PHẨM “NÓI THẬT”
Cuối quyển 363 đến đầu quyển 366, Hội thứ I, ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Đạo Thọ” quyển thứ 24, MHBNBLMĐ)
Tóm
lược:
(Bát nhã Ba la mật này rất sâu)
Chư đại Bồ Tát chẳng thấy có chúng
sanh mà vì chúng sanh cầu Vô Thượng Bồ Đề, đây là việc rất khó. Như người muốn
trồng cây giữa hư không, muốn hưởng kết quả, điều này không thể có. Cũng như
vậy, đại Bồ Tát vì chúng sanh mà cầu Vô Thượng Bồ Đề, nhưng chúng sanh cũng bất
khả đắc, làm sao có thể độ chúng sanh? Hành mà không thấy sở hành, độ mà không
có người đắc độ, cái đó mới khó như người trồng cây chẳng biết có kết quả hay
không mà vẫn yêu quí vun trồng tưới bón, cây lớn dần ra lá, đơm bông, kết trái,
cho hột thành tựu hưởng dụng. Cũng vậy, chư đại Bồ Tát vì chúng sanh cầu Vô
Thượng Bồ Đề, lần lượt hành sáu Ba la mật, được Nhất thiết chủng trí, thành tựu
quả Phật đem lá, hoa, trái, hột lợi ích chúng sanh.
Thế nào là lá lợi ích chúng
sanh?
- Chúng sanh nhờ đại Bồ Tát mà được
lìa khỏi ba ác đạo, đó là lá lợi ích.
Thế nào là hoa lợi ích chúng
sanh?
- Nhờ đại Bồ Tát mà chúng sanh được
sanh làm người thuộc dòng cao quý, được sanh ở cõi Trời Tứ Thiên Vương nhẫn đến
cõi Trời Phi Phi Tưởng, đó là hoa lợi ích.
Thế nào là quả lợi ích chúng
sanh?
- Đại Bồ Tát đó được Nhất thiết chủng
trí làm cho chúng sanh được quả Tu Đà Hoàn nhẫn đến quả Phật, chúng sanh này
lần lần dùng pháp ba thừa nhập vô dư Đại Niết Bàn, đó là quả lợi ích.
Đại Bồ Tát đó chẳng thấy có thật
chúng sanh mà độ chúng sanh khiến lìa ngã chấp điên đảo. Đại Bồ Tát nghĩ rằng:
Trong tất cả pháp không có chúng sanh, ta vì chúng sanh mà cầu Nhất thiết chủng
trí, chúng sanh đó thật bất khả đắc. (Q.24,
MHBNBLMĐ)
(Đại Bồ tát tức là Như Lai)
Vì các đại Bồ tát có khả năng dứt
trừ vĩnh viễn tất cả địa ngục, cũng có khả năng dứt trừ vĩnh viễn tất cả bàng
sanh, quỷ giới, cũng có khả năng dứt trừ vĩnh viễn tất cả nghèo khó, dứt trừ
tất cả đường hạ liệt, cũng có khả năng dứt trừ tất cả cõi Dục, Sắc và Vô sắc
giới.
Nếu không có đại Bồ tát phát tâm
hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao, thì thế gian không có tam thế Phật(1), cũng
không có Độc giác xuất hiện ở đời, cũng không có A la hán; cũng không có khả
năng dứt trừ vĩnh viễn tam ác đạo, dứt trừ nghèo khổ, đường hạ liệt, cũng không
có khả năng dứt trừ ba cõi. Vì vậy, nên biết đại Bồ tát tức là Như Lai.
Vì sao? Nếu do như (trong nghĩa
chơn như) này an lập Như Lai, tức do như này an lập Độc giác. Nếu do như
này an lập Độc giác, tức do như này an lập Thanh văn. Nếu do như này an lập
Thanh văn, tức do như này an lập tất cả Hiền Thánh. Nếu do như này an lập tất
cả Hiền Thánh, tức do như này an lập sắc. Nếu do như này an lập sắc, tức do như
này an lập thọ, tưởng, hành, thức. Nếu do như này an lập thọ, tưởng, hành,
thức, tức do như này an lập 12 xứ, 18 giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô
sắc, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao. Nếu do
như này an lập quả vị Giác ngộ tối cao của chư Phật, tức là do như này an lập
cảnh giới hữu vi. Nếu do như này an lập cảnh giới hữu vi, tức là do như này an
lập cảnh giới vô vi. Nếu do như này an lập cảnh giới vô vi, tức là do như này
an lập tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nếu do như này an lập tất cả Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác, tức là do như này an lập tất cả Bồ tát đạo. Nếu do như này
an lập tất cả Bồ tát đạo, tức là do như này an lập tất cả hữu tình. Nếu do như
này an lập tất cả hữu tình, tức là do như này an lập tất cả pháp.
Như vậy, tất cả pháp như, tất cả hữu
tình như, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như, tất cả đại Bồ tát như, tất cả
là một như, không sai khác; do không sai khác nên gọi là như. Các đại Bồ tát
đối với như này tu học viên mãn, chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, gọi là Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì vậy, nên biết, đại Bồ tát tức là Như Lai, vì tất cả
pháp, tất cả hữu tình lấy như này làm định lượng. Cho nên, đại Bồ tát nên học
như này của Bát nhã Ba la mật.
Các đại Bồ tát nếu học như của Bát
nhã Ba la mật sâu xa, thì có khả năng học tất cả pháp như. Nếu có khả năng học
tất cả pháp như thì có khả năng viên mãn tất cả pháp như. Nếu có khả năng viên
mãn tất cả pháp như, thì đối với tất cả pháp như được an trụ tự tại. Nếu đối
với tất cả pháp như được an trụ tự tại, thì có khả năng biết rõ căn tánh thắng
liệt của tất cả hữu tình. Nếu có khả năng biết rõ căn tánh thắng liệt của tất
cả hữu tình, thì có khả năng thấu rõ sự hiểu biết sai biệt của tất cả hữu tình.
Nếu có khả năng thấu rõ sự hiểu biết sai biệt của tất cả hữu tình, thì biết hữu
tình do tư nghiệp mà thọ quả. Nếu biết hữu tình do tư nghiệp mà thọ quả, thì có
khả năng đầy đủ trí nguyện. Nếu có đầy đủ trí nguyện, thì có khả năng tịnh tu
diệu trí ba đời. Nếu có khả năng tịnh tu diệu trí ba đời, thì có khả năng không
làm ngược lại Bồ tát đạo. Nếu có khả năng không làm nghịch lại Bồ tát đạo, thì
có khả năng như thật thành thục hữu tình. Nếu có khả năng như thật thành thục
hữu tình, thì có khả năng như thật nghiêm tịnh cõi Phật. Nếu có khả năng như
thật nghiêm tịnh cõi Phật, thì có khả năng chứng đắc Nhất thiết trí trí. Nếu có
khả năng chứng đắc Nhất thiết trí trí, thì có khả năng chuyển pháp luân mầu
nhiệm. Nếu có khả năng chuyển pháp luân mầu nhiệm, thì có khả năng an lập hữu
tình ở đạo ba thừa. Nếu có khả năng an lập hữu tình ở đạo ba thừa, thì có khả
năng làm cho hữu tình nhập cảnh giới Niết bàn tuyệt đối.
Các đại Bồ tát thấy tất cả công đức
tự lợi, lợi tha như thế, nên phát tâm cầu quả vị Giác ngộ tối cao, dõng mãnh
tinh tấn, tu hành Bát nhã Ba la mật kiên cố, không thối lui.
(Hệ cấp giai vị tu hành trong Phật
đạo)
Nếu đại Bồ tát vì độ thoát khắp hữu
tình nên khi mới phát tâm cầu quả vị Giác ngộ tối cao, số phước đạt được đã vô
lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm hết được, nếu so với phước đức của các hữu
tình đầy cả tam thiên đại thiên đều đạt bậc Thanh văn hay Độc giác, thì phước
đức của những vị này chẳng bằng một phần trăm, chẳng bằng một phần ngàn… cũng
chẳng bằng một phần trong trăm ngàn ức triệu phần đối với các vị đại Bồ tát mới
phát tâm cầu quả vị Giác ngộ tối cao.
Không kể lượng phước của tất cả hữu
tình trong thế giới tam thiên đại thiên, đều đạt bậc Thanh văn hoặc Độc giác,
giả sử tất cả hữu tình đầy ắp thế giới Tam thiên đại thiên đều an trụ ở bậc
tịnh quán địa(2), bậc chủng tánh địa(3), Bậc đệ bát địa(4), bậc kiến địa(5),
bậc bạc địa(6), bậc li dục địa(7), bậc dĩ biện địa(8), bậc Độc giác(9), lượng
phước mà họ đạt được so với lượng phước của một đại Bồ tát mới phát tâm cầu quả
vị Giác ngộ tối cao, thì chẳng bằng một phần trăm, chẳng bằng một phần ngàn…
cũng chẳng bằng một phần trong trăm ngàn ức triệu phần.
Giả sử, tất cả hữu tình đầy ắp cả
thế giới Tam thiên đại thiên đều vì độ thoát tất cả hữu tình nên mới phát tâm
cầu quả vị Giác ngộ tối cao thì lượng phước của các đại Bồ tát ấy đạt được so
với lượng phước của một đại Bồ tát nhập Chánh tánh ly sanh chẳng bằng
một phần trăm, chẳng bằng một phần ngàn… cũng chẳng bằng một phần trong trăm
ngàn ức triệu phần.
Giả sử tất cả hữu tình đầy ắp cả thế
giới Tam thiên đại thiên đều nhập Chánh tánh ly sanh, thì lượng phước của các
đại Bồ tát ấy đạt được so với lượng phước của một đại Bồ tát hành Bồ đề
hướng, thì chẳng bằng một phần trăm, chẳng bằng một phần ngàn… cũng chẳng
bằng một phần trong trăm ngàn ức triệu phần.
Giả sử tất cả hữu tình đầy ắp cả thế
giới Tam thiên đại thiên đều hành Bồ đề hướng, thì lượng phước mà các đại Bồ
tát ấy đạt được, đối với lượng phước đạt được của một Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác, thì chẳng bằng một phần trăm, chẳng bằng một phần ngàn… cho đến chẳng
bằng một phần trong trăm ngàn ức triệu phần(10).
(Tất cả pháp lấy vô tánh làm tánh)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát mới phát
tâm cầu quả vị Giác ngộ tối cao, tư duy điều gì?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát mới
phát tâm cầu quả vị Giác ngộ tối cao, thường chánh tư duy Nhất thiết tướng
trí.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nhất thiết tướng trí
có tánh gì? Nhất thiết tướng trí duyên cái gì, tăng thượng cái gì, hành tướng
là gì, có tướng gì?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nhất thiết tướng
trí, vô tánh làm tánh, vô tướng không nhân, không có cảnh giác, không sanh, vô
hiện. Lại như ông hỏi, Nhất thiết tướng trí duyên cái gì, tăng thượng cái gì,
hành tướng gì, có tướng gì, thì này Thiện Hiện! Với Nhất thiết tướng trí, vô
tánh là sở duyên, chánh niệm là tăng thượng, tịch tịnh là hành tướng, vô tướng
là tướng.
Này Thiện Hiện! Nhất thiết tướng
trí, sở duyên như thế, tăng thượng như thế, hành tướng như thế, tướng như thế. (Q.364, ĐBN)
Nhưng chẳng phải chỉ riêng có Nhất thiết tướng trí lấy vô
tánh làm tánh mà sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng lấy vô tánh làm tánh; 12 xứ,
18 giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết
trí, Đạo tướng trí cũng lấy vô tánh làm tánh. Năm loại mắt, sáu thần thông cũng
lấy vô tánh làm tánh. Cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi cũng lấy vô tánh làm
tánh. Nếu pháp nào không có tự tánh, thì pháp ấy lấy vô tánh làm tánh.
Sắc, thọ, tưởng, hành, thức không có tự tánh, xứ giới và tất cả pháp kể cả cảnh
giới hữu vi, cảnh giới vô vi cũng không có tự tánh. Nếu pháp nào không có tự
tánh, thì pháp ấy lấy vô tánh làm tánh.
Tại sao Nhất thiết tướng trí cùng
tất cả các pháp đều không có tự tánh? Vì Nhất thiết tướng trí cùng tất cả pháp
tự tánh không hòa hợp. Nếu pháp nào tự tánh không hòa hợp, thì pháp ấy lấy
vô tánh làm tánh.
Tất cả pháp đều lấy không làm tự
tánh, tất cả
pháp đều lấy vô tướng làm tự tánh, tất cả pháp đều lấy vô nguyện làm tự tánh.
Do nhân duyên ấy, các đại Bồ tát nên
biết tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh.
(Tất cả pháp lấy chơn như làm tự
tánh)
Tất cả pháp đều lấy chơn như làm tự
tánh; tất cả pháp đều lấy pháp giới làm tự tánh; tất cả pháp đều lấy pháp tánh
làm tự tánh; tất cả pháp đều lấy tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, bình
đẳng tánh, ly sanh tánh làm tự tánh; tất cả pháp đều lấy pháp định, pháp trụ,
thật tế làm tự tánh; tất cả pháp đều lấy cảnh giới hư không làm tự tánh; tất cả
pháp đều lấy cảnh giới bất tư nghì làm tự tánh.
Do nhân duyên ấy, các đại Bồ tát nên
biết tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh.
Nếu tất cả pháp đều lấy vô tánh làm
tự tánh thì đại Bồ tát khi mới phát tâm cầu quả vị Giác ngộ tối cao, thành tựu
những phương tiện thiện xảo nào, mà có thể hành lục Ba la mật, thành thục hữu
tình, nghiêm tịnh cõi Phật? Thành tựu những phương tiện thiện xảo nào mà có thể
an trụ 18 pháp không; thành tựu những phương tiện thiện xảo nào mà có thể an
trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định,
pháp trụ, thật tế v.v… thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật? Thành tựu
những phương tiện thiện xảo nào mà có thể hành 37 pháp trợ đạo, tứ Thánh đế, tứ
thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến
quả vị Giác ngộ tối cao, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật?
Đại Bồ tát ấy thành tựu phương tiện
thiện xảo thế này: Tu, học, biết tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh,
Đại Bồ tát ấy tuy hành bố thí, học
đạo Bồ đề, nhưng biết đạo Bồ đề lấy vô tánh làm tự tánh; tuy hành tịnh
giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, học đạo Bồ đề, nhưng biết đạo Bồ đề
lấy vô tánh làm tự tánh… cho đến tuy hành Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí,
học đạo Bồ đề, nhưng biết đạo Bồ đề lấy vô tánh làm tự tánh. Nếu đại Bồ tát
học, hành, an trụ như thế thì đạo Bồ đề được viên mãn; đối với tất cả Ba la mật
cũng viên mãn. Vì đã viên mãn Ba la mật nên chỉ trong một sát na tương ưng với
diệu trí, chứng đắc Nhất thiết tướng trí của Như Lai. Bấy giờ, tất cả phiền
não, tập khí tương tục vi tế vĩnh viễn chẳng sanh, nên gọi là vô dư y đoạn đắc,
tức thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.
Các đại Bồ tát khi hành Bát nhã Ba
la mật, nên quán tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh. Như vậy
gọi là đại Bồ tát dùng phương tiện thiện xảo tối thắng, đó cũng là hành Bát nhã
Ba la mật, quán tất cả pháp còn chẳng đắc vô, huống là đắc hữu!
(Quán có, quán không!)
Đại Bồ tát khi hành bố thí Ba la mật
thì đối với sự bố thí này, người cho, kẻ nhận, các vật cho và tâm Bồ đề còn chẳng
quán không huống là quán có. Khi hành tịnh giới Ba la mật thì đối với tịnh
giới này, chỗ hộ trì tịnh giới, người trì tịnh giới, tâm giữ tịnh giới, còn
chẳng quán không huống là quán có. Khi hành an nhẫn Ba la mật thì đối với an
nhẫn này, chỗ tu an nhẫn, người an nhẫn, tâm tu an nhẫn, còn chẳng quán không
huống là quán có. Khi hành tinh tấn Ba la mật thì đối với tinh tấn này, chỗ tu
tinh tấn, người tu tinh tấn, tâm tu tinh tấn, còn chẳng quán không huống là
quán có. Khi hành tịnh lự Ba la mật thì đối với tịnh lự này, chỗ tịnh lự, người
tu tịnh lự, tâm tu tịnh lự, còn chẳng quán không huống là quán có. Khi hành Bát
nhã Ba la mật thì đối với Bát Nhã này, chỗ tu Bát Nhã, người tu Bát Nhã, tâm tu
Bát Nhã, còn chẳng quán không huống là quán có. Nói tóm lại, đại Bồ tát ấy
khi tu hành hay an trụ tất cả pháp Phật, thì đối với tất cả Pháp Phật này,
người hành hay trụ, lý do hành hay trụ và chỗ hành hay trụ này, còn chẳng quán
không, huống là quán có.
Vì đại Bồ tát ấy thường nghĩ: Các
pháp đều lấy vô tánh làm tánh; vô tánh ấy, bản tánh như thế, chẳng phải Phật
tạo ra, chẳng phải Độc giác tạo ra, chẳng phải Thanh văn tạo ra, cũng chẳng
phải ai khác tạo ra, vì tất cả pháp đều không có tác giả, lìa tác giả.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch
Phật:
Các pháp thật ra chẳng lìa pháp
tánh?
Phật nói: Thiện Hiện! Thật vậy, các
pháp chẳng lìa pháp tánh.
Cụ thọ Thiện Hiện lại hỏi: Nếu tất
cả pháp lìa tánh ấy, vì sao pháp lìa năng biết pháp lìa hoặc có hoặc không?
Bạch Thế Tôn! Pháp có chẳng lẽ năng biết pháp không, pháp không chẳng lẽ năng
biết pháp có. Pháp có chẳng lẽ năng biết pháp có, pháp không chẳng lẽ năng biết
pháp không?
Bạch Thế Tôn! Như vậy tất cả pháp
đều lấy vô tri làm tánh. Làm sao đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật đối
với các pháp chỉ rõ được các thứ? Nghĩa là sắc thọ tưởng hành thức hoặc có hoặc
không, thập nhị xứ cho đến thập bát giới hoặc có hoặc không. Địa giới cho đến
thức giới hoặc có hoặc không. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên hoặc có hoặc
không. Tất cả các thiện pháp hoặc có hoặc không. Nhất thiết trí, Đạo tướng trí,
Nhất thiết chủng trí hoặc có hoặc không. Quả Dự lưu cho đến Duyên giác hoặc có
hoặc không. Tất cả Bồ tát hạnh hoặc có hoặc không. Chư Phật Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề hoặc có hoặc không. Nhất thiết trí trí hoặc có hoặc không. Hữu vi
giới, vô vi giới hoặc có hoặc không?
Phật bảo: Thiện Hiện! Các đại Bồ
tát hành Bát nhã Ba la mật, theo thế tục nên chỉ rõ các pháp hoặc có hoặc
không, chẳng theo thắng nghĩa.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế tục và thắng
nghĩa có khác nhau chăng?
- Không! Thiện Hiện! Chẳng phải khác
thế tục mà riêng có thắng nghĩa. Vì sao? Thiện Hiện! Vì thế tục như là thắng
nghĩa. Các loại hữu tình điên đảo vọng chấp, nên đối với như này, chẳng biết,
chẳng thấy. Đại Bồ tát vì thương xót họ, nên theo tướng thế tục, mà chỉ rõ các
pháp hoặc hữu, hoặc vô.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các loại hữu
tình đối với các pháp uẩn v.v… khởi tưởng có thật, chẳng biết chẳng phải có.
Đại Bồ tát vì thương xót họ nên phân biệt các pháp hoặc hữu, hoặc vô, làm thế
nào để khiến các loại hữu tình đó biết rõ pháp uẩn v.v… đều chẳng phải thật có.
Thích nghĩa:
(1). Tam thế Phật: Ba đời Phật: Phật
quá khứ, vị lai và hiện tại như Tỳ Bà Thi là Phật quá khứ, Di Lặc Bồ tát là
Phật vị lai và Thích Ca Mâu Ni là Phật hiện tại.
(2). Bậc Tịnh quán địa tức bậc Can
huệ địa (Phạm: Zukha-vidarsanà-bhùmi). Tức là địa thứ nhất của Tam thừa cộng
thập địa (mười ngôi vị chung cho ba thừa) trong các giai vị tu hành của Bồ tát;
địa này có tuệ mà không định, cho nên gọi Can tuệ địa. Cũng gọi Quá diệt tịnh
địa, Siêu tịnh quán địa, Kiến tịnh địa. Vì các bậc Thánh ba thừa, bắt đầu tu ba
phép quán Ngũ đình tâm, Biệt tướng niệm xứ, Tổng tướng niệm xứ, tuy đã có tuệ
quán, nhưng chưa hoàn toàn được “nước” lý pháp tính chân đế, cho nên gọi là Can
tuệ địa (trí tuệ khô khan).
(3). Bậc Tánh địa (Phạm:
Gotra-bhùmi), cũng gọi Tánh địa nhơn hay Chủng tánh địa. Tức địa vị tương đương
với giai vị Tứ thiện căn của Thanh văn và giai vị Thuận nhẫn của Bồ tát, tuy
đắm trước thực tướng các pháp, nhưng không sanh tà kiến, đầy đủ trí tuệ và
thiền định.
(4). Bậc Đệ bát (Phạm:
Awỉamakabhùmi), cũng gọi Đệ bát địa, Bát nhân địa. Nhân nghĩa là nhẫn. Tương
đương với 15 tâm kiến đạo của Thanh văn và vô sinh pháp nhẫn của Bồ tát.
(5). Bậc Kiến địa (phạm: Durzana-bhùmi),
cũng gọi Cụ kiến địa. Tương đương với quả Tu đà hoàn của Thanh văn và địa vị A
bệ bạt trí (bất thoái chuyển) của Bồ tát.
(6). Bậc Bạc địa (Phạm: Tanù-bhùmi),
cũng gọi Nhu nhuyến địa, Vi dục địa. Tức giai vị đã đoạn trừ 1 phẩm trong 9
phẩm Tư hoặc (phiền não) ở cõi Dục, tức quả Tu đà hoàn hoặc Tư đà hàm. Cũng chỉ
cho địa vị Bồ tát đã đoạn trừ các phiền não, nhưng vẫn còn các tập khí mỏng
(bạc), tức địa vị từ A bệ bạt trí trở lên cho đến trước quả Phật.
(7). Bậc Ly dục: (Phạm:
Vìta-ràga-bhùmi), cũng gọi Ly tham địa. Tức giai vị Thanh văn đoạn hết phiền
não cõi Dục được quả A na hàm và địa vị Bồ tát lìa dục được 5 thần thông.
(8). Bậc Dĩ tác địa (Phạm:
Kftàvì-bhùmi), cũng gọi Sở tác biện địa, Dĩ biện địa. Tức địa vị Thanh văn được
tận trí, vô sinh trí chứng đắc A la hán, hoặc Bồ tát thành tựu Phật địa.
(9). Bậc Độc giác còn gọi là Bích
Chi Phật: Quán xét 12 nhân duyên mà thành đạo. (Phật Quang từ điển)
(10). Đây là so sánh giai vị tu hành
trong hệ cấp Phật giáo. Có nhiều hệ cấp tùy theo các Tông phái khác nhau: I.
Hệ cấp phổ thông nhất có tên là Tam thừa cộng thập địa (Thập địa chung cho
Ba thừa). Theo hệ cấp này thì đứng trên hết là Phật (người có quyền năng và
phúc đức cao cả nhất đứng trên cùng), kế là Bồ tát, thứ nữa là Bích chi Phật,
đến bậc Dĩ tác địa (A la hán), bậc Li dục (A na hàm), bậc Bạc địa (Tu đà hàm),
bậc Kiến địa (Tu đà hoàn), bậc Đệ bát, bậc Tánh địa (hay Tánh địa nhơn), bậc
Tịnh địa (hay Tánh quán địa hoặc Can huệ địa). II. Hệ cấp thứ hai gọi là
Thập địa Bồ tát gồm 52 giai vị khác nhau: Đứng đầu là Diệu giác Bồ tát (tức
Phật), kế đến là Đẳng giác Bồ tát, tiếp nữa là Thập địa, Thập hồi hướng, Thập
hạnh, Thập trụ, Thập tín, v.v... Nhưng các hệ cấp tu hành của Phật giáo không
phải được dựng lập bởi Giáo hội như bên Thiên chúa giáo mà các hệ cấp này được
dựng lên tùy theo tôn chỉ tu hành từng Tông phái khác nhau.
Thích nghĩa trên là chi tiết hóa các
giai vị. Phần thích nghĩa tổng quát đã ghi rõ ràng trong phẩm “Học Quán” rồi.
Lược giải:
1. Tất cả pháp lấy vô tánh làm tự
tánh.
Các phẩm trước Phật bảo tất cả pháp
như huyễn như mộng... Các pháp do duyên hợp giả có, đương thể tức không. Không
đây có nghĩa là không có thực thể, không chủ thể nên nói là không có tự tánh.
Vì vậy, Phật bảo nếu tất cả pháp không có tự tánh nên lấy vô tánh làm tự tánh.
Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng lấy vô tánh làm tự tánh; 12 xứ, 18 giới, tứ
thiền, tứ định, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết
tướng trí cũng lấy vô tánh làm tự tánh. Năm loại mắt, sáu thần thông cũng lấy
vô tánh làm tự tánh. Cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi cũng lấy vô tánh làm tự
tánh. Nói khác, tất cả pháp đều không có tự tánh, nên lấy không làm tự
tánh; lấy vô tướng, vô nguyện làm tự tánh.
Do nhân duyên ấy, các đại Bồ tát nên
biết tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh. Đó là cái nhìn của Bát Nhã. Mỗi
khi con mắt này mở ra nó không nhìn vạn hữu qua hình tướng thiên sai vạn biệt
của chúng mà soi thấy chúng qua bản tánh không, bản tánh vô tánh của chúng.
2. Tất cả pháp đều lấy vô tri làm
tánh.
Kinh cũng thường nói bản tánh tất cả
pháp là trì độn. Trì độn có nghĩa là trơ lì ra như sỏi đá. Vì pháp không tự
biết pháp, pháp cũng không biết các pháp khác. Cục đá nằm bên đường ngàn năm
vẫn là cục đá cũ. Nó không biết nó đen hay trắng, vuông hay tròn, đẹp hay
xấu... vì nó là trì độn, vô tri. Nên nói tất cả pháp đều lấy vô tri làm tánh.
Danh và tướng của vạn hữu cũng do
con người đặt ra và khi một vật có danh có tướng thì liền theo đó có phân biệt
chấp trước. Và một khi chấp trước xảy ra thì không tránh khỏi mất mát. Đó là cái
hư vọng của cuộc đời thường!
Vạn hữu vốn không có thuộc tánh. Nó
là nó, nó vô tri, bản tánh là không, không có tự tánh, nên nói lấy vô tri làm
tự tánh!
3. Tất cả pháp lấy chơn như làm tự
tánh.
Nói về hình sắc, danh tướng... là
nói cái bề ngoài của các pháp. Tất cả pháp đều có muôn màu muôn vẻ khác nhau
không thể tính đếm hết được như nữ trang nào nhẫn, vòng, xuyến... hình thù có
khác, nhưng chất lượng chế biến ra chúng không khác. Đó là vàng: Nhẫn cũng bằng
vàng, vòng xuyến cũng bằng vàng... Vàng bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào cũng có
bản chất như nhau. Bản chất đó thường hằng cố hữu bất biến. Nó là cái như thực
trong chân như thực tướng (yathàbhùtam) của chính nó. Nó như vậy bởi vì như
vậy, chẳng lúc nào chẳng như.
Câu chuyện Thiền của Lục Tổ Huệ Năng
chứng ngộ là một thí dụ kỳ đặc trong lãnh vực Thiền. Khi Huệ Năng đến thôn
Hoàng Mai thọ giáo học Thiền với Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn.
Ngũ Tổ hỏi Huệ Năng:
- Ngươi đến đây cầu gì?
Năng đáp:
- Con cầu làm Phật.
Ngũ Tổ hỏi tiếp:
- Ngươi từ đâu đến?
- Con từ phương Nam đến.
Tổ bèn nói:
- Người phương Nam man rợ, sao làm
Phật được?
Năng đáp:
- Người thì ở phương Nam, phương Bắc
khác nhau, nhưng Phật tánh không khác.
Hoằng Nhẫn biết đây là người có căn
tánh Đại thừa, nên nhận Huệ Năng làm đệ tử và chưa đầy một năm Huệ Năng đáp ứng
được chỗ tâm yếu, nên được Ngũ Tổ truyền thừa y bát để nối tiếp dòng Thiền
chánh tông từ đức Thích Ca Mâu Ni.(1)
Vì sợ nhóm Thần Tú cướp đoạt y bát
nên nửa đêm Ngũ Tổ đưa Lục Tổ Huệ Năng xuống thuyền sang sông để trốn về phương
Nam. Huệ Minh là đệ tử thân tín của Thần Tú, muốn đoạt y bát lại cho Thần Tú,
cỡi ngựa đuổi theo kịp. Lục tổ sợ quá để y bát trên tảng đá rồi chun vô bụi cây trốn.
Huệ Minh thấy y bát mừng rỡ định cướp lấy. Nhưng đến khi dỡ lên thì không dỡ
nổi, mới tự bảo: Linh vật của ai thì người ấy giữ, không thể cướp đoạt được.
Nghĩ như vậy liền hô lớn:
- Con đến đây vì pháp, không phải vì
y bát.
Lục Tổ từ trong bụi chui ra,
nói với Huệ Minh:
- Nếu ngươi vì pháp thì nên sửa lại
áo mũ, ta sẽ vì ngươi mà nói.
Huệ Minh sửa lại áo mũ xong, Lục Tổ
bảo:
- Không thiện không ác, cái gì là
Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?
Từ lúc mới đến gặp Ngũ Tổ để cầu
đạo, Huệ Năng chỉ là một cư sĩ đã nói với Ngũ Tổ về Phật tánh. Chưa đầy một năm
sau thành đạt đạo hạnh trở thành Tổ thứ sáu cũng nói về Phật tánh (Bản lai diện
mục). Con người ở bất cứ nơi đâu, Đông hay Tây, Nam hay Bắc, dù thiện hay ác,
dù Thánh hay phàm, nhiễm hay tịnh... đều có cùng một Phật tánh như nhau, nó
bình đẳng, phổ cập không sanh, không diệt, không trụ, không dị, như thế thường
như, chẳng lúc nào chẳng như trong vô lượng kiếp. Phật tánh mà
Lục Tổ tri nhận đó cũng là chơn như, pháp giới, pháp tánh, thực tế, bản lại
diện mục, như như... tất cả là một như, không hai không khác.
Quyển 364, phẩm “Nói Thật”, Hội thứ
I, ĐBN bảo rằng: “Tất cả pháp đều lấy (chơn) như làm tự tánh;
tất cả pháp đều lấy pháp giới làm tự tánh; tất cả pháp đều lấy pháp tánh làm tự
tánh; tất cả pháp đều lấy tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, bình đẳng
tánh, ly sanh tánh làm tự tánh; tất cả pháp đều lấy pháp định, pháp trụ, thật
tế làm tự tánh; tất cả pháp đều lấy cảnh giới hư không làm tự tánh; tất cả pháp
đều lấy cảnh giới bất tư nghì làm tự tánh.
Do nhân duyên ấy, các đại Bồ tát nên
biết tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh”.
Bằng trí Bát Nhã chư Phật thấy tất
cả pháp không qua hình tướng biến hoại bên ngoài của chúng. Cái thấy hình tướng
là cái thấy có không, được mất... Đó là cái thấy phân hai của phàm phu, gọi là
Thế đế. Cái thấy của chư Phật là tri nhận cái như thực trong chơn như thật
tướng của các pháp. Thấy các pháp vô tri, không có tự tánh lấy vô tánh làm tự
tánh. Cái thấy đó tuyệt đối gọi là Đệ nhất nghĩa đế, nó vượt qua và vượt trên
các đối thể, nó không bị chi phối bởi lưỡng nguyên, nên cái thấy đó không bị
câu thúc, dính mắc các hệ lụy của cuộc sống thế tục. Vì vậy, chư Phật nói đó là
phương tiện thiện xảo để thành tựu Bát Nhã.
4. Các pháp hoặc Hữu hoặc Vô.
Làm sao Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba
la mật đối với các pháp chỉ rõ được các thứ? Nghĩa là sắc thọ tưởng hành thức
hoặc có hoặc không, thập nhị xứ cho đến thập bát giới hoặc có hoặc không? Nhất
thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí hoặc có hoặc không? Hữu vi giới,
vô vi giới hoặc có hoặc không?
Các đại Bồ tát hành Bát nhã Ba la
mật, theo thế tục nên chỉ rõ các pháp hoặc có hoặc không, chẳng theo thắng
nghĩa.
Phật bảo: “Vì (chơn)
như của thế tục là thắng nghĩa". Các loại hữu tình điên đảo vọng chấp, nên
đối với (chơn) như này, chẳng biết, chẳng thấy. Đại Bồ tát vì thương xót
họ, nên theo tướng thế tục, mà chỉ rõ các pháp hoặc hữu, hoặc vô.
Lại nữa, các loại hữu tình đối với các pháp uẩn v.v… khởi tưởng có thật,
chẳng biết chẳng phải có. Đại Bồ tát vì thương xót họ nên phân biệt các pháp
hoặc hữu, hoặc vô, làm thế nào để khiến các loại hữu tình đó biết các
pháp uẩn v.v… đều chẳng phải thật có”. (Q.526, ĐBN)
Đoạn Kinh của Bát Nhã Bát Thiên Tụng
do Ngài Trúc Hộ dịch, giải thích đoạn Kinh trên, như sau:
Phật bảo ông Xá Lợi Phất như sau: “Này Xá Lợi Phất! Thực ra không có
một pháp nào tồn tại, nếu không biết rõ như thế thì tức là vô minh. Phàm phu vì
không biết như thế nên mới sinh lòng chấp trước, vì chấp trước nên cho tất cả
pháp là thật có, vì cho các pháp thật có nên chấp trước nhị biên (chấp hữu
chấp vô), và vì chấp trước nhị biên nên mới không thấy, không biết cái chân
tướng của các pháp; vì không thấy, không biết nên chấp trước tất cả các pháp
hiện tại, quá khứ, vị lai, do đó mới chấp có danh sắc: Vì chấp danh sắc nên cho
các pháp đều thật có, bởi thế mà không thấy không biết được đạo như thật
(Yathabhutam marga), vì không thấy, không biết được đạo như thật nên không
siêu việt được tam giới, không thấy rõ được thật tướng của tất cả pháp”.
Vì vậy, Ngài Huyền Giác, mới hát
rằng:
“Kẻ chấp có, đau khổ vì có,
Người chấp không, khổ lụy vì
không.
Tránh lửa đốt đâm đầu chui xuống nước,
Không chết nóng, chết cóng cũng thế
thôi!
(Chứng Đạo
Ca)
Kết Luận:
(cho 2 phẩm: “Đa Vấn Bất Nhị” và “Nói
Thật”).
Để sáng tỏ phẩm “Đa Vấn Bất Nhị” và
phẩm “Nói Thật”, không gì hơn, chúng tôi xin trích dẫn lời bình giảng của Thiền
sư D.T. Suzuki, để quý vị thưởng thức thêm:
“Bất khả đắc, Vô sở đắc
(anupalabdha), hay Vô thủ trước (aparamrista): Vô sở đắc còn có một âm vang của
trí thức, trong khi vô thủ trước là thuật ngữ cho xúc cảm. Xác nhận rằng “Nhất
thiết trí vốn là vô thủ trước” (apararista hi sarvajnata) sự thực là một trong
những lời cảnh giác mà chúng ta thường gặp trong Kinh Bát nhã Ba la mật. Theo
đó chúng ta được gây xác tín vững mạnh rằng Kinh điển Đại thừa là một tài liệu
mô tả những cái nhìn về mặt khác của đời sống không bị chi phối bởi lưỡng
tính của có và không. Những đoạn văn dưới, chữ aparamrista được thay thế
bằng chữ aslesa và asamga, cùng chỉ cho một ý niệm giống nhau; tác giả của
chúng ta cố hết sức cho chúng ta có ấn tượng về sự quan trọng của giáo thuyết
Vô trước.
“Bồ tát khi chứng đắc Giác ngộ,
giảng cho hết thảy chúng sinh về pháp bất trước (aslesa). Bất trước có nghĩa là
không bị buộc ràng bởi Sắc (rùpasyã-sambandhà), bởi Thọ (vedana), Tưởng
(samjnă), Hành (samskàra) và Thức (vijnăna). Khi một người không bị buộc ràng
bởi chúng, người ấy không hệ thuộc vào sự sinh và diệt của chúng. Do vô sở
trước, người ấy không nằm trong hệ phược hay giải thoát”.
“Bát nhã Ba la mật này thật khó tin,
khó hiểu. Bởi vì, sắc (rupam) không phải phược không phải giải. Tại sao? Vì sắc
lấy vô tánh (asvabhava) làm tự tánh. Các uẩn khác cũng vậy. Chúng không có tự
tánh, không có tiền tế, không có trung tế, không có hậu tế. Vì không tự tánh là
tự tánh của nó, nên không có trói buộc, không có cởi mở. Vì vậy, Bát nhã Ba la
mật thật là khó đạt tới”.
“Nếu chấp vào danh (nàma) và tướng
(nimitta), ấy là chấp trước (samga). Danh và tướng là những sản phẩm của phân
biệt (vikalpa). Phân biệt xảy ra khi Bát nhã Ba la mật bị chấp trước là như
vậy. Phân biệt, chấp trước và thất ly trong Bát nhã Ba la mật là những chữ đồng
nghĩa và thay thế nhau trong ngôn thuyết của Phật giáo Đại thừa. Sắc là không
(rupam sunyam), nhưng khi khẳng nhận như thế, là chấp trước (samga), và chấp
trước khiến chúng ta rời xa Bát nhã Ba la mật.
“Giả sử một Bồ tát phát tâm, đã trải
qua tu tập Bồ tát hạnh, và ôm giữ ý tưởng cho rằng do đó đã chứa nhóm công đức.
Nhưng khi móng khởi tâm niệm này là đã có chấp trước, không còn tương ứng với Bát
nhã Ba la mật. Bất cứ ở đâu có phân biệt, là có dẫn tới chấp trước; hoặc có thể
nói ngược lại rằng bất cứ ở đâu có chấp trước là có phân biệt. Chỉ đạt tới
Giác ngộ khi nào không có chấp trước, không móng khởi tâm niệm, không có hai
tướng có và không (astitva và nastitva); vì giác ngộ là vô trước, và tự
tánh của nó là không tự tánh”.
Vượt ngoài phân biệt, chấp trước và
không có tự tánh, còn được gọi là cảnh giới của thanh tịnh tuyệt đối
(atyantavisuddhi). Và Kinh nói do bởi thanh tịnh tuyệt đối đó là Bát nhã Ba la
mật là quảng đại chiếu diệu, là vô hòa hiệp, là vô sở đắc, là vô sở chứng, là
vô sở liễu tri, là vô sinh, là vô diệt, là vô trụ v.v...” (2)
Thích nghĩa cho lược giải này:
(1). Vì tuổi thọ quá cao, nên Ngũ
Tổ, ra niêm yết người nào đáp ứng được tâm yếu của đạo, sẽ truyền y bát để nối
tiếp dòng Thiền từ thời Phật. Có lẽ bốn câu kệ sau đây của Huệ Năng (đối lại
bốn câu kệ của Thần Tú) đáp ứng được chỗ tâm yếu, nên Ngũ Tổ truyền y bát cho
Huệ Năng làm Tổ thứ sáu của dòng Thiền tại Trung Hoa do Tổ Bồ đề Đạt truyền
lại.
Thân thị Bồ đề thọ
Tâm như minh cảnh đài
Thời thời cần phất thức
Vật sử nhá trần ai.
Dịch:
Thân thiệt Bồ đề thọ,
Lòng như minh cảnh đài,
Hằng hằng lau sạch bụi,
Không để vướng trần ai.
(Thần Tú)
Để đối lại bốn câu kệ trên, Huệ Năng
nhờ một đệ tử khác viết trên tường đế bên 4 câu kệ của Thần Tú như sau:
Bồ đề bổn vô thọ
Minh Cảnh diệc phi đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhá trần ai.
Dịch:
Bồ đề đâu phải thọ,
Minh cảnh có chi đài,
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào vướng trần ai?
(Huệ Năng)
(2). Đoạn Kinh trích dẫn của Thiền
sư DT. Suzuki, tóm lược các giáo lý
trong các phẩm “Vô Sở Đắc” và “Trước, Chẳng Trước Tướng” trong Kinh
ĐBN do Ngài Huyền Trang dịch.
---o0o---