PHẨM “HỌC ĐẠO KHẮP”
Phần cuối quyển 366 cho đến phần đầu quyển 372, Hội thứ I,
ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Biển Học” quyển thứ 24, KinhMHBNBLMĐ)
Tóm
lược:
Đại Bồ tát thành tựu phương tiện thiện xảo thì tăng trưởng
thiện căn thù thắng. Do thiện căn tăng trưởng thù thắng, nên có khả năng hành Bát
nhã Ba la mật, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, tuy hành Bát nhã Ba
la mật, nhưng chẳng mong cầu được giàu sang, thọ mệnh lâu dài, sanh vào dòng
quý tộc, sanh Thiên hay đắc quả của tuệ, nghĩa là chẳng tham trước cảnh giới
khả ái, cũng chẳng tham cầu quả báo tốt đẹp trong sanh tử do tu lục Ba la mật
mà được, chỉ vì cứu hộ kẻ không ai cứu hộ và muốn giải thoát người chưa giải
thoát, mà tu hành diệu huệ đến bờ kia.
Sở dĩ, đại Bồ tát được diệu huệ như vậy, là vì các đại Bồ tát
đối với tự tánh vô tánh của sắc bất động; đối với tự tánh vô tánh của
thọ, tưởng, hành, thức, bất động; đối với tự tánh vô tánh của mười hai xứ, mười
tám giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất
thiết trí… cho đến quả vị Vô Thượng Bồ đề, cũng bất động. Vì sao? Vì tự tánh các pháp tức là vô tánh, vô tánh chẳng năng hiện
chứng vô tánh. (Q.366, ĐBN)
“Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Có phải pháp hữu tánh có thể hiện chứng vô
tánh chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải pháp vô tánh có thể hiện chứng hữu
tánh chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải pháp hữu tánh có thể hiện chứng hữu
tánh chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải pháp vô tánh có thể hiện chứng vô
tánh chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Nếu vậy, hữu tánh chẳng năng hiện quán
vô tánh, vô tánh chẳng năng hiện quán hữu tánh, hữu tánh chẳng năng hiện quán
hữu tánh, vô tánh chẳng năng hiện quán vô tánh, như vậy làm sao Thế Tôn lại
đắc, lại hiện quán?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Có đắc có hiện quán nhưng lìa tứ cú(1).
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là có đắc có quán nhưng lìa tứ cú?
- Này Thiện Hiện! Hoặc đắc hoặc quán chẳng phải có, chẳng
phải không, dứt bỏ hý luận. Vậy nên, Ta nói có đắc có quán nhưng lìa tứ cú”.
Đại Bồ tát quán sắc hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý
luận; quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường hoặc vô thường, đó là hý luận;
quán sắc hoặc lạc, hoặc khổ, đó là hý luận, quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc
lạc hoặc khổ, đó là hý luận; quán sắc hoặc ngã, hoặc vô ngã, đó là hý luận;
quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc ngã hoặc vô ngã, đó là hý luận; quán sắc hoặc
tịnh hoặc bất tịnh, đó là hý luận; quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc tịnh hoặc
bất tịnh, đó là hý luận; quán sắc hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, đó là hý
luận; quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, đó là hý
luận; quán sắc hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly, đó là hý luận; quán thọ, tưởng,
hành, thức hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly, đó là hý luận. Đại Bồ tát quán mười
hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất
cộng, Nhất thiết trí… cho đến quán quả vị Giác ngộ tối cao của chư Phật hoặc
thường hoặc vô thường, hoặc lạc, hoặc khổ… cho tới viễn ly hoặc chẳng viễn ly,
đó là hý luận.
Lại nữa, Đại Bồ tát nào nghĩ: Thánh đế khổ ta phải biết,
Thánh đế tập ta phải trừ, Thánh đế diệt ta phải chứng, Thánh đế đạo ta phải tu,
đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Ta phải tu tập bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô
sắc, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo,
đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô
nguyện, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải tu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín
thứ đệ định, mười biến xứ, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải vượt khỏi quả Dự lưu
cho đến Độc giác Bồ đề, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải thực hành bố thí cho đến
Bát nhã Ba la mật, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải trụ pháp nội Không cho đến
pháp vô tính tự tính Không, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải trụ chơn như cho đến
cảnh giới bất tư nghì, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải nhập vào Bồ tát Chánh
tánh ly sanh, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải viên mãn thập địa Bồ tát, đó là hý
luận. Hoặc nghĩ: Phải làm phát sanh năm loại mắt, sáu phép thần thông, đó là hý
luận. Hoặc nghĩ: Phải phát sanh Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất
cộng, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải viên mãn ba mươi hai tướng tốt, tám mươi
vẻ đẹp của bậc Đại sĩ, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải làm phát sanh pháp không
quên mất, tánh luôn luôn xả, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải làm phát sanh Nhất
thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải
thực hành tất cả Bồ tát hạnh, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải chứng quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Ta phải trang nghiêm cõi
Phật, thành thục hữu tình, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Ta phải chứng đắc Nhất
thiết trí trí, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Ta phải vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tập
khí phiền não nối nhau, đó là hý luận.
Trái lại, đại Bồ tát khi hành Bát Nhã thậm thâm, chẳng quán
từ sắc cho đến quả vị Giác ngộ tối cao hoặc thường, hoặc vô thường, hoặc ngã,
hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh v.v… chẳng quán như vậy là chẳng hý luận.
Đại Bồ tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, nên quán bốn
tịnh lự, hoặc nên tu hoặc chẳng nên tu, nếu chẳng quán như vậy là chẳng
hý luận. Đại Bồ tát khi hành Bát Nhã, nên quán lục độ, hoặc nên hành hoặc
chẳng nên hành, nếu chẳng quán như vậy là chẳng hý luận. Đại Bồ tát khi
hành Bát Nhã, nên quán 18 pháp không hoặc nên an trụ hoặc chẳng nên an trụ,
nếu chẳng quán như vậy là chẳng hí luận. Đại Bồ tát khi hành Bát Nhã, nên quán
Chánh tánh ly sanh của Bồ tát, hoặc nên hướng nhập hoặc chẳng nên hướng nhập,
đại Bồ tát quán tất cả hữu tình, hoặc nên thành thục hoặc chẳng nên thành
thục, đại Bồ tát quán Phật mười lực, hoặc nên khởi hoặc chẳng nên khởi; đại
Bồ tát quán tất cả tập khí phiền não tương tục, hoặc nên đoạn hoặc chẳng nên
đoạn; đại Bồ tát quán quả vị Giác ngộ tối cao hoặc nên chứng hoặc chẳng
nên chứng, nếu chẳng quán tất cả như vậy là chẳng hý luận.
Đại Bồ tát khi hành Bát Nhã thậm
thâm, nên quán tất cả pháp và các hữu tình như thế
thảy, đều chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý
luận. Vì sao? Vì tất cả pháp hữu tánh chẳng năng hý
luận hữu tánh, vô tánh chẳng năng hý luận vô tánh; hữu tánh chẳng năng hý luận vô tánh, vô tánh chẳng năng hý luận hữu tánh; tánh lìa pháp có, pháp
không, chẳng thể nắm bắt được; hoặc năng hý luận, hoặc sở hý luận, hoặc xứ hý
luận hoặc thời đều vô sở hữu. Vậy nên, sắc vô hý luận, thọ tưởng hành thức vô
hý luận; xứ giới vô hý luận hay nói
khác tất cả pháp Phật cũng vô hý luận. Các đại Bồ tát nên hành Bát Nhã
thậm thâm vô hý luận như thế.
Tại sao tất cả pháp đều vô hý luận? Vì tất cả pháp không
có tự tánh, nên đại Bồ tát khi hành Bát Nhã thậm thâm, quán sắc không có tự
tánh, thọ tưởng hành thức không có tự tánh; quán mười hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ
định vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí v.v… cho đến quả vị Giác
ngộ tối cao không có tự tánh; quán sự đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí phiền
não tương tục cũng không tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên
hý luận. Vì vậy, tất cả Bồ tát hạnh vô hý luận, quả vị Giác ngộ tối cao của
chư Phật vô hý luận; sự đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí phiền não tương tục
cũng vô hý luận.
Nếu đại Bồ tát có khả năng hành Bát Nhã thậm thâm vô hý
luận như thế, thì sẽ đạt được tất cả pháp không có tự tánh nên không còn hý
luận, bèn nhập Bồ tát Chánh tánh ly sanh.
Đại Bồ tát chẳng phải dùng đạo của Thanh văn, chẳng phải dùng
đạo của Độc giác, chẳng phải dùng đạo của chư Phật mà nhập được bồ tát Chánh
tánh ly sanh. Nhưng các đại Bồ tát đối với tất cả đạo, trước học hết rồi, dùng
đạo Bồ tát tức Đạo tướng trí(2) mà nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ tát. Đã nhập
bậc Chánh tánh ly sanh rồi, lại dùng Nhất thiết tướng trí đoạn trừ vĩnh viễn
tất cả tập khí tương tục, nhập bậc Như Lai, như vậy mới thành tựu Nhất thiết
trí trí.
Bồ tát phải học khắp tất cả pháp, tất cả đạo cho thật viên
mãn, phải vượt tám bậc Bát nhân địa, dùng Đạo tướng trí thanh tịnh mà nhập Bồ
tát vị, rồi dùng Kim Cang dụ(3) phát khởi Nhất thiết trí trí, và chỉ cần trong
một sát na tương ưng diệu huệ chư Phật, thì thành tựu Như Lai Chánh Đẳng Chánh
Giác, mới đem quả chứng ấy thành thục hữu tình, thanh tịnh quốc độ, quay bánh
xe pháp, độ khắp hữu tình.
(Đó chính là chủ đề của phẩm “Học Đạo Khắp” này
hay phẩm “Biển Học” của Kinh MHBNBLMĐ).
Tất cả loại Bồ đề phần pháp(4) và các Bồ đề(5) đều chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, không hợp không tan, không sắc không
kiến, không đối, nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Nếu Bồ đề phần pháp như thế làm
sao năng thủ (giữ lấy) Bồ đề? Ví như hư không, đối tất cả pháp không thủ
không bỏ, vì tự tướng không. Các pháp cũng vậy, tự tướng đều không, chẳng phải
đối với các pháp có thủ có xả, làm sao nói Bồ đề phần pháp năng thủ Bồ đề?
Vì tự tướng của tất cả pháp đều không, không thủ, không
xả. Nhưng các hữu tình đối với nghĩa không tự tướng của tất cả pháp, không
hiểu rõ, nên vì thương xót họ mà phương tiện tuyên nói Bồ đề phần pháp có thể
thủ Bồ đề. Hoặc sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức; hoặc xứ, giới, tứ thiền, tứ
vô lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến hoặc
tất cả Bồ tát hạnh; hoặc quả vị Giác ngộ tối cao, hoặc sự đoạn trừ vĩnh viễn
tất cả tập khí tương tục; hoặc cảnh giới hữu vi, hoặc cảnh giới vô vi: tất cả
pháp như thế, ở trong Thánh pháp Tỳ nại da(6) này đều chẳng phải tương ưng,
chẳng phải chẳng tương ưng, không hợp, không tan, không sắc, không thấy, không
đối, nhất tướng đó là vô tướng. Phật vì lợi ích cho các hữu tình khiến họ hiểu
biết đúng đắn, nhập vào thật tướng vì thế tục tuyên nói, chẳng phải vì thắng
nghĩa.
Các đại Bồ tát đối với tất cả pháp như thế, nên học để có tri
kiến; có hiểu biết rồi, như thật thông đạt các pháp nên nhiếp thọ hay chẳng
nên nhiếp thọ. Đại Bồ tát đối với pháp của các bậc Thanh văn, Độc giác, học
để biết rồi nhưng chẳng nhiếp thọ. Trái lại, đối với các pháp tương ưng với
Nhất thiết trí trí, học hiểu biết thông suốt rồi, nên nhiếp thọ. Đại Bồ tát đối
với Thánh pháp Tỳ nại da đây, nên học Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế.
(Tu Vô tướng)
Những gì là Thánh pháp Tỳ nại da?
Hoặc Thanh văn, hoặc Độc giác, hoặc Bồ tát, hoặc Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác. Tất cả như thế đều cùng tham dục giận dữ ngu si chẳng tương
ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan. Đều cùng tất cả tà
kiến, giới cấm thủ, nghi chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp
chẳng tan. Đều cùng dục tham giận dữ chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương
ưng, chẳng hợp chẳng tan. Đều cùng sắc ái, vô sắc ái, sắc động loạn, vô minh
chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan. Đều cùng tất
cả pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 37 trợ đạo, 18 pháp
không, thập nhị chân như, từ bi hỷ xả, tứ Thánh đế hoặc pháp môn tam giải
thoát, hoặc tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc tất cả pháp môn
Tam ma địa, pháp môn Đà la ni, hoặc Bồ tát thập địa… cho đến Nhất thiết
tướng trí chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng
tan; đều cùng với cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi chẳng phải tương ưng, chẳng
phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan. Những pháp ấy gọi là Thánh
pháp Tỳ nại da. Vì sao? Tất cả pháp này, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng
chỗ gọi vô tướng. Các bậc Thánh kia như thật hiện thấy.
Vô sắc cùng vô sắc chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương
ưng, chẳng hợp chẳng tan. Vô kiến cùng vô kiến, vô đối cùng vô đối, nhất tướng
cùng nhất tướng, vô tướng cùng vô tướng cũng chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng hợp chẳng tan. Các đại Bồ tát đối Bát nhã Ba la mật thẳm sâu
vô sắc, vô kiến, vô đối nhất tướng, vô tướng đây thường nên tu học. Học rồi
chẳng thủ đắc tướng của tất cả pháp. (Q.370,
ĐBN)
Đại Bồ tát nên học tướng của sắc, cũng nên học tướng của thọ,
tưởng, hành, thức chăng? Nên học tướng của các xứ, giới… cho đến nên học tướng
của quả vị Giác ngộ tối cao của chư Phật chăng?
Nếu tất cả pháp thật có tướng thì các đại Bồ tát nên học, vì
tất cả pháp thật chẳng phải có tướng, không sắc, không thấy, không đối, nhất
tướng đó là vô tướng. Vì vậy, đại Bồ tát chẳng học pháp hữu tướng, cũng lại
chẳng học pháp vô tướng. Vì sao? Vì Như Lai xuất thế hoặc chẳng xuất thế
thì pháp giới vẫn thường trụ, các pháp nhất tướng đó là vô tướng. Vô tướng như
thế đã chẳng phải hữu tướng cũng chẳng phải vô tướng.
Tất cả pháp chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng
phải nhất tướng, chẳng phải dị tướng. Nếu đại Bồ tát biết tất cả pháp hoặc hữu
tướng, hoặc vô tướng, hoặc nhất tướng, hoặc dị tướng, đều đồng một tướng thì đó
là vô tướng. Tu vô tướng này là tu Bát nhã Ba la mật.
(Tu khiển và tu trừ khiển)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tại sao đại Bồ tát
tu vô tướng này là tu Bát Nhã?
Phật đáp: Vì đại Bồ tát tu khiển tất cả pháp nên
nói là tu Bát Nhã.
Cụ thọ lại hỏi: Bạch Thế Tôn! Thế nào tu khiển tất cả pháp
gọi là tu Bát Nhã?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát tu khiển sắc, cũng khiển tu đây là
tu Bát Nhã; tu khiển thọ, tưởng, hành, thức, cũng khiển tu đây là tu Bát Nhã.
Nếu đại Bồ tát tu khiển tất cả pháp và cũng khiển tu đây là tu Bát Nhã. Đại
Bồ tát khi hành Bát Nhã, nếu nghĩ có sắc, có khiển tu thì chẳng phải tu Bát Nhã.
Vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát Nhã. Đại Bồ tát khi hành Bát Nhã, nếu
nghĩ có Nhất thiết trí trí, có khiển tu đây thì chẳng phải tu Bát Nhã. Nếu nghĩ
có tất cả tập khí phiền não tương tục và nghĩ có sự vĩnh viễn đoạn trừ tất cả
tập khí phiền não tương tục, có khiển tu đây thì chẳng phải tu Bát Nhã. Vì sao?
Vì chẳng phải có tưởng (là) có thể tu Bát Nhã. Vì vậy, nếu
đại Bồ tát tu khiển Nhất thiết trí trí, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la
mật; tu khiển đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí phiền não tương tục, cũng khiển
tu đây là tu Bát nhã Ba la mật(7).
Kẻ trụ vào hữu tưởng, nhất định chẳng có thể tu bố thí,
tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã. Vì sao? Vì kẻ trụ vào hữu tưởng
nếu tu bố thí cho đến Bát Nhã, chắc chắn sẽ chấp ngã và ngã sở; do chấp này mà
thủ trước nhị biên; vì thủ trước nhị biên nên chẳng giải thoát sanh tử, không
đạo, không Niết bàn thì làm thế nào có thể như thật tu bố thí cho đến Bát Nhã!
Kẻ trụ vào hữu tưởng, nhất định chẳng có thể tu 37 pháp trợ
đạo, 18 pháp không, tu đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả… cho đến Nhất thiết trí.
Vì sao? Vì kẻ trụ vào hữu tưởng, nếu tu 37 pháp trợ đạo cho đến Nhất thiết trí,
chắc chắn sẽ chấp ngã và ngã sở; do chấp này mà thủ trước nhị biên; vì thủ
trước nhị biên nên chẳng giải thoát sanh tử, không đạo, không Niết bàn thì làm
thế nào có thể như thật tu 37 Bồ đề phần pháp cho đến Nhất thiết trí.
Kẻ trụ hữu tưởng, nhất định chẳng có thể tu Nhất thiết trí,
Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Vì sao? Vì kẻ trụ hữu tưởng, chắc chắn sẽ
chấp có ngã và ngã sở; do sự chấp này mà thủ trước nhị biên; vì thủ trước nhị
biên nên chẳng giải thoát sanh tử, không đạo, không Niết bàn thì làm thế nào có
thể như thật tu Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí!
(Nhị và Bất nhị)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Cái gì là hữu, cái gì chẳng phải là hữu?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nhị là hữu, bất nhị chẳng phải hữu.
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là nhị, thế nào là bất nhị?
- Này Thiện Hiện! Tưởng sắc là nhị, tưởng sắc không là bất
nhị; tưởng thọ, tưởng, hành, thức là nhị, tưởng thọ, tưởng, hành, thức không là
bất nhị.
- Này Thiện Hiện! Tưởng nhãn xứ là nhị, tưởng nhãn xứ không
là bất nhị; tưởng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là nhị, tưởng nhĩ, tỷ, thiệt,
thân, ý xứ không là bất nhị.
(…)Này Thiện Hiện! Tưởng cảnh giới hữu vi là nhị, tưởng cảnh
giới hữu vi không là bất nhị; tưởng cảnh giới vô vi là nhị, tưởng cảnh giới vô
vi không là bất nhị.
- Này Thiện Hiện! Cho đến tất cả tưởng đều là nhị; cho đến
tất cả nhị là hữu; cho đến tất cả hữu đều là sanh, tử; hễ có sanh, tử thì chẳng
có thể giải thoát sanh, lão, bệnh, tử, sầu, than, khổ, ưu, não.
- Này Thiện Hiện! Các tưởng không đều là vô nhị, vô nhị tức
là phi hữu, phi hữu đều không sanh tử, không sanh tử thì có thể giải thoát
sanh, lão, bệnh, tử…”. (Q. 371, ĐBN)
Do nhân duyên này, nên biết tất cả người tưởng hai, nhất
định không bố thí, không tịnh giới, không an nhẫn, không tinh tấn, không tịnh
lự, cũng không Bát Nhã, không đạo không quả, cũng không hiện quán; cho đến
thuận nhẫn(8) còn chẳng có huống là biết khắp sắc, huống là biết khắp
thọ, tưởng, hành, thức; huống là biết khắp xứ, giới; huống hồ biết khắp tứ
thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho
đến quả vị Giác ngộ tối cao. Họ còn chẳng có thể tu các Thánh đạo huống là
đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, quả vị Độc giác; huống là có thể
đắc Nhất thiết trí trí và có thể đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí phiền não
tương tục. (Q.371, ĐBN)
Thích nghĩa:
(1). Tứ cú: Bốn câu liên quan đến siêu hình của các học phái
ngoại đạo. Đó là: 1- Hữu (có); 2- Vô (không); 3- Diệc hữu (vừa có), diệc vô
(vừa không); 4- Phi hữu (chẳng phải có), phi vô (chẳng phải không). Rơi vào tứ
cú là rơi vào hý luận!
(2). Đạo tướng trí (道種智) Cũng gọi Nhất thiết đạo chủng trí, Đạo chủng
tuệ, Đạo trí, Đạo chủng trí. Trí tuệ biết khắp tất cả các pháp môn sai biệt của
thế gian và xuất thế gian, là Bất cộng trí của Bồ tát; một trong ba trí. Cứ
theo luận Đại trí độ quyển 27 nói, thì trí này có khả năng tư duy phân biệt gọi
là Đạo chủng trí, tức là trí Bồ tát học rộng tất cả đạo pháp để cứu độ chúng
sinh. Tông Thiên thai lấy trí này phối hợp với Giả quán trong ba quán: Không,
Giả, Trung và cho đó là trí hóa đạo do phá trừ Trần sa hoặc(các lậu hoặc nhiều
như cát bụi) mà thành tựu được. [X. phẩm Tựa trong Kinh Đại phẩm Bát Nhã Q.1;
Ma ha chỉ quán Q.3 phần trên; Quan âm huyền nghĩa Q.hạ]. (xt. Nhất Thiết Trí).
- Từ điển Phật Quang.
(3). Kim Cang dụ còn gọi là Kim Cang Dụ Định hay Kim Cang
Tam Muội: Thiền định tối cao của Bồ tát ở giai đoạn tối hậu. Người đạt được
định này sẽ được trí sắc bén, bất hoại như kim cương, có thể cắt đứt tất cả
phiền não câu sanh, những lậu hoặc vi tế tương tục. Đã thích nghĩa ở trước.
(4). Bồ đề phần pháp: Đã thích nghĩa nhiều lần, tuy nhiên
chúng tôi cũng xin lặp lại ngắn gọn cho quý vị độc giả dễ nhớ. Bồ đề phần pháp
nói rộng là tam thập thất Bồ đề phần pháp (37 pháp trợ đạo) gồm: Tứ niệm xứ, tứ
chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần và bát chánh đạo
phần. Vì 37 pháp nầy đều thuận tới Bồ đề, nên gọi là Bồ đề phần pháp. Bồ đề
phần pháp nói rút gọn là Thất Bồ đề phần, gồm: Niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ,
khinh an, định, và xả. (Xem lại thích nghĩa chi tiết ở phần thứ I Tổng luận).
(5). Bồ đề: Có nghĩa là Đạo, Giác, Trí, Tri. Có phiền não
thì không có Bồ đề hay ngược lại. Đắc Bồ đề thì diệt hết phiền não, chứng Niết
bàn. Bồ đề đầy đủ thì thành Như Lai, gọi là Vô Thượng Bồ đề, Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh giác. (Xem thích nghĩa phẩm “Ma ha tát”, phần đầu quyển 49, ĐBN).
(6). Thánh pháp Tỳ nại da: Đã thích nghĩa ở trên. Ở đây
Thánh pháp Tỳ lại da không có nghĩa là chỉ riêng cho luật tạng (một trang ba
tạng: Kinh, luật và luận) mà nói chung bao gồm tất cả Thánh pháp, những kỹ
thuật tu trì v.v… Kinh ĐBN giải thích: “Những pháp ấy (tất cả pháp Phật nói
chung) gọi là Thánh pháp Tỳ nại da. Vì sao? Vì tất cả pháp này, vô sắc, vô
kiến, vô đối, nhất tướng chỗ gọi vô tướng. Vô sắc cùng vô sắc chẳng tương
ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan. Vô kiến cùng vô kiến, vô
đối cùng vô đối, nhất tướng cùng nhất tướng, vô tướng cùng vô tướng cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hợp chẳng tan. Các đại Bồ tát đối Bát
nhã Ba la mật thẳm sâu vô sắc, vô kiến, vô đối nhất tướng, vô tướng đây thường
nên tu học. Học rồi chẳng thủ đắc tướng của tất cả pháp”. Đó là Thánh
pháp Tỳ nại da. (Q.370, ĐBN)
(7). Khiển: Tức khiển trách, chê
trách; trừ khiển hay khiển trừ: Bỏ qua, không trách cứ.
Khiển trách, chê trách là động niệm. Nếu không khiển cũng không trừ khiển thì
động niệm không còn. Tu hành cần nhất là tránh động niệm. Vậy, khiển cũng bỏ mà
trừ khiển cũng bỏ nốt thì tâm mới được bất động. Hai từ này đã thích nghĩa rồi,
nay chỉ tán rộng thêm.
(8). Thuận nhẫn: Tâm nhu nhuyễn tùy thuận chân lý.
Lược
giải:
Học khắp tất cả pháp như biển học, nhưng đại Bồ tát
đối với tất cả pháp mà khởi nghĩ: Nên biết (tất cả pháp), nên tu (bốn tịnh lự),
nên hành (lục độ), nên an trụ (18 pháp không), nên hướng (nhập Chánh tánh ly
sanh), nên khởi (mười lực Phật), nên đoạn (phiền não, tập khí), nên chứng (quả
vị Giác ngộ tối cao), phải nên như thế nọ, phải nên như thế kia… thì đó là hý
luận! Học tất cả như, tất cả pháp vô tướng như hư không mà học là học thậm thâm
Bát Nhã.
“Tất cả pháp này, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, chỗ
gọi vô tướng. Học rồi chẳng thủ đắc tướng của tất cả pháp. Rốt ráo, phải biết
tất cả pháp chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải nhất tướng,
chẳng phải dị tướng. Nếu đại Bồ tát biết tất cả pháp hoặc hữu tướng, hoặc vô
tướng, hoặc nhất tướng, hoặc dị tướng, đều đồng một tướng thì đó là vô
tướng. Tu vô tướng này là tu Bát nhã Ba la mật”.
Đồng một tướng tức vô tướng, cũng tức bình đẳng. Khi thấy
tất cả pháp là vô tướng, tức thấy như như, tức thấy biết bình đẳng, thì tâm thể
mới được an nhiên tịch lặng. Đó chính là tu Bát Nhã.
Thế Tôn ở đây không muốn lặp lại cái tác chứng ở trước là
các pháp không có tự tánh, lấy vô tánh làm tự tánh. Tới đây Thế Tôn nói các
pháp là nhất tướng, chỗ gọi là vô tướng. Nhất tướng là chỉ cho tướng chân như
bình đẳng vô sai biệt, vô tướng là không có tướng mạo, không có hình dạng thì
không thể chấp thật hay giả. Ở đây, Thế Tôn muốn chỉ bày các pháp đều đồng
một tướng. Đồng một tướng tức là như, nó như thế là như thế, chẳng lúc nào
chẳng như, nhưng đừng hiểu là như nhau, và bình đẳng nghĩa là không phân biệt
to nhỏ, hơn kém... Bình đẳng có nghĩa cùng đồng một thể tính. Một khi đạt được
trạng thái này thì không còn thủ tướng, tâm thể mới được an nhiên tịch lặng. Đó
là chỗ tu, chỗ trụ của Bát Nhã.
“Nếu đại Bồ tát tu khiển sắc, cũng khiển tu đây là tu Bát Nhã;
tu khiển thọ, tưởng, hành, thức, cũng khiển tu đây là tu Bát Nhã. Nếu đại Bồ
tát tu khiển tất cả pháp và cũng khiển tu đây là tu Bát Nhã.
Đại Bồ tát khi hành Bát Nhã, nếu nghĩ có sắc, có khiển tu
đây thì chẳng phải tu Bát Nhã. Vì chẳng phải có tưởng là có thể tu Bát Nhã.
Đại Bồ tát khi hành Bát Nhã, nếu nghĩ có Nhất thiết trí trí, có khiển tu đây
thì chẳng phải tu Bát Nhã. Nếu nghĩ có tất cả tập khí phiền não tương tục và
nghĩ có sự vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tập khí phiền não tương tục, có khiển tu
đây thì chẳng phải tu Bát Nhã. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng (là)
có thể tu Bát Nhã. Vì vậy, nếu đại Bồ tát tu khiển Nhất thiết trí trí, cũng
khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật; tu khiển đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập
khí phiền não tương tục, cũng khiển tu đây là tu Bát nhã Ba la mật.
Kẻ trụ vào hữu tưởng, nhất định chẳng có thể tu bố thí,
tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã. Vì sao? Vì kẻ trụ vào hữu tưởng
nếu tu bố thí cho đến Bát Nhã, chắc chắn sẽ chấp ngã và ngã sở; do chấp này mà
thủ trước nhị biên; vì thủ trước nhị biên nên chẳng giải thoát sanh tử, không
đạo, không Niết bàn thì làm thế nào có thể như thật tu bố thí cho đến Bát Nhã”!
Tưởng có, tưởng không đều là động, cầu tịnh mà ngăn động
thì càng động thêm. Vì vậy, khiển hay trừ khiển cũng là động, nên khiển cũng xả
mà trừ khiển cũng xả nốt, thì tâm được tịch lặng an nhiên. Tam Tổ Tăng Xán nói:
“Ngăn
động mà cầu tịnh
Hết ngăn lại động thêm
Càng trệ ở hai bên
Thà rõ đâu là mối”.
(Tín Tâm Minh)
Vì vậy, Kinh kết luận:
“Do nhân duyên này, nên biết tất cả người tưởng hai, nhất
định không bố thí, không tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, cũng không Bát
Nhã, không đạo, không quả, cũng không hiện quán; cho đến thuận nhẫn còn
chẳng có huống là biết khắp sắc, huống là biết khắp thọ, tưởng, hành, thức;
huống là biết khắp xứ, giới; huống hồ biết khắp tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định
vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối
cao. Họ còn chẳng có thể tu các Thánh đạo huống là đắc quả Dự lưu, Nhất lai,
Bất hoàn, A la hán, quả vị Độc giác; huống là có thể đắc Nhất thiết trí trí và
có thể đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí phiền não tương tục”.
Vì vậy, Tam Tổ Tăng Xán mới bảo là phải rõ “đâu là đầu mối”.
Đầu mối đó chính là tâm không phân hai, không có hai tướng (tức bất nhị), nếu
không hai, bất nhị tức là như như bất động. Tâm như như bất động mà các thiền
sư thường bão là “chỗ an nhiên tịch lặng”. Học khắp cả đạo, tu khắp tất cả pháp
cũng không ngoài chỗ này.
---o0o---