa diệt, hồi hướng về xả,
đấy là thứ ba. Quán tam ma địa trọn nên đoạn hành (do tư duy tam ma
địa đầy đủ nên đoạn được hành), tu tập thần túc, nương dựa nhàm, nương dựa
lìa, hồi hướng về xả, đấy là thứ tư. Đó gọi là bốn thần túc.
Này Thiện Hiện! Những gì gọi là năm
căn?
Này Thiện Hiện! Tín căn, tinh tấn
căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Đó là năm căn.
Này Thiện Hiện! Những gì là năm
lực?
Này Thiện Hiện! Tín lực, tinh tấn
lực, niệm lực, định lực, tuệ lực. Đó gọi là năm lực.
Này Thiện Hiện! Những gì gọi là bảy
giác chi?
Này Thiện Hiện! Niệm đẳng giác chi,
trạch pháp đẳng giác chi, tinh tấn đẳng giác chi, hỷ đẳng giác chi, khinh an
đẳng giác chi, định đẳng giác chi, xả đẳng giác chi. Đó gọi là bảy chi đẳng
giác.
Này Thiện Hiện! Những gì gọi là tám
chi Thánh đạo?
Này Thiện Hiện! Chánh kiến, chánh tư
duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh
định. Đó gọi là tám chi Thánh đạo.
- Hoặc khuyên tu hành tam giải thoát môn:
Không, vô tướng, vô nguyện ;
- Hoặc khuyên tu hành tám giải thoát;
- Hoặc khuyên tu hành tám thắng xứ,
chín thứ đệ định, mười biến xứ.
- Hoặc khuyên tu hành thập Ba la mật:
Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã, phương tiện xảo,
nguyện, lực, trí Ba la mật;
- Hoặc khuyên an trụ khổ Thánh đế,
hoặc khuyên an trụ tập, diệt, đạo Thánh đế.
- Hoặc khuyên an trụ 18 pháp không:
Nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa
không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô
biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết
pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh
không;
- Hoặc khuyên an trụ chơn như hoặc
khuyên an trụ pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình
đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư
nghì giới;
- Hoặc khuyên tu hành tất cả Đà la ni
môn, Tam ma địa môn;
- Hoặc khuyên tu hành Bồ tát thập
địa: Cực hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa,
Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa;
- Hoặc khuyên tu hành năm nhãn: 1.
Nhục nhãn, 2. Thiên nhãn, 3. Huệ nhãn, 4. Pháp nhãn, 5. Phật nhãn;
- Hoặc khuyên tu hành sáu thần thông:
1. Thần túc thông, 2. Thiên nhĩ thông, 3. Tha tâm thông, 4. Túc mệnh thông, 5. Thiên nhãn thông, 6. Lậu tận
thông;
- Hoặc khuyên tu hành Như lai mười
lực: 1: Tri thị xứ phi xứ trí lực; 2: Tri tam thế
nghiệp báo trí lực; 3: Tri chư thiên giải thoát tam muội trí lực; 4: Tri chúng
sanh tâm tánh trí lực; 5: Tri chủng chủng giải trí lực; 6: Tri chủng chủng giới
trí lực; 7: Tri nhất thiết sở đạo trí lực; 8: Tri thiên nhãn vô ngại trí lực;
9: Tri túc mạng vô lậu trí lực; 10: Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực;
- Hoặc khuyên tu hành bốn vô sở úy: 1. Nhất thiết trí vô sở úy, 2. Lậu tận vô sở úy, 3. Thuyết
chướng đạo vô sở úy, 4. Thuyết tận khổ đạo vô sở úy;
- Bốn trí vô ngại: Pháp vô ngại trí, nghĩa vô ngại trí, từ vô ngại trí và lạc
thuyết vô ngại trí;
- Đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả;
- Mười tám pháp Phật bất cộng là mười tám pháp chỉ đấng Như Lai mới có, A la hán và Duyên
giác không có, cũng gọi là Thập bát bất cụ pháp, gồm: 1- Thân vô thất (Thân
không có lỗi), 2- Khẩu vô thất (Lời nói không có lỗi), 3- Niệm vô
thất (Ý tưởng không có lỗi), 4- Vô dị tưởng (Không có tư tưởng khác
biệt), 5- Vô bất định tâm (Tâm thường an định), 6- Vô bất tri dĩ xả (Rõ
biết tất cả mọi chuyện nhưng đều buông bỏ), 7- Dục vô diệt (Lòng mong
muốn cứu độ chúng sanh không dứt mất), 8- Tinh tấn vô diệt (Sự tinh tấn cứu
độ chúng sanh không dứt mất), 9- Niệm vô diệt (Đối với Chánh pháp của ba
đời chư Phật, tất cả trí tuệ đều đầy đủ, không có sự thối chuyển), 10- Huệ
vô diệt (Trí tuệ đầy đủ không cùng tận), 11- Giải thoát vô diệt (Có
đủ hai loại giải thoát là giải thoát hữu vi và giải thoát vô vi, dứt trừ hoàn
toàn mọi phiền não), 12- Giải thoát tri kiến vô diệt (Đối với Giải thoát
tri kiến trí tuệ sáng suốt, phân biệt vô ngại), 13- Nhất thiết thân nghiệp
tùy trí tuệ hành (Hết thảy nghiệp của thân được thực hành theo trí tuệ),
14- Nhất thiết khẩu nghiệp tùy Trí tuệ hành (Hết thảy nghiệp của lời nói
được thực hành theo trí tuệ), 15- Nhất thiết ý nghiệp tùy trí tuệ hành (Hết
thảy nghiệp của ý được thực hành theo trí tuệ), 16- Trí tuệ tri quá khứ thế
vô ngại (Trí tuệ rõ biết đời quá khứ không ngăn ngại), 17- Trí tuệ tri
vị lai thế vô ngại (Trí tuệ rõ biết đời vị lai không ngăn ngại), 18- Trí
tuệ tri hiện tại thế vô ngại (Trí tuệ rõ biết đời hiện tại không ngăn ngại);
- Hoặc khuyên tu hành pháp vô vong
thất;
- Hoặc khuyên tu hành tánh hằng trụ
xả;
- Hoặc khuyên tu hành Nhất thiết trí;
hoặc khuyên tu hành Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí;
- Hoặc khuyên tu hành ba mươi hai
tướng đại sĩ;
- Hoặc khuyên tu hành tám mươi tướng
tùy hảo;
- Hoặc khuyên tu hành quả Dự lưu; quả
Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề;
- Hoặc khuyên tu hành tất cả Bồ tát
hạnh;
- Hoặc khuyên tu hành quả vị Giác ngộ
tối cao.
Tất cả các thiện pháp vô lậu nêu
trên đều gọi là Thánh pháp xuất thế gian. (Q.
380, ĐBN)
(Tất cả pháp tu thế gian và Thánh
pháp xuất thế gian dưới chương mục của phẩm này mà Đức Phật gọi chung là các
thiện pháp, các pháp mầu Phật đạo, các pháp cực kỳ hi hữu, tư lương Bồ đề Bồ
tát, hay Bồ tát đạo, còn gọi là các pháp thực tu thực chứng... được Kinh nhắc
đi nhắc lại hàng trăm, hàng ngàn lần trong suốt từ đầu tới cuối đại phẩm này.
Vì tánh cách quan trọng của nó trong viêc tu tập và hành trì nên chúng tôi phải
tách riêng ra và đúc kết thành một phần riêng biệt gọi là phần thứ I Tổng
luận, một trong ba phần chính của thiên Tổng luận này. Tới đây, chúng tôi
nghĩ quý vị độc giả có thể thầm hiểu bố cục của thiên Tổng luận. Vậy, xin quý
vị có thể quay lại phần thứ I tham khảo nếu có thắc mắc).
1- Bấy giờ, cụ
thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tự tánh của tất
cả pháp, tất cả hữu tình rốt ráo đều chẳng thể nắm bắt được; thì tại sao đại Bồ
tát phải tu hành lục Ba la mật? Tại sao đại Bồ tát phải tu hành bốn tịnh lự,
bốn vô lượng, bốn định vô sắc? Tại sao đại Bồ tát phải tu hành ba mươi bảy pháp
trợ đạo, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối
cao?
- Bạch Thế Tôn! Tất cả hữu tình đều chẳng
thể nắm bắt được; sự an lập(4) của hữu tình cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên sắc chẳng thể nắm bắt được; thọ,
tưởng, hành, thức cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm
bắt được nên mười hai xứ, mười tám giới chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu
tình chẳng thể nắm bắt được, nên mười hai nhân duyên chẳng thể nắm bắt được. Vì
tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh
tấn, tịnh lự, Bát Nhã cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể
nắm bắt được nên tứ thiền, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám
pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cũng chẳng thể
nắm bắt được. Vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên ba mươi hai tướng
Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cũng chẳng thể nắm bắt được.
- Bạch Thế Tôn! Trong cái chẳng thể
nắm bắt được; không có hữu tình, không có sự an lập hữu tình; không có sắc,
không có sự an lập sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, không có sự an lập
thọ, tưởng, hành, thức; không có mười hai xứ, không có mười tám giới, không có
sự an lập mười hai xứ, mười tám giới; nói chung không có tất cả pháp Phật, cũng
không có sự an lập tất cả pháp Phật.
- Bạch Thế Tôn! Tất cả hữu tình,
pháp và sự an lập đều bất khả đắc, đều vô sở hữu, đại Bồ tát làm sao khi
hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm vì các hữu tình tuyên nói các pháp? Đừng cho
rằng đại Bồ tát tự an trụ pháp bất chánh, vì các hữu tình nói pháp bất chánh,
khuyên các hữu tình an trụ pháp bất chánh, dùng pháp điên đảo an lập hữu tình.
Vì sao? Vì đại Bồ tát khi hành Bát Nhã chẳng đắc Bồ đề, huống có Bồ đề pháp có
thể đắc, chẳng đắc đại Bồ tát, huống là có pháp đại Bồ tát để có thể đắc?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như
ông đã nói. Tất cả hữu tình đều bất khả đắc, sự an lập hữu tình cũng bất khả
đắc. Tất cả pháp đều bất khả đắc, sự an lập tất cả pháp cũng bất khả đắc. Do
bất khả đắc, nên hoàn toàn vô sở hữu. Vì vô sở hữu nên biết nội không, nên biết
ngoại không, nội ngoại không… cho đến vô tánh tự tánh cũng không. Nên biết
chơn như không, nên biết pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, ly sanh, pháp
định, pháp trụ, thật tế… cũng không. Nên biết Thánh đế khổ không, nên biết
Thánh đế tập, diệt, đạo cũng không. Nên biết sắc không, nên biết thọ,
tưởng, hành, thức không. Nên biết mười hai xứ, mười tám giới không. Nên biết tứ
thiền bát định, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối
cao cũng không. Nên biết nghiêm tịnh tất cả cõi Phật không, nên biết thành thục
hữu tình cũng không. Nên biết ba mươi hai tướng Đại sĩ không, nên biết tám mươi
vẻ đẹp phụ thuộc cũng không.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát khi
hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, thấy tất cả pháp đều không rồi, vì các hữu
tình tuyên thuyết các pháp, khiến lìa điên đảo; tuy vì hữu tình tuyên thuyết
các pháp nhưng đối với hữu tình hoàn toàn không có sở đắc, đối với tất cả pháp
cũng không có sở đắc, đối với các tướng không chẳng tăng, chẳng giảm, không thủ,
không xả. Do nhân duyên ấy, tuy thuyết các pháp nhưng không có sở thuyết.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát ấy,
đối với tất cả pháp khi quán như thế, chứng được vô chướng ngại trí. Do trí này
nên chẳng hoại các pháp, không phân biệt hai, vì các hữu tình như thật tuyên
thuyết, khiến lìa chấp trước vọng tưởng điên đảo, tùy theo căn cơ mà đạt quả
tam thừa. (Q.381, ĐBN)
2- Lại nữa,
Thiện Hiện! Thí dụ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hóa thành một hóa Phật, rồi
vị hóa Phật này lại có thể hóa làm vô lượng trăm ngàn triệu ức chúng sanh. Khi
ấy, vị hóa Phật kia khuyên bảo răn dạy số chúng sanh đã hóa ra ấy hoặc tu hành
bố thí Ba la mật, hoặc tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự hoặc Bát
Nhã, hoặc tu hành tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ
đạo, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao,
thì khi ấy vị hóa Phật và chúng sanh được hóa ra đối với các pháp có phân biệt,
có phá hoại các pháp được chăng?
Thiện Hiện đáp:
- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện
Thệ! Không! Dĩ nhiên, người được biến hóa không thể phân biệt được!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Do nhân duyên đây
phải biết đại Bồ tát cũng lại như thế. Hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, vì các
hữu tình như thật thuyết pháp dù chẳng phân biệt phá hoại pháp tướng mà năng
như thật an lập hữu tình, khiến kia an trụ ở bậc nên trụ; tuy đối với hữu tình
và tất cả pháp hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được nhưng khiến hữu tình giải thoát
vọng tưởng điên đảo chấp trước, lấy bản tánh không buộc không mở của các pháp
làm phương tiện vậy. Vì sao? Vì bản tánh sắc không buộc không mở. Bản
tánh thọ, tưởng, hành, thức cũng không buộc mở. Nếu bản tánh của sắc không buộc
không mở thời chẳng phải sắc; nếu bản tánh thọ, tưởng, hành, thức không buộc
không mở thời chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì sắc cho đến thức
rốt ráo tịnh vậy.
- Này Thiện Hiện! Bản tánh của mười
hai xứ, mười tám giới không buộc không mở; bản tánh của tất cả pháp Phật từ
hành tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám
pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cũng không buộc
không mở. Nếu bản tánh của tất cả pháp Phật không buộc không mở thì chẳng phải
là tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì mười hai xứ, mười tám giới cho đến tất cả pháp
Phật rốt ráo thanh tịnh vậy. (Q.
382, ĐBN)
Nên Kinh nói: “Bản tánh
của pháp thế gian không buộc không mở, bản tánh của pháp xuất thế gian cũng
không buộc không mở; bản tánh của pháp thế gian không buộc không mở thì chẳng
phải là pháp thế gian, bản tánh của pháp xuất thế gian không buộc không mở thì
chẳng phải là pháp xuất thế gian. Vì sao? Vì pháp thế gian, pháp xuất thế gian
rốt ráo thanh tịnh”. (Q.382, ĐBN)
3- Này Thiện
Hiện! Như vậy, Đại Bồ tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, tuy vì hữu tình
tuyên thuyết các pháp nhưng đối với hữu tình và các pháp tánh hoàn toàn không
có sở đắc. Vì sao? Vì các hữu tình và tất cả pháp chẳng thể nắm bắt được.
- Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ tát
khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, lấy vô sở trụ làm phương tiện, nên
an trụ trong cái vô sở đắc của tất cả pháp, nghĩa là lấy vô sở trụ làm phương
tiện nên không an trụ ở sắc, không an trụ ở thọ, tưởng, hành, thức; không an
trụ ở mười hai xứ, mười tám giới; không an trụ ở tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định
vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho
đến không an trụ kể cả quả vị Giác ngộ tối cao.
- Này Thiện Hiện! Sắc vô sở trụ, thọ
tưởng hành thức cũng vô sở trụ, tất cả pháp cũng đều vô sở trụ. Sắc không vô sở
trụ; thọ tưởng hành thức không vô sở trụ, tất cả pháp không cũng vô sở trụ. Vì
sao? Vì sắc vô tự tánh bất khả đắc, thọ tưởng hành thức vô tự tánh bất khả đắc;
tất cả pháp vô tự tánh bất khả đắc. Sắc không vô tự tánh bất khả đắc, thọ tưởng
hành thức không cũng vô tự tánh bất khả đắc; tất cả pháp không vô tự tánh bất
khả đắc. Vì chẳng phải tất cả pháp không, vô tự tánh, bất khả đắc mà có chỗ trụ
vậy.
Trụ chỗ vô sở trụ mới gọi là chính
trụ
Pháp thế gian vô sở trụ, pháp xuất
thế gian cũng vô sở trụ. Pháp thế gian không vô sở trụ, pháp xuất thế gian
không cũng vô sở trụ. Vì sao? Vì pháp thế gian vô tự tánh bất khả đắc, pháp
xuất thế gian cũng vô tự tánh bất khả đắc. Rồi chính pháp thế gian không, vô tự
tánh bất khả đắc, pháp xuất thế gian không cũng vô vô tự tánh bất khả đắc.
Chẳng phải tất cả pháp, pháp không, pháp vô tự tánh bất khả đắc mà có chỗ trụ
vậy. Trụ chỗ vô sở trụ mới gọi là trụ! (Q. 382, ĐBN)
- Này Thiện Hiện! Chẳng phải pháp vô
tánh trụ pháp vô tánh, chẳng phải pháp hữu tánh trụ pháp hữu tánh. Chẳng phải
pháp tự tánh trụ pháp tự tánh, chẳng phải pháp tha tánh trụ pháp tự tánh, chẳng
phải pháp tự tánh trụ pháp tha tánh. Vì sao? Vì tất cả pháp này đều bất khả
đắc. Pháp bất khả đắc trụ ở đâu? Như vậy, đại Bồ tát khi hành Bát nhã Ba la mật
như thế, đem cái "Không" này mà tu khiển các pháp, rồi như thật chỉ
dạy cho chúng hữu tình.
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát thường
hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, đối Phật, Bồ tát, Độc giác, Thanh
văn, tất cả Thánh chúng đều không có lỗi. Vì sao? Chư Phật, Bồ tát, Độc giác,
Thanh văn, tất cả Thánh chúng đối pháp tánh này đều năng tùy giác. Đã
tùy giác rồi, vì các hữu tình tuyên nói không trái. Tuy vì các hữu tình
tuyên nói các pháp mà đối pháp tánh không chuyển không vượt. Vì sao? Vì
thật tánh các pháp tức chơn như, pháp giới. Chơn như, pháp giới như thế đều
chẳng khá chuyển khá vượt. Vì sao? Vì chơn như, pháp giới như thế đều vô tự
tánh thì làm thế nào có chuyển có vượt được?
4- Bấy giờ, cụ
thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu chơn như, pháp
giới chân thật không chuyển, không vượt thì sắc cùng với chơn như, pháp giới có
khác chăng? Thọ, tưởng, hành, thức cùng với chơn như, pháp giới có khác chăng?
Mười hai xứ, mười tám giới cùng với chơn như, pháp giới có khác chăng? Tứ
thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho
đến quả vị Giác ngộ tối cao cùng với chơn như, pháp giới có khác chăng? Pháp
thế gian cùng với chơn như, pháp giới có khác chăng? Pháp xuất thế gian cùng
với chơn như, pháp giới có khác chăng?
Phật dạy:
- Không! Sắc chẳng khác chơn như,
pháp giới; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng khác chơn như, pháp giới; mười hai
xứ, mười tám giới cũng chẳng khác chơn như, pháp giới; tứ thiền, tứ vô lượng,
tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ
tối cao chẳng khác chơn như, pháp giới; pháp thế gian chẳng khác chơn
như, pháp giới; pháp xuất thế gian cũng chẳng khác chơn như, pháp giới.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu sắc chẳng khác
chơn như, pháp giới; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng khác chơn như, pháp
giới; nếu mười hai xứ, mười tám giới chẳng khác chơn như, pháp giới; nếu mười
hai xứ, mười tám giới cũng chẳng khác chơn như, pháp giới v.v… cho đến quả vị Giác
ngộ tối cao chẳng khác chơn như, pháp giới; nếu pháp thế gian chẳng khác chơn
như, pháp giới; nếu pháp xuất thế gian cũng chẳng khác chơn như, pháp giới,
thì làm sao Thế Tôn an lập hắc pháp xấu xa, chiêu cảm quả báo mà bị rơi vào địa
ngục hay đầu thai thành súc sanh, quỷ giới; thì làm sao Thế Tôn an lập bạch
pháp(5) tốt đẹp để được hưởng phước báo, sanh trong cõi người trời…?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Căn cứ vào tục đế
an lập nhân quả sai biệt như thế, chẳng căn cứ vào thắng nghĩa; trong thắng
nghĩa đế, chẳng thể nói có nhân quả sai biệt. Vì sao? Vì trong thắng nghĩa, tất
cả pháp tánh (tánh tất cả pháp) chẳng thể phân biệt, vô thuyết vô thị (không
thuyết, không chỉ), làm sao có nhân quả sai khác được.
- Này Thiện Hiện! Trong thắng nghĩa
đế, sắc không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; thọ, tưởng, hành, thức
cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không(6), vô
tế không(7); trong thắng nghĩa đế, mười hai xứ, mười tám giới không sanh, không
diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không; trong thắng
nghĩa đế, cho đến tất cả pháp Phật cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không
tịnh, vì tất cánh không, vô tế không; trong thắng nghĩa đế, pháp thế gian, pháp
xuất thế gian, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp hữu vi, pháp vô vi cũng không
sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.
“Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu y cứ vào tục đế,
an lập nhân quả sai biệt, chẳng y cứ vào thắng nghĩa đế thì tất cả phàm phu ngu
si đáng lẽ đều là Dự lưu, hoặc đáng lẽ có quả Nhất lai, quả Bất hoàn, quả A la
hán, hoặc quả vị Độc giác, hay quả vị Giác ngộ tối cao?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Theo ý ông: Tất cả
phàm phu ngu si thật biết thế tục và thắng nghĩa đế chăng? Nếu như thật biết
thì đáng lẽ họ là Dự lưu, đáng lẽ có quả Nhất lai, Bất
hoàn, A la hán, hoặc quả vị Độc giác, hay quả vị Giác ngộ tối cao. Nhưng các
phàm phu ngu si chẳng thật biết thế tục và thắng nghĩa đế, không biết Thánh
đạo, không tu Thánh đạo thì làm sao họ được Thánh quả sai biệt? Chỉ bậc Thánh
có khả năng như thật biết thế tục và thắng nghĩa đế, biết có Thánh đạo, có tu
Thánh đạo. Vì vậy, mới đắc Thánh quả sai biệt.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tu Thánh đạo thì
có đắc Thánh quả chăng?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Không! Chẳng
phải tu Thánh đạo có thể đắc Thánh quả, cũng chẳng phải chẳng tu Thánh đạo có
thể đắc Thánh quả, chẳng phải lìa Thánh đạo có thể đắc Thánh quả, cũng chẳng
phải trụ trong Thánh đạo có thể đắc Thánh quả. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong
thắng nghĩa đế, đạo và đạo quả chẳng thể nắm bắt được. (Q.383, ĐBN)
Này Thiện Hiện! Như thế, đại Bồ tát
khi tu hành Bát Nhã thậm thâm, tuy vì hữu tình an lập Thánh quả có nhiều bậc
sai biệt, mà chẳng phân biệt Thánh quả như thế ở cảnh giới hữu vi hay cảnh giới
vô vi an lập sai khác.
- Bạch Thế Tôn! Nếu chẳng phân biệt
Thánh quả như thế ở cảnh giới hữu vi hoặc cảnh giới vô vi mà an lập sai biệt
thì tại sao Thế Tôn nói dứt ba gút(8) gọi quả Dự lưu, mỏng dục tham sân gọi quả
Nhất lai, dứt thuận hạ phần(9) năm gút gọi quả Bất hoàn, dứt thuận thượng
phần(10) năm gút gọi là A la hán, khiến bao nhiêu pháp nhóm đều thành pháp diệt
gọi là Độc giác Bồ đề, dứt hẳn tất cả tập khí nối nhau gọi là Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề? Vậy, làm sao con biết nghĩa Phật đã nói là chẳng phân
biệt Thánh quả như thế ở cảnh giới hữu vi hoặc cảnh giới vô vi mà an lập sai
biệt?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Theo ý ông: Các
Thánh quả đã nói là quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, quả vị Độc giác,
quả vị Giác ngộ tối cao, như thế là Thánh quả hữu vi hay là Thánh quả vô vi?
Thiện Hiện đáp:
- Thánh quả như thế đều là vô vi,
chẳng phải là hữu vi.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Trong pháp vô vi,
có phân biệt chăng?
Thiện Hiện đáp:
- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện
Thệ! Không!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Nếu
thiện nam thiện nữ thông đạt tất cả hữu vi, vô vi đều đồng một tướng, đó là vô
tướng, thì thiện nam thiện nữ ấy, ngay lúc đó, đối với các pháp có phân biệt
đây là hữu vi, hoặc vô vi chăng?
Thiện Hiện đáp:
- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện
Thệ! Không!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát cũng
lại như thế, khi hành Bát Nhã thậm thâm, tuy vì hữu tình tuyên thuyết các pháp
nhưng chẳng phân biệt pháp tướng đã thuyết, đó là pháp không nội, pháp
không ngoại, pháp không nội ngoại, hoặc pháp không không… cho đến pháp không
không tánh tự tánh.
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát ấy, đối
với các pháp không có chấp trước, cũng luôn dạy người đối với các pháp
không chấp trước, đó là đối với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát
Nhã hoặc đối với tứ thiền tứ định, ba mươi bảy pháp trợ đạo; mười tám pháp bất
cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, đều không chấp trước. Vì
không chấp trước nên đối với tất cả xứ đều được vô ngại. Như hóa Phật mà chư
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hóa ra, tuy hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh
tấn, tịnh lự, Bát Nhã được đắc quả, nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng
trước, chỉ vì hữu tình ban Niết bàn; tuy hành tất cả các thiện pháp, nhưng đối
với các quả do tu hành mà được, cũng chẳng thọ, chẳng trước, chỉ vì hữu tình mà
ban Niết bàn.
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát cũng
giống như thế, khi hành Bát Nhã thậm thâm đối với tất cả pháp hoặc thế gian
hoặc xuất thế gian, hoặc hữu lậu hoặc vô lậu, hoặc hữu vi hoặc vô vi... đều vô
sở trụ, vô chướng ngại. Vì sao? Vì hoàn toàn như đạt thật tướng của tất cả pháp
vậy”. (Q. 383, ĐBN)
Thích nghĩa:
(1). Theo bản dịch ĐBN đã củ soát
đăng trong thuvienhoasen.org thì phẩm “Các Tướng Công Đức” bắt đầu từ cuối
quyển thứ 379. Còn theo tuvienquangduc.com thì phẩm “Các Tướng Công Đức” bắt
đầu từ quyển 380. Nếu theo bản gốc bằng chữ Hán đăng trong hoavouu.com thì bản
củ soát trong thuvienhoasen.org theo đúng bản chữ Hán
hơn. Sở dĩ, hai bản dịch có sai khác như vậy là vì bản gốc bằng chữ Hán
không phân chia rõ ràng như cách trình bày theo Tây Âu ngày nay. Chúng tôi
phần lớn tóm lược Kinh này, lấy bản đã củ soát trong thuvienhoasen.org hay
quangduc.com hay bản gốc trong tuvienquangduc.com phối hợp tham chiếu, nếu có
thắc mắc thì chúng tôi tham thảo thêm bản chữ Hán. Tuy nhiên, xin độc giả đừng
quá chú trọng vào hình thức mà quên đi ý Kinh. Nói như vậy cũng không đúng lắm,
vì nếu chiết giảng một phẩm mà cắt đầu thêm đuôi, lẫn lộn quyển nọ với quyển
kia, thì sẽ làm sai lạc ý Kinh. Chúng tôi, người tóm lược và chiết giải Kinh
phải có bổn phận trình bày cho đúng với Kinh sách để khỏi bị thất thố.
(2). Thập tưởng: (十想) Chỉ cho 10 tư tưởng hoặc 10 điều phải quán tưởng.
Đó là: 1- Vô thường tưởng: Quán xét tất cả các pháp hữu vi luôn
luôn sinh diệt, vô thường biến hoại. 2- Khổ tưởng: Quán xét tất cả pháp
hữu vi là vô thường, luôn bị 3 khổ, 8 khổ bức bách. 3- Vô ngã tưởng:
Quán tưởng tất cả pháp là khổ, cũng không tự tại, đều do nhân duyên sinh và
không có tự tính, cho nên là vô ngã. 4- Thực bất tịnh tưởng: Quán tưởng
tất cả thức ăn uống của thế gian đều từ các nhân duyên nhơ nhớp sinh ra, tất
thảy là vật bất tịnh. 5- Nhất thiết thế gian bất khả lạc tưởng: Quán
tưởng tất cả thế gian không có một điều gì là vui thú, chỉ toàn là tội lỗi, xấu
ác. 6- Tử tưởng: Quán tưởng về cái chết. 7- Bất tịnh tưởng: Quán
tưởng 36 vật bên trong thân con người và 9 cái lỗ ở ngoài thân đều bài tiết ra
những thứ hôi thối, nhớp nhúa. 8- Đoạn tưởng. 9- Ly dục tưởng. 10-
Tận tưởng. Ba tưởng sau cùng là quán tưởng được Bồ đề niết bàn, đoạn trừ
phiền não, lìa bỏ cõi mê sống chết và dứt hết hoặc nghiệp sinh tử. Về sự đồng
dị giữa Thập tưởng và Cửu tướng quán (tức Cửu tưởng, là 9 pháp quán bất tịnh về
xác chết của con người nhằm diệt trừ tham dục) thì luận Đại trí độ quyển 21 có
nêu ra nhiều thuyết. Có thuyết cho rằng Cửu tướng quán chưa được thiền định,
vẫn còn bị dâm dục ngăn che, còn Thập tưởng thì có năng lực diệt trừ 3 độc như
dâm dục... Hoặc cho rằng Cửu tướng quán là sơ học, còn Thập tưởng là thành tựu.
Hoặc có thuyết chủ trương Thập tưởng và Cửu tướng quán đồng là lìa dục, đều là
Niết bàn. Cũng có thuyết cho rằng Cửu tướng quán là nhân, còn Thập tưởng là
quả. Lại có thuyết chủ trương Cửu tướng quán là môn ngoài, mà Thập tưởng là môn
trong. [X. Kinh Đại phẩm Bát Nhã Q.1; Đại thừa nghĩa chương Q.14] - Phật Quang
từ điển.
Người xưa lắm lời nhiều ý quá, nhiều
khi độc giả chẳng khác nào người câm ăn phải mướp đắng, hậu bối có bao giờ nghĩ
cặn kẽ như thế đâu! TB
(3). Bốn niệm trụ và bốn chánh đoạn: Vì hai
pháp tu này thường lẫn lộn, khó nhớ nên chúng tôi ghi lại nguyên văn của Kinh
ĐBN, để lưu ý độc giả!
(4). An lập: (安立) Tức là bày đặt các nghĩa sai biệt. Cũng tức là
dùng lời nói, danh tướng để phân biệt các sự vật khác nhau. Trái lại là phi an
lập. Phi an lập là vượt lên trên sự sai biệt tương đối, không dùng lời nói và
danh tướng để bày tỏ. Duy Thức Nhị Thập Luận Thuật Ký quyển
thượng có nêu lên bốn nghĩa an lập, tức là: 1- An trí, là đối với sự lý đã tồn tại,
thành lập cái căn cứ tồn tại của sự lý ấy, cũng
gọi là kiến lập, thành lập. 2- Thi thiết, là dùng đạo lý rộng rãi
đặt bày cái lý thú của giáo pháp. 3- Khai diễn, đối với thuyết cũ đã
nói rồi, thì nói thêm cho rộng ra. 4- Khả kiến, là đối với cảnh giới thuộc pháp
tính đã dứt mọi đường nói năng tư lự, thì đem giáo lý tương xứng
và dùng lời nói có thể thông suốt cảnh giới ấy để miêu tả. Cũng sách đã dẫn,
bảo luận sư Trần Na gọi chung Năng lập, Năng phá đều là an lập; tức hay lập
thuyết Đại thừa Duy Thức của tông mình, hay phá luận chấp trước hữu cảnh của
tông người, cho nên gọi là An lập. Lại theo luận Đại-tì-bà-sa quyển 121, thì an
lập quả, nghĩa là dựa vào phong luân mà an lập thủy luân, lại dựa vào thủy luân
mà an lập kim luân, rồi cứ như thế mà an lập đại địa cho đến an lập tất cả hữu
tình, vô tình; cũng tức là cái kết quả được an lập trên một cơ sở nào đó, gọi
là An lập quả. Ở đây, an lập là nghĩa an trí, kiến lập, tương đương với
nghĩa thành lập trong Duy Thức Nhị Thập Luận Thuật Kí. Ngoài ra, đối với
bản chất của chân như (lý chân đế), đặt bày những lời nói
danh tướng khác nhau để giải thích, gọi là An lập đế; còn lìa tất cả lời nói,
danh tướng, do lập trường siêu việt tuyệt đối mà thể ngộ lý chân như,
thì gọi là Phi an lập đế. Luận Thành Duy Thức quyển 9 nói, trong Tướng Kiến
Đạo, nếu quán Phi an lập đế, thì có ba phẩm tâm, mà nếu duyên theo An lập đế,
thì có mười sáu tâm. Lại Đại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương quyển 2 phần cuối,
bảo bốn loại Thế tục đế thuộc về An lập đế, mà trong bốn loại Thắng nghĩa đế
thì ba loại trước cũng thuộc An lập đế, chỉ có loại sau cùng là Thắng nghĩa đế
thuộc Phi an lập đế mà thôi. [X. Kinh Vô Lượng Thọ Q.thượng; luận Câu Xá Q.11;
luận Thành Duy Thức Q.8; Thành Duy Thức Luận Thuật Kí Q.9 phần cuối; Thắng Man
Bảo Quật Q.thượng phần cuối]- Phật Quang tự điển.
Nói nôm na an lập hay thiết lập,
thiết định là các giáo lý (có tánh cách qui ước) mô tả về thực tại được tạo lập
nhất thời bằng ngôn ngữ, qua đó, cho dù có siêu việt thực tại, nhưng vẫn là thứ
được thiết định tạm thời (s: pratisthā, pratisthita, ropana, vyavasthāna,
sanniveśa).
(5). Hắc pháp và bạch pháp: Hắc pháp
là chỉ cho các pháp xấu ác hoặc các pháp hữu lậu bất thiện. Bạch pháp là chỉ
chung các thiện pháp, pháp lành, các thiện pháp vô lậu, trái với hắc pháp kể
trên.
(6). Tất Cánh
Không: Tất cánh (atyanta)cũng gọi cứu
cánh, rốt ráo, tối hậu, tuyệt đối. Tất Cách Không (Atyanta-sunyata): Cái Không
tối hậu, cái Không tuyệt đối. Thí dụ: Chân lý thanh tịnh tuyệt đối (Niết
bàn, thật tướng, tánh không...) xa lìa phiền não ô nhiễm thì gọi là Tất cánh
tịnh.
(7). Vô Tế Không: Vô
tế (Anavaragra) không có giới biên; Vô Tế Không
(Anavaragra-sunyata): Cái Không không biên tế, cái Không
của biên tế cũng không nốt.
Tất Cánh Không và Vô Tế Không là hai
pháp không trong 18 pháp không (sunyata) do Bát Nhã đề xướng. (Xem lại thích
nghĩa trong phần thứ I Tổng luận).
(8). Gút, kết hay kiết là sự trói
buộc, chỉ cho phiền não. Đã giải thích rồi.
(9). Ngũ thuận hạ phần kết (五下分結)
Phạm: Paĩca-àvarahàgìya-saôyo= janàni. Gọi tắt: Ngũ hạ kết, Ngũ hạ. Đối lại:
Ngũ thượng phần kết. Chỉ cho 5 thứ kết hoặc (phiền não buộc chặt) thuận theo hạ
phần giới, tức là 5 thứ kết hoặc thuộc hạ phần giới (cõi Dục) trong 3 cõi. Năm
thứ kết hoặc này buộc chặt chúng sinh trong cõi Dục, khiến không thể nào thoát
ra được. Ngũ hạ phần kết là: 1- Dục tham: Đối với cảnh vừa ý sinh tâm tham đắm,
không biết thế nào là đủ. 2- Sân khuể: Đối với cảnh trái ý nổi lòng giận tức,
mãi không thôi. 3- Hữu thân kiến: Đối với danh (tâm), sắc (sắc thân), 5 ấm, 12
nhập, 18 giới, vọng chấp là thân, bám chặt vào ngã kiến. 4- Giới cấm thủ kiến:
Chấp lấy các tà giới phi lý, vô đạo. 5- Si: Tâm mê trái lý, ngờ vực
không quyết, do sự ngờ vực này mà mê chân theo vọng, bỏ giác hợp trần. Do 2 kết
Dục tham và Sân khuể nói trên mà chúng sinh cõi Dục không thể thoát ra khỏi cõi
Dục, nếu người có khả năng vượt thoát nhưng lại do 3 kết sau (Hữu thân kiến,
Giới cấm thủ kiến, Nghi) nên cuối cùng cũng trở lại cõi Dục, vì thế lập riêng 5
thứ kết hoặc này mà gọi là Thuận hạ phần kết. Ngũ thuận hạ phần kết lấy 31 việc
làm tự tính, Dục tham và Sân khuể mỗi thứ đều là sở đoạn (cái được đoạn trừ)
của 5 bộ cõi Dục, cho nên có 10 việc; Hữu thân kiến là Kiến khổ sở đoạn (phiền
não do Kiến đạo dứt trừ) trong 3 cõi, vì thế có 3 việc; Giới cấm thủ kiến đều
là sở đoạn của Kiến đạo và Tu đạo trong 3 cõi, cho nên có 6 việc; Nghi đều là
sở đoạn của 4 bộ trong 3 cõi, vì thế có 12 việc, tổng cộng là 31 việc. [X. Kinh
Tạp a hàm Q.32; luận Câu xá Q.21; luận Đại tì bà sa Q.49; luận Thuận chính lý Q.54; Đại
thừa nghĩa chương Q.5, phần cuối]. (xt. Ngũ Bộ)- Từ điển Phật Quang.
(10). Ngũ thuận thượng phần kết: (五上分結)
Phạm: Paĩcaùrdhvabhàgìyasaôyojanàni. Gọi tắt: Ngũ thượng kết, Ngũ thượng. Năm
thứ phiền não (kết = thắt, buộc) trói buộc chúng sinh ở 2 cõi Sắc và Vô sắc
thuộc thượng phần giới, làm cho không ra khỏi được 2 cõi này. Đó là: 1- Sắc
tham: Phiền não tham đắm 5 món dục lạc của cõi Sắc. 2- Vô sắc tham: Phiền não
tham đắm cảnh giới thiền định của cõi Vô sắc. 3- Điệu cử: Chúng sinh trong 2
cõi trên do tâm niệm loạn động mà lui mất thiền định. 4- Mạn: Chúng sinh trong
2 cõi trên do tâm kiêu mạn mà cậy mình, lấn lướt người khác. 5- Vô minh: Phiền
não do tham đắm thiền định mà không rõ biết chân tính. Năm phiền não (kết) này
lấy 8 việc ở cõi trên do Tu đạo đoạn trừ trong thân bậc Thánh làm tự tính,
nghĩa là Sắc tham, tức ái của cõi Sắc do Tu đạo đoạn trừ (1 việc); Vô sắc tham,
tức là ái của cõi Vô sắc do Tu đạo đoạn trừ (1 việc); Điệu cử tức là Điệu cử
của 2 cõi trên đều do Tu đạo đoạn trừ (2 việc); Mạn tức là Mạn của 2 cõi trên
đều do Tu đạo đoạn trừ (2 việc); Vô minh tức là Vô minh của 2 cõi trên đều do
Tu đạo đoạn trừ (2 việc). Ngũ thượng phần kết này chỉ giới hạn ở Tu đạo đoạn
chứ không chung cho Kiến đạo đoạn, vì những phiền não (kết hoặc) do Kiến đạo đoạn
thường làm cho con người sa đọa, cho nên không được lập làm Thượng phần kết.
[X. Kinh Chúng tập trong Trường a hàm Q.8; luận Câu xá Q.21; luận Đại tì bà sa
Q.49; luận A tì đạt ma phát trí Q.3; luận Thành thực Q.10]. (xt. Ngũ Hạ Phần
Kết). - Tự điển Phật Quang. Đã thích nghĩa rồi, nhắc lại để nhớ!
Lược giải:
Phần đầu của phẩm “Các Tướng Công
Đức”, liệt kê tất các pháp mầu Phật đạo hay còn gọi là 81 khoa danh tướng Bát
Nhã mà chúng tôi gộp lại thành một phần riêng gọi là phần thứ I Tổng luận, một
trong ba phần chính của thiên Tổng luận này, tổng cộng hơn 100 trang. Nên trong
phần lược giải của phẩm này chúng tôi không lặp lại nữa.
Chúng ta, cố gắng tụng đọc các giáo
lý của phần sau phẩm này mà thôi. Đây là tất cả giáo lý được xem là quan trọng
trong việc đọc tụng thọ trì không những đối với Kinh ĐBN mà cho cả hệ Bát Nhã
nữa!
1. Tất cả pháp
đều không thể nắm bắt được. Trong cái chẳng thể nắm bắt được; không có
hữu tình, không có sự an lập hữu tình; không có sắc, không có sự an lập của
sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, không có sự an lập của thọ, tưởng, hành,
thức; không có 12 xứ, 18 giới, không có sự an lập của 12 xứ, 18 giới; nói rộng
ra không có tất cả pháp Phật, cũng không có sự an lập của tất cả pháp Phật.
Tất cả hữu tình, pháp và sự an lập
đều bất khả đắc. Do bất khả đắc, nên hoàn toàn vô sở hữu. Vì vô
sở hữu nên biết nội không, nên biết ngoại không, nội ngoại không… cho đến vô
tánh tự tánh cũng không. Nên biết chơn như không, nên biết pháp giới, pháp
tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế… cũng không.
Nên biết bốn Thánh đế không. Nên biết tứ thiền, tứ định, 18 pháp bất
cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cũng không. Nên biết tất
cả cõi Phật không, nên biết thành thục hữu tình cũng không, thanh tịnh Phật độ
cũng không.
Đại Bồ tát khi hành Bát nhã Ba la
mật thậm thâm, thấy tất cả pháp đều không rồi, vì các hữu tình tuyên thuyết
các pháp, khiến lìa điên đảo; tuy vì hữu tình tuyên thuyết các pháp nhưng
đối với hữu tình hoàn toàn không có sở đắc, đối với tất cả pháp cũng
không có sở đắc, đối với tướng không cũng chẳng tăng chẳng giảm, chẳng thủ
chẳng xả. Do nhân duyên ấy, tuy thuyết các pháp nhưng không có sở thuyết.
Đại Bồ tát ấy, đối với tất cả pháp
khi quán như thế, chứng được trí vô ngại. Do trí này nên chẳng hoại các pháp,
không phân biệt hai vì hữu tình như thật tuyên thuyết, khiến lìa chấp trước
vọng tưởng điên đảo, tùy theo căn cơ mà đạt quả Tam thừa.
Đây là quan điểm thiết yếu
của Bát Nhã. Bát Nhã hay tất cả chư Phật chư Bồ tát không an lập hữu tình. Hữu
tình nương Bát Nhã, nương các bậc thang giáo lý mà tự vươn lên trong ánh sáng
giác ngộ. Không ai có thể an lập cho ai cả. Vì vậy kinh luôn luôn nhắc tất cả
các pháp vô sở hữu, bất khả đắc, các pháp là không... Và khi tuyên bố như vậy
thì Kinh bảo bậc sơ học Đại thừa đừng kinh đừng khủng cũng đừng hoang mang hối
tiếp.
2. Ví như có
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hóa thành một hóa Phật, rồi vị hóa Phật này lại có
thể hóa làm vô lượng trăm ngàn triệu ức chúng sanh. Khi ấy, vị hóa Phật kia
khuyên bảo răn dạy số chúng sanh đã hóa ra ấy, hoặc tu
hành lục Ba la mật hoặc tu hành tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 37 pháp
trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, thì
khi ấy vị hóa Phật và chúng sanh được hóa ra đối với các pháp không có phân
biệt, nên không phá hoại các pháp. Vì người được biến hóa không thể phân biệt.
Do nhân duyên đây phải biết đại Bồ tát cũng lại như thế. Hành Bát nhã Ba la
mật thậm thâm, vì các hữu tình như thật thuyết pháp dù chẳng phân biệt phá hoại
pháp tướng mà năng như thật an lập hữu tình, khiến họ an trụ bậc nên trụ; tuy
đối với hữu tình và tất cả pháp hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được nhưng khiến
hữu tình giải thoát vọng tưởng điên đảo chấp trước, lấy bản tánh không buộc
không mở của các pháp làm phương tiện. Vì sao?
Vì bản tánh sắc không buộc không
mở, bản tánh thọ, tưởng, hành, thức cũng không buộc mở. Nếu bản tánh của
sắc không buộc không mở thời chẳng phải sắc; nếu bản tánh thọ, tưởng, hành,
thức không buộc không mở thời chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì sắc
cho đến thức rốt ráo tịnh vậy. Bản tánh của 12 xứ, 18 giới không
buộc không mở; bản tánh của tất cả pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định
vô sắc, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác
ngộ tối cao cũng không buộc không mở. Nếu bản tánh của tất cả pháp Phật không
buộc không mở thì chẳng phải là tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì 12 xứ, 18 giới...
cho đến tất cả pháp Phật rốt ráo thanh tịnh vậy.
Bản tính của tất cả pháp cũng như
thế, vì tất cả pháp đều bất khả đắc, bất khả đắc tức không thể nắm bắt được.
Nếu không nắm bắt được thì vọng niệm điên đảo không sanh, hay nói khác là tâm
thể vắng lặng. Nếu tâm thể vắng lặng, nên thấy đâu đâu cũng cùng toàn một
màu thanh tịnh: Trời xanh vẫn là trời xanh, mây trắng vẫn là mây trắng, hòn
núi kia ngàn năm vẫn là hòn núi cũ, không vì bản tánh của nó mà nói đẹp nói
xấu, nói cao nói thấp, nói lớn nói nhỏ. Khi tâm lặng lẽ thì núi vẫn là núi,
sông vẫn là sông. Tất cả người vật, trong ngoài đều thanh tịnh như nhau!
Nên Kinh nói: “Bản tánh
của pháp thế gian không buộc không mở, bản tánh của pháp xuất thế gian cũng
không buộc không mở; bản tánh của pháp thế gian không buộc không mở thì chẳng
phải là pháp thế gian, bản tánh của pháp xuất thế gian không buộc không mở thì
chẳng phải là pháp xuất thế gian. Vì sao? Vì pháp thế gian, pháp xuất thế gian
rốt ráo thanh tịnh vậy”.
3. Đại Bồ tát
khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, lấy vô sở trụ làm phương tiện, nên
an trụ trong cái vô sở đắc của tất cả pháp, nghĩa là lấy vô sở trụ làm phương
tiện nên không an trụ ở sắc, không an trụ ở thọ, tưởng, hành, thức; không an
trụ ở 12 xứ, 18 giới; không an trụ ở tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 37
pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến không an trụ kể cả quả
vị Giác ngộ tối cao.
Sắc vô sở trụ, thọ tưởng hành thức
cũng vô sở trụ, tất cả pháp cũng đều vô sở trụ. Sắc không vô sở trụ; thọ tưởng
hành thức không vô sở trụ, tất cả pháp không cũng vô sở trụ. Vì sao? Vì sắc
vô tự tánh bất khả đắc, thọ tưởng hành thức vô tự tánh bất khả đắc; tất cả
pháp vô tự tánh cũng bất khả đắc. Sắc không vô tự tánh bất khả đắc, thọ tưởng
hành thức không cũng vô tự tánh bất khả đắc; tất cả pháp không vô tự tánh bất
khả đắc. Vì chẳng phải tất cả pháp không vô tự tánh, bất khả đắc mà có chỗ trụ.
Trụ chỗ vô sở trụ mới gọi là chơn trụ.
Pháp thế gian vô sở trụ, pháp xuất
thế gian cũng vô sở trụ. Pháp thế gian không vô sở trụ, pháp xuất thế gian
không cũng vô sở trụ. Vì sao? Vì pháp thế gian vô tự tánh bất khả đắc, pháp
xuất thế gian cũng vô tự tánh bất khả đắc. Rồi chính pháp thế gian không, vô tự
tánh bất khả đắc, pháp xuất thế gian không cũng vô tự tánh bất khả đắc. Chẳng
phải tất cả pháp không, pháp vô tự tánh bất khả đắc mà có chỗ trụ. Trụ chỗ vô
sở trụ mới gọi là trụ! Vì sao?
Vì chẳng phải pháp vô tánh trụ pháp
vô tánh, chẳng phải pháp hữu tánh trụ pháp hữu tánh. Chẳng phải pháp tự tánh
trụ pháp tự tánh, chẳng phải pháp tha tánh trụ pháp tự tánh, chẳng phải pháp tự
tánh trụ pháp tha tánh. Vì sao? Vì tất cả pháp này đều bất khả đắc. Pháp bất
khả đắc trụ ở đâu? Như vậy, đại Bồ tát khi hành Bát nhã Ba la mật như thế, đem
cái "Không" này mà tu khiển các pháp, rồi như thật chỉ dạy chúng hữu
tình.
Đại Bồ tát thường hành Bát nhã Ba la
mật thậm thâm như thế, đối Phật, Bồ tát, Độc giác, Thanh văn, tất cả Thánh chúng
đều không có lỗi. Vì sao? Chư Phật, Bồ tát, Độc giác, Thanh văn, tất cả Thánh
chúng đối pháp tánh này đều năng tùy giác. Đã tùy giác rồi, vì các hữu
tình tuyên nói không trái. Tuy vì các hữu tình tuyên nói các pháp mà đối pháp
tánh không chuyển không vượt. Vì sao? Vì thật tánh các pháp tức chơn như,
pháp giới. Chơn như, pháp giới như thế đều chẳng khá chuyển khá vượt. Vì
sao? Vì chơn như, pháp giới như thế đều vô tự tánh thì làm thế nào có chuyển có
vượt được?
4. Nếu chơn
như, pháp giới chân thật không chuyển, không vượt thì uẩn, xứ, giới cùng
với chơn như, pháp giới chẳng có sai khác. Pháp Phật, pháp thế gian, pháp xuất
thế gian cùng với chơn như, pháp giới cũng chẳng có sai khác. Chư Phật căn
cứ vào tục đế an lập nhân quả sai biệt như thế, chẳng căn cứ vào thắng nghĩa
đế. Trong thắng nghĩa, chẳng thể nói có nhân quả sai biệt. Vì sao? Vì trong
thắng nghĩa, tất cả pháp tánh (tánh tất cả pháp) chẳng thể phân biệt, vô thuyết
vô thị, làm sao có nhân quả sai khác được.
Trong thắng nghĩa đế, sắc không
sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; thọ, tưởng, hành, thức cũng không
sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.
Trong thắng nghĩa đế, 12 xứ, 18 giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không
tịnh, vì tất cánh không, vô tế không. Trong thắng nghĩa đế, tất cả pháp Phật
cũng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế
không. Trong thắng nghĩa đế, pháp thế gian, pháp xuất thế gian, pháp hữu
lậu, pháp vô lậu, pháp hữu vi, pháp vô vi cũng không sanh, không diệt, không
nhiễm, không tịnh, vì tất cánh không, vô tế không.
Phàm phu ngu si không thật biết Thế
đế (còn gọi là tục đế - tương đối), không thật biết Thắng nghĩa đế (còn gọi là
Thánh đế - tuyệt đối), không thật biết Thánh đạo, nên không tu Thánh đạo thì
làm sao được Thánh quả sai biệt. Chỉ có Thánh giả có khả năng như thật biết tục
đế và thắng nghĩa đế, biết có Thánh đạo, có tu Thánh đạo. Vì vậy, mới đắc Thánh
quả sai khác.
Nhưng chẳng phải tu Thánh đạo có thể
đắc Thánh quả, cũng chẳng phải chẳng tu Thánh đạo có thể đắc Thánh quả, chẳng
phải lìa Thánh đạo có thể đắc Thánh quả, cũng chẳng phải trụ trong Thánh đạo có
thể đắc Thánh quả. Vì sao? Vì trong thắng nghĩa đế, đạo và đạo quả chẳng thể
nắm bắt được(bất khả đắc).
Như thế, đại Bồ tát khi tu hành Bát
nhã Ba la mật thậm thâm, tuy vì hữu tình an lập Thánh quả có nhiều bậc sai
khác, mà chẳng phân biệt Thánh quả như thế ở cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi
sai khác.
Nếu thiện nam thiện nữ thông đạt tất
cả pháp hữu vi, vô vi đều đồng nhất tướng, chỗ gọi là vô tướng, thì thiện nam
thiện nữ ấy, ngay lúc đó, đối với các pháp không phân biệt. Đại Bồ tát
cũng lại như thế, khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, tuy vì hữu tình tuyên
thuyết các pháp nhưng chẳng phân biệt pháp tướng đã thuyết, đó là pháp không nội,
pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, hoặc pháp không không… cho đến pháp
không không tánh tự tánh. Đại Bồ tát ấy, đối với các pháp không có sự
chấp trước, cũng luôn dạy người đối với các pháp không chấp trước, đó là
đối với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã hoặc đối với tứ
thiền bát định, 37 pháp trợ đạo; 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả
vị Giác ngộ tối cao, đều không chấp trước. Vì không chấp trước nên đối với tất
cả thời xứ đều không ngăn ngại. Như hóa Phật mà chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác
hóa ra, tuy hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã được
đắc quả, nhưng đối với quả ấy chẳng thọ, chẳng trước, chỉ vì hữu tình ban Niết
bàn; tuy hành tất cả các thiện pháp, nhưng đối với các quả do tu hành mà được,
cũng chẳng thọ, chẳng trước, chỉ vì hữu tình ban Niết bàn.
Đại Bồ tát cũng vậy khi hành Bát nhã
Ba la mật thậm thâm đối với tất cả pháp hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc
hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc hữu vi, vô vi, đều vô sở trụ, thì không còn ngăn
ngại. Vì sao? Vì hoàn toàn như đạt thật tướng của tất cả pháp vậy.
Người nào đạt được thật tướng của
tất cả pháp như vậy, người ấy chứng được chơn như, pháp giới hay nói khác là
giác ngộ!
Kết kuận:
Trên đây chỉ là tóm lược của tóm
lược, không có gì gọi là giải luận. Vì tất cả pháp Phật còn gọi là các pháp mầu
Phật đạo đều được giải thích ở phần thứ I Tổng luận rồi. Nên ở đây, không có gì
để nói thêm. Tuy nhiên, phần sau của phẩm này Kinh nhắc nhở: Tất cả pháp đều
không, không thành không hoại, không sanh không diệt, không nhiễm không tịnh,
không thể nắm bắt, vô sở hữu, bất khả đắc. Nên không thủ, không xả, không trụ,
không chứng, không đắc, không phân biệt, không chấp nữa. Đó là những giáo lý
thậm thâm của Đại Bát Nhã, được xiển dương và được nhắc đi nhắc lại nhiều lần
trong toàn thể đại phẩm này. Nên ở đây chỉ nói lược. Hứa hẹn, phần thứ III Tổng
luận sẽ đúc kết và thuyết giảng cặn kẽ hơn.
Chỉ cần nhớ rằng Bát nhã Ba la mật
hay tất cả pháp Phật hay chư Phật chư Bồ tát… không an lập phần hạn cho tất cả hữu
tình. Chỉ có hữu tình không ai khác hơn hữu tình phải tự mình vươn lên trong
ánh sáng giác ngộ. Đừng mong cầu nắm bắt, đừng nương vịn hay ỷ lại bất cứ giáo
pháp nào dù được xem là thắng diệu nhất. Đó là ý nghĩa của phần sau phẩm “Các
Tướng Công Đức”.
---o0o---