Nguồn: https://quangduc.com/
PHẨM “TAM TIỆM THỨ”
Phần sau quyển 372 cho đến phần đầu quyển 373, Hội thứ I,
ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Tam Thứ Đệ Hành” quyển thứ 24, MHBNBLMĐ)
Tóm
lược:
(Lấy vô tánh làm tự tánh)
Người trụ hữu tưởng, không
thuận nhẫn, không đạo, không quả cũng không hiện quán thì người trụ vô tưởng
cũng không thuận nhẫn, cũng không đạt bậc Tịnh quán, Chủng tánh, Bát nhân, bậc
Kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, Dĩ biện, Độc giác, Bồ tát hay Như Lai. Do tu Thánh
đạo mới đoạn được phiền não. Vì bị phiền não khách trần ngăn che nên các đại Bồ
tát chẳng có thể nhập Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Nếu chẳng có thể nhập Bồ tát
Chánh tánh ly sanh thì chẳng có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí. Nếu chẳng có
thể chứng đắc Nhất thiết trí trí thì không thể đoạn trừ vĩnh viễn tất cả phiền
não tập khí tương tục.
Nếu tất cả pháp hoàn toàn không có
sở hữu thì không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Các pháp như thế đã
hoàn toàn không sanh thì làm sao có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí?
Đại Bồ tát khi hành Bát nhã Ba la
mật thậm thâm có tưởng hữu, tưởng vô chăng? có tưởng sắc, tưởng thọ, tưởng,
hành, thức chăng? Có tưởng mười hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ vô lượng,
tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng chăng? Có tưởng Nhất thiết trí trí
chăng? Có tưởng các quả Thanh văn, Độc giác, Bồ tát hạnh, quả vị Giác ngộ tối
cao chăng? Có tưởng đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí phiền não tương tục
chăng?
Bồ tát khi hành Bát Nhã không tưởng
hữu, tưởng vô. Nếu không tưởng hữu cũng không tưởng vô thì đó tức là Bồ tát
thuận nhẫn; nếu không tưởng hữu cũng không tưởng vô tức là tu đạo; nếu không
tưởng hữu cũng không tưởng vô tức là đắc quả. Nên biết, vô tánh tức là đạo Bồ
tát Ma ha tát, vô tánh tức là hiện quán Bồ tát Ma ha tát. (Q. 372, ĐBN)
Do nhân duyên này, nên biết tất
cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh.
- Nếu nói tất cả pháp đều lấy vô tánh
làm tự tánh thì vì sao Như Lai đối với tất cả pháp vô tánh hiện Đẳng Chánh
Giác? Hiện Đẳng Chánh Giác rồi, đối với tất cả pháp và các cảnh giới đều được
tự tại?
Như Lai khi xưa học đạo Bồ tát, tu
hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật không
trái ngược. Bấy giờ, Như Lai đối các tĩnh lự và chi tĩnh lự, tuy khéo
lấy tướng mà không sở chấp. Đối các tĩnh lự và chi tĩnh lự đều không say
đắm, không thủ đắc. Như Lai bấy giờ đối các tĩnh lự, đem hành tướng thanh tịnh
không sở phân biệt an trụ đầy đủ, tu các tĩnh lự và chi tĩnh lự khéo thông thạo
rồi, khiến tâm phát khởi các Thần thông. Lúc bấy giờ, Như Lai đối các trí chứng
thông đã phát khởi, tuy khéo lấy tướng mà không sở chấp; đối các trí chứng
thông đã phát khởi đều không say đắm, không thủ đắc như hư không không sở phân
biệt, an trụ đầy đủ. Như Lai dùng diệu huệ tương ưng Nhất thiết trí trí, chỉ
trong sát na chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nghĩa là hiện đẳng giác: Đây khổ
Thánh đế, đây tập Thánh đế, đây diệt Thánh đế, đây đạo Thánh đế hoàn toàn vô sở
hữu, thành tựu mười lực, tứ vô sở úy, tứ vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ,
đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng… thảy vô biên công đức khác; an lập ba nhóm
hữu tình sai khác, tùy căn cơ mà phương tiện dạy bảo dẫn dắt khiến được lợi ích
an vui thù thắng.
- Làm sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác
có thể dùng vô tánh làm tự tánh phát khởi bốn tịnh lự, có thể dùng vô tánh làm
tự tánh phát khởi năm phép thần thông(1), có thể dùng vô tánh làm tự tánh chứng
đắc quả vị Giác ngộ tối cao, có thể dùng vô tánh làm tự tánh an lập hữu tình
thành ba nhóm; xong, tùy theo căn cơ của họ mà phương tiện dạy bảo dẫn dắt,
khiến đạt được lợi ích an vui thù thắng?
Nếu các pháp dục ác bất thiện có
chút tự tánh, hoặc tha tánh, thì khi xưa, Như Lai tu hành Bồ tát hạnh, chẳng
thông đạt tất cả pháp dục ác bất thiện. Nhưng vì các pháp dục ác bất thiện thảy
không có tự tánh, tha tánh, chỉ lấy vô tánh làm tự tánh, nên Như Lai khi xưa tu
Bồ tát hạnh, thông đạt các pháp dục ác bất thiện, mới năng lìa được chúng mà
vào được tứ thiền. Nếu các thần thông có chút tự tánh hoặc tha tánh, thì khi
xưa Như Lai tu Bồ tát hạnh, chẳng ưng thông đạt tất cả thần thông. Vì các thần
thông không có tự tánh, tha tánh, chỉ lấy vô tánh làm tự tánh, nên Như Lai khi
xưa tu Bồ tát hạnh thông đạt các thần thông, đều lấy vô tánh làm tự tánh rồi,
có thể khiến tâm phát khởi các thần thông, đắc các thần thông rồi nên đối với
các cảnh giới, tự tại vô ngại.
Nếu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có
chút tự tánh, hoặc tha tánh, Như Lai khi xưa tu Bồ tát hạnh, chẳng ưng thông
đạt quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nhưng vì Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề
không có tự tánh tha tánh, chỉ lấy vô tánh làm tự tánh, nên khi xưa Như Lai tu
Bồ tát hạnh thông đạt Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đều lấy vô tánh làm tự tánh
rồi, mới dùng diệu huệ tương ưng Nhất thiết trí trí chỉ trong sát na chứng được
quả vị Giác ngộ tối cao, như thật giác biết khổ tập diệt đạo Thánh đế đều vô sở
hữu; trọn nên mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ,
đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, và vô biên công đức khác.
Nếu các hữu tình có chút tự tánh
hoặc tha tánh thì khi Như Lai thành Phật rồi, chẳng ưng thông đạt tất cả hữu
tình, an lập ba nhóm sai khác. Nhưng vì các hữu tình không có tự tánh, tha
tánh, chỉ lấy vô tánh làm tự tánh nên Như Lai sau khi thành Phật, thông đạt hữu
tình, đều lấy vô tánh làm tự tánh rồi, mới có thể an lập ba nhóm hữu tình sai
khác, tùy theo căn cơ của họ mà phương tiện dạy bảo, dẫn dắt, khiến đạt được
lợi ích an lạc thù thắng.
- Các đại Bồ tát nương vào pháp vô
tánh làm tự tánh, khởi bổn tịnh lự, phát năm thần thông, chứng đắc quả vị Giác
ngộ tối cao, an lập ba nhóm hữu tình sai khác thì tại sao đại Bồ tát đối với
pháp lấy vô tánh làm tự tánh lần lược làm việc theo thứ bậc, tu học theo thứ
bậc, hành trì theo thứ bậc(2) mà có thể chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao?
Tất cả các bậc hiền Thánh từ Thanh
văn đến Vô Thượng Giác ngộ đối với các pháp đều lấy vô tánh làm cứu cánh tu
hành tất cả pháp để chứng đắc quả vị mà mình trụ trì, nhưng không thấy mình tu,
mình chứng cũng không thấy bất cứ một pháp nào dầu nhỏ nhiệm bằng đầu mảy lông
phải tu, phải chứng, phải trụ.
Đại Bồ tát ấy phát tâm hướng đến quả
vị Giác ngộ tối cao, vì cứu độ khắp các hữu tình nên làm việc theo thứ bậc, tu
học theo thứ bậc, hành trì theo thứ bậc giống như các đại Bồ tát ở quá khứ đã
từng làm: Trước hết nên lần lược tu hành bố thí Ba la mật, kế đến nên tu hành
tịnh giới, tu hành an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, sau cùng nên tu hành Bát nhã Ba
la mật.
(Tu lục Ba la mật)
- Đại Bồ tát ấy từ lúc mới phát tâm tu
hành bố thí Ba la mật, tự hành bố thí, cũng khuyên người hành bố,
khen ngợi chỉ rõ công đức của bố thí, hoan hỷ khen ngợi người hành bố thí. Do
nhân duyên này, bố thí viên mãn, sanh vào cõi trời người, được tài lộc lớn,
thường hành bố thí, xa lìa tâm xan lẫn, tùy theo các hữu tình, cần ăn cho ăn,
cần uống cho uống, cần y phục cho y phục, cần xe cộ, phòng xá, đồ nằm, đèn
đuốc, của cải… tùy theo nhu cầu đều thí cho đầy đủ. Đại Bồ tát do bố thí nên
thọ trì giới uẩn; do thí-giới nên được định uẩn; do thí-giới-định nên được tuệ
uẩn; do thí-giới-định-tuệ nên được giải thoát uẩn; do thí-giới-định-tuệ-giải
thoát nên được giải thoát tri kiến uẩn; do thí-giới-định-tuệ-giải-thoát-giải-thoát-tri-kiến-uẩn
viên mãn nên vượt qua các bậc Thanh văn và Độc giác, hướng nhập Bồ tát Chánh
tánh ly sanh; nhập bậc Chánh tánh ly sanh, mới có thể thành thục hữu tình
nghiêm tịnh cõi Phật; thành thục hữu tình nghiêm tịnh cõi Phật được viên mãn
rồi, mới có thể chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao; chứng đắc quả vị Giác ngộ
rồi, mới có thể chuyển bánh xe pháp; do chuyển bánh xe pháp nên an lập hữu tình
ở pháp ba thừa; hữu tình an trụ ở pháp ba thừa rồi mới có thể giải thoát sanh
tử, chứng đắc Niết bàn.
Đại Bồ tát ấy, do bố thí nên tuy có
thể làm việc theo thứ bậc, tu học theo thứ bậc, hành trì theo thứ bậc như thế,
nhưng quán tất cả hoàn toàn chẳng có thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh của
tất cả pháp là không.
- Đại Bồ tát ấy từ khi mới phát tâm
tu hành tịnh giới Ba la mật, nên tự hành tịnh giới, cũng khuyên người
hành tịnh giới, khen ngợi chỉ rõ công đức tịnh giới, hoan hỷ khen ngợi người
hành tịnh giới. Do nhân duyên này, đại Bồ tát ấy được giới uẩn thanh tịnh, sanh
vào cõi trời người, rất được tôn quí, an trụ giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải
thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn. Do an trụ giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải
thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn thanh tịnh nên vượt qua các bậc Thanh văn và
Độc giác, hướng nhập Bồ tát Chánh tánh ly sanh; nhập bậc Chánh tánh ly sanh
rồi, mới có thể thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật; thành thục hữu tình,
nghiêm tịnh cõi Phật được viên mãn rồi, mới có thể chứng đắc quả vị Giác ngộ
tối cao; chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao rồi, mới có thể chuyển bánh xe pháp;
do chuyển bánh xe pháp nên an lập hữu tình ở pháp ba thừa; hữu tình an trụ ở
pháp ba thừa rồi mới có thể giải thoát sanh tử, chứng đắc Niết bàn.
Đại Bồ tát ấy, do tịnh giới nên tuy
có thể làm việc theo thứ bậc, tu học theo thứ bậc, hành trì theo thứ bậc như
thế, nhưng quán tất cả hoàn toàn chẳng có thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh
của tất cả pháp là không.
- Đại Bồ tát ấy từ khi mới phát tâm tu
hành an nhẫn Ba la mật, nên tự hành an nhẫn, cũng khuyên người
hành an nhẫn, khen ngợi chỉ rõ công đức an nhẫn, hoan hỷ khen ngợi người hành
an nhẫn. Đại Bồ tát ấy khi hành an nhẫn thường chịu đựng được những nỗi vinh
nhục não hại cả thân tâm, để thành tựu đạo nghiệp, nên an trụ giới uẩn, an trụ
định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn. Do giới định
tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến uẩn thanh tịnh nên vượt qua các bậc
Thanh văn và Độc giác, hướng nhập Bồ tát Chánh tánh ly sanh; nhập bậc Chánh
tánh ly sanh, mới có thể thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật v.v… như đã
nói ở trên.
Đại Bồ tát ấy, do an nhẫn nên tuy có
thể làm việc theo thứ bậc, tu học theo thứ bậc, hành trì theo thứ bậc như thế,
nhưng quán tất cả hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh của tất
cả pháp là không.
- Đại Bồ tát ấy từ khi mới phát tâm tu
hành tinh tấn Ba la mật, nên tự hành tinh tấn, cũng khuyên người
đối với các thiện pháp phát khởi sự chuyên cần tinh tấn, khen ngợi chỉ rõ công
đức đối với các thiện pháp, hoan hỷ khen ngợi người đối với các thiện pháp phát
khởi sự chuyên cần tinh tấn. Đại Bồ tát ấy hành tinh tấn, đạo hạnh lần lần viên
mãn, nên mới có thể an trụ giới uẩn, an trụ định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn,
giải thoát tri kiến uẩn. Do giới định tuệ giải thoát giải thoát tri kiến uẩn
thanh tịnh nên vượt qua các bậc Thanh văn và Độc giác, hướng nhập Bồ tát
Chánh tánh ly sanh; nhập bậc Chánh tánh ly sanh, mới có thể thành thục hữu
tình, nghiêm tịnh cõi Phật; thành thục hữu tình nghiêm tịnh cõi Phật, được viên
mãn rồi, mới có thể chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao v.v… như đã nói ở trên.
Đại Bồ tát ấy, do tinh tấn nên tuy
có thể làm việc theo thứ bậc, tu học theo thứ bậc, hành trì theo thứ bậc như
thế, nhưng quán tất cả hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh của
tất cả pháp là không.
- Đại Bồ tát ấy từ khi mới phát tâm tu
hành tịnh lự Ba la mật, nên tự nhập bốn tịnh lự, bốn định vô sắc,
cũng khuyên người khác nhập bốn tịnh lự, bốn định vô sắc, khen ngợi chỉ rõ công
đức việc nhập bốn tịnh lự, bốn định vô sắc, hoan hỷ khen ngợi người nhập bốn
tịnh lự, bốn định vô sắc. Đại Bồ tát ấy an trụ bốn tịnh lự, bốn định vô sắc,
tâm được an định, nên mới an trụ giới uẩn, an trụ định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát
uẩn, giải thoát tri kiến uẩn. Do giới định tuệ giải thoát giải thoát tri
kiến uẩn thanh tịnh nên vượt qua các bậc Thanh văn và Độc giác, hướng nhập
Bồ tát Chánh tánh ly sanh; nhập bậc Chánh tánh ly sanh mới có thể thành thục
hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật; thành thục hữu tình nghiêm tịnh cõi Phật được
viên mãn rồi, mới có thể chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao v.v… như đã nói ở
trên.
Đại Bồ tát ấy, do tịnh lự nên tuy có
thể làm việc theo thứ bậc, tu học theo thứ bậc, hành trì theo thứ bậc như thế,
nhưng quán tất cả hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh của tất
cả pháp là không.
- Đại Bồ tát ấy từ khi mới phát tâm
tu hành Bát nhã Ba la mật, thí cho các hữu tình các thứ tài vật, an trụ
giới uẩn, an trụ an nhẫn, tinh tấn, an trụ định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn,
giải thoát tri kiến uẩn, tự hành lục Ba la mật, cũng khuyên người khác hành lục
Ba la mật, khen ngợi chỉ rõ công đức của lục Ba la mật, hoan hỷ khen ngợi người
hành lục Ba la mật. Đại Bồ tát ấy do sức phương tiện thiện xảo của bố thí, tịnh
giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã nên vượt qua các bậc Thanh văn và Độc
giác, hướng nhập Bồ tát Chánh tánh ly sanh; nhập bậc Chánh tánh ly sanh rồi,
mới có thể thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật; thành thục hữu tình,
nghiêm tịnh cõi Phật được viên mãn rồi, mới có thể chứng đắc quả vị Giác ngộ
tối cao; chứng đắc quả vị Giác ngộ rồi, mới có thể chuyển bánh xe pháp; do
chuyển bánh xe pháp nên an lập hữu tình ở pháp ba thừa; hữu tình an trụ vững
vàng ở pháp ba thừa rồi mới có thể giải thoát sanh tử, chứng đắc Niết bàn.
Đại Bồ tát ấy, do Bát nhã Ba la mật
nên tuy có thể làm việc theo thứ bậc, tu học theo thứ bậc, hành trì theo thứ
bậc như thế, nhưng quán tất cả hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì
tự tánh của tất cả pháp là không.
Đó là Đại Bồ tát nương vào tu hành
sáu phép Ba la mật, làm việc theo thứ bậc, tu học theo thứ bậc, hành trì(3)
theo thứ bậc, Đại Bồ tát khi làm việc lần lữa này, tu học lần lữa, hành hạnh
lần lữa, từ sơ phát tâm, đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí tin hiểu các
pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh, nên trước tu Phật tùy niệm, kế nên tu Pháp
tùy niệm, tu Tăng tùy niệm, tu giới tùy niệm, tu xả tùy niệm, sau nên tu thiên
tùy niệm.
(Tu Phật, Pháp, Tăng, Giới, Xả và
Thiên tùy niệm)
- Thế nào là đại Bồ tát tu Phật tùy
niệm?
Đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã
Ba la mật chẳng nên lấy sắc nghĩ tưởng Như Lai, chẳng nên lấy thọ tưởng hành
thức nghĩ tưởng Như Lai. Vì cớ sao? Sắc vô tự tánh, thọ tưởng hành thức vô tự
tánh. Nếu pháp vô tự tánh thời vô sở hữu, nếu vô sở hữu thời chẳng khá niệm.
Nếu không nghĩ, không niệm, đấy là Phật tùy niệm.
Đại Bồ tát chẳng nên lấy ba mươi hai
tướng đại sĩ nghĩ tưởng Như Lai, chẳng nên lấy thân kim sắc nghĩ tưởng Như Lai,
chẳng nên lấy thân có hào quang tứ phía nghĩ tưởng Như Lai, chẳng nên lấy tám
mươi tùy hảo nghĩ tưởng Như Lai. Vì sao? Vì tướng hảo, kim quang, sắc thân như
thế đều vô tự tánh. Nếu pháp vô tự tánh thời vô sở hữu, nếu vô sở hữu thời
chẳng khá niệm. Nếu không nghĩ, không niệm, đấy là Phật tùy niệm.
Đại Bồ tát chẳng nên lấy nhóm giới
nghĩ tưởng Như Lai, chẳng nên lấy nhóm định, nhóm huệ, nhóm giải thoát, nhóm
giải thoát tri kiến nghĩ tưởng Như Lai. Vì sao? Vì các nhóm như thế đều vô tự
tánh. Nếu pháp vô tự tánh thời vô sở hữu, nếu vô sở hữu thời chẳng khá niệm.
Nếu không nghĩ, không niệm, đây là Phật tùy niệm.
Lại nữa, đại Bồ tát chẳng nên dựa
vào năm loại mắt, sáu phép thần thông mà tưởng niệm Như Lai, chẳng nên dựa vào
Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp
Phật bất cộng mà nghĩ tưởng Như Lai… cho đến chẳng nên dựa vào Nhất thiết trí,
Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí mà tưởng niệm Như Lai. Vì sao? Vì các pháp
như thế đều không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì không có sở hữu;
nếu không có sở hữu thì chẳng khá niệm. Nếu không niệm, không suy nghĩ, đây là
Phật tùy niệm.
Đại Bồ tát khi tu hành Bát nhã Ba la
mật nên tu tùy niệm Phật như thế. Nếu tu tùy niệm Phật như thế thì đó là đại Bồ
tát làm việc theo thứ bậc, tu học theo thứ bậc, hành trì theo thứ bậc.
Đại Bồ tát khi hành trì lần lữa như
thế thì có thể viên mãn tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc; có thể viên mãn
tám giải thoát, cũng có thể viên mãn tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến
xứ; có thể viên mãn tất cả pháp môn Tam ma địa, pháp môn Đà la ni; có thể viên
mãn lục Ba la mật, cũng có thể viên mãn mười tám pháp Phật bất cộng… cho đến
viên mãn Nhất thiết trí, cũng có thể viên mãn Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng
trí. Do đó, có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Đại Bồ tát này lấy vô tánh làm tự
tánh, vì sức phương tiện nên giác tất cả pháp đều vô tự tánh. Trong ấy không
hữu tưởng, cũng lại không vô tưởng.
Đại Bồ tát nên tu Phật tùy niệm như
thế, nghĩa là đối với tất cả pháp hãy không có chút niệm, huống có niệm Phật! (Q.372, ĐBN)
- Thế nào là đại Bồ tát tu Pháp
tùy niệm?
Đại Bồ tát ấy khi tu hành Bát nhã Ba
la mật, chẳng nên nghĩ tưởng pháp thiện, pháp bất thiện, pháp vô ký, chẳng nên
nghĩ tưởng pháp thế gian, pháp xuất thế gian, chẳng nên nghĩ tưởng pháp ái
nhiễm, không ái nhiễm, chẳng nên nghĩ tưởng pháp có tranh cãi, pháp không tranh
cãi, chẳng nên nghĩ tưởng pháp Thánh, pháp phàm, pháp hữu lậu, pháp vô lậu,
pháp hữu vi, pháp vô vi, pháp cõi Dục, Sắc, hoặc Vô sắc. Vì sao? Vì các pháp
như thế đều không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì không có sở hữu;
nếu không có sở hữu thì chẳng thể nghĩ tưởng. Vì sao? Vì nếu không nghĩ, không
niệm thì đây là Pháp tùy niệm.
Đại Bồ tát khi hành Bát nhã Ba la
mật nên tu tùy niệm Pháp như thế. Nếu tu Pháp tùy niệm như thế thì đó là đại Bồ
tát làm việc theo thứ bậc, tu học theo thứ bậc, hành trì theo thứ bậc.
Đại Bồ tát ấy khi làm việc theo thứ
bậc, tu học theo thứ bậc, hành trì theo thứ bậc như thế thì có thể viên mãn ba
mươi bảy pháp trợ đạo; có thể viên mãn Tam giải thoát môn, tứ thiền, tứ vô
lượng, tứ định vô sắc; 18 pháp bất cộng v.v… có thể viên mãn Nhất thiết trí,
cũng có thể viên mãn Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Do đó, có thể chứng
đắc Nhất thiết trí trí.
Đại Bồ tát ấy vì dùng sức phương
tiện lấy vô tánh làm tự tánh, nên biết tất cả pháp đều không có tự tánh; trong
ấy không hữu tưởng, cũng lại không vô tưởng.
Đại Bồ tát tu Pháp tùy niệm như thế,
nghĩa là đối với tất cả pháp hãy không có chút niệm, huống là có niệm Pháp!
- Thế nào là đại Bồ tát tu Tăng
tùy niệm?
Đại Bồ tát ấy khi tu hành Bát nhã Ba
la mật chẳng nghĩ thế này, chúng đệ tử Phật, đầy đủ giới uẩn, định uẩn, tuệ
uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn; Bổ đặc già la của tứ song bát
chích (4), tất cả đều là do vô tánh hiển ra, đều lấy vô tánh làm tự tánh. Do
nhân duyên ấy, chẳng nên nghĩ tưởng. Vì sao? Vì chúng đệ tử Phật đều không có
tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì không có sở hữu; nếu không có sở hữu thì
không thể nghĩ tưởng. Vì sao? Vì nếu không nghĩ, không niệm, thì đây là Tăng
tùy niệm.
Đại Bồ tát khi tu hành Bát nhã Ba la
mật nên tùy niệm Tăng như thế. Nếu tu tùy niệm Tăng như thế thì đó là đại Bồ
tát làm việc theo thứ bậc, tu học theo thứ bậc, hành trì theo thứ bậc.
Đại Bồ tát ấy khi làm việc theo thứ
bậc, tu học theo thứ bậc, hành trì theo thứ bậc như thế, thì có thể viên mãn ba
mươi bảy pháp trợ đạo; có thể viên mãn Tam giải thoát môn, tứ thiền, tứ vô
lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng v.v… có thể viên mãn Nhất thiết
trí, cũng có thể viên mãn Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Do đó, có thể
chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Đại Bồ tát ấy vì dùng sức phương
tiện lấy vô tánh làm tự tánh, nên biết tất cả pháp đều không có tự tánh; trong
ấy không hữu tưởng, cũng lại không vô tưởng.
Đại Bồ tát tu Tăng tùy niệm như thế,
nghĩa là trong đó đối với tất cả pháp còn không có chút niệm, huống là có niệm
Tăng!
- Thế nào là đại Bồ tát tu Giới tùy
niệm?
Đại Bồ tát ấy khi hành Bát nhã Ba la
mật, từ lúc mới phát tâm cho đến khi an tọa tòa Bồ đề, thường trụ tịnh giới
không khuyết, không hở, không tỳ vết, không nhiễm ô, không chấp trước, xứng
đáng thọ nhận cúng dường, được người trí khen ngợi là diệu thiện, thọ trì rốt
ráo diệu thiện, tùy thuận thắng định, suy nghĩ giới này lấy vô tánh làm tự
tánh. Do nhân duyên ấy, chẳng nên nghĩ tưởng. Vì sao? Vì tịnh giới như thế hoàn
toàn không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì không có sở hữu; nếu không
có sở hữu thì không thể nghĩ tưởng. Vì sao? Vì nếu không nghĩ, không niệm, thì
đây là Giới tùy niệm.
Đại Bồ tát khi tu hành Bát nhã Ba la
mật nên tùy niệm giới như thế. Nếu tu Giới tùy niệm như thế thì đó là Đại Bồ
tát làm việc theo thứ bậc, tu học theo thứ bậc, hành trì theo thứ bậc.
Đại Bồ tát ấy khi làm việc theo thứ
bậc, tu học theo thứ bậc, hành trì theo thứ bậc như thế, thì có thể viên mãn ba
mươi bảy pháp trợ đạo; có thể viên mãn Tam giải thoát môn, tứ thiền, tứ vô
lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng v.v… có thể viên mãn Nhất thiết
trí, cũng có thể viên mãn Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Do đó, có thể
chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Đại Bồ tát ấy vì dùng sức phương
tiện lấy vô tánh làm tự tánh, nên biết tất cả pháp đều không có tự tánh; trong
ấy không hữu tưởng, cũng lại không vô tưởng.
Đại Bồ tát tu Giới tùy niệm như thế,
nghĩa là trong đó đối với tất cả pháp còn không có chút niệm, huống là có niệm
Giới!
- Thế nào là đại Bồ tát tu Xả tùy
niệm?
Đại Bồ tát ấy khi hành Bát nhã Ba la
mật, vì sức phương tiện lấy vô tánh làm tự tánh, nên tu Xả tùy niệm; hoặc xả
tài, hoặc xả pháp, đều chẳng khởi tâm là ta thí, chẳng thí; xả, chẳng xả; hoặc
xả lóng đốt thân phần cũng chẳng khởi tâm là ta thí, chẳng thí; xả, chẳng xả;
cũng chẳng nghĩ vật đã xả, đã thí và phước đức của xả thí đó. Vì sao? Vì các
pháp như thế đều không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì không có sở
hữu; nếu không có sở hữu thì không thể nghĩ tưởng. Vì sao? Vì nếu không nghĩ,
không niệm, thì đây là Xả tùy niệm.
Đại Bồ tát khi tu hành Bát nhã Ba la
mật nên tu Xả tùy niệm như thế. Nếu tu Xả tùy niệm như thế thì đó là Đại Bồ tát
làm việc theo thứ bậc, tu học theo thứ bậc, hành trì theo thứ bậc.
Đại Bồ tát ấy khi làm việc theo thứ
bậc, tu học theo thứ bậc, hành trì theo thứ bậc như thế, thì có thể viên mãn 37
pháp trợ đạo; có thể viên mãn Tam giải thoát môn, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ
định vô sắc; 18 pháp bất cộng v.v… có thể viên mãn Nhất thiết trí, cũng có thể
viên mãn Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Do đó, có thể chứng đắc Nhất
thiết trí trí.
Đại Bồ tát ấy vì dùng sức phương
tiện lấy vô tánh làm tự tánh, nên biết tất cả pháp đều không có tự tánh; trong
ấy không hữu tưởng, cũng lại không vô tưởng.
Đại Bồ tát tu Xả tùy niệm như thế, nghĩa
là trong đó đối với tất cả pháp Phật còn không có chút niệm, huống là có Xả
niệm!
- Thế nào là đại Bồ tát tu Thiên
tùy niệm?
Đại Bồ tát ấy khi hành Bát nhã Ba la
mật, vì sức phương tiện lấy vô tánh làm tự tánh nên tu Thiên tùy niệm, quán Dự
lưu v.v… tuy sanh vào chúng trời Tứ đại vương, hoặc trời Ba mươi ba, hoặc trời
Dạ ma, hoặc trời Đổ sử đa, hoặc trời Lạc biến hóa, hoặc trời Tha hóa tự tại,
nhưng chẳng thể nắm bắt được, chẳng nên nghĩ tưởng; quán Bất hoàn v.v… tuy sanh
cõi trời Sắc giới, hoặc trời Vô sắc giới, nhưng chẳng thể nắm bắt được, chẳng
nên nghĩ tưởng. Vì sao? Vì các trời như thế đều không có tự tánh. Nếu pháp
không có tự tánh thì không có sở hữu; nếu không có sở hữu thì không thể nghĩ
tưởng. Vì sao? Vì nếu không nghĩ, không niệm, thì đây là Thiên tùy niệm.
Đại Bồ tát khi tu hành Bát nhã Ba la
mật, nên Thiên tùy niệm như thế. Nếu tu Thiên tùy niệm như thế thì đó là đại Bồ
tát làm việc theo thứ bậc, tu học theo thứ bậc, hành trì theo thứ bậc.
Đại Bồ tát ấy khi làm việc theo thứ
bậc, tu học theo thứ bậc, hành trì theo thứ bậc như thế, thì có thể viên mãn 37
pháp trợ đạo; có thể viên mãn Tam giải thoát môn, tứ thiền bát định; 18 pháp
bất cộng v.v… có thể viên mãn Nhất thiết trí, cũng có thể viên mãn Đạo tướng
trí, Nhất thiết tướng trí. Do đó, có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Đại Bồ tát ấy vì dùng sức phương
tiện lấy vô tánh làm tự tánh, nên biết tất cả pháp đều không có tự tánh; trong
ấy không hữu tưởng, cũng lại không vô tưởng.
Đại Bồ tát tu Thiên tùy niệm như
thế, nghĩa là trong đó đối với tất cả pháp Phật còn không có chút niệm, huống
là có niệm Thiên!
Đại Bồ tát khi tu Bát nhã Ba la mật,
vì muốn viên mãn làm theo thứ bậc, tu theo thứ bậc, hành trì theo thứ bậc, lấy
vô tánh làm tự tánh, vì sức phương tiện nên phải học 18 pháp không; nên học
chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh
bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế…; cũng lấy vô tánh làm tự
tánh, vì sức phương tiện nên phải học tứ Thánh đế, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ
định vô sắc, 18 pháp bất cộng; cũng lấy vô tánh làm tự tánh, vì sức phương tiện
nên phải học Nhất thiết trí; phải học Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí v. v…
Đại Bồ tát này khi hành Bồ tát hạnh như thế, học tất cả pháp đều lấy vô tánh
làm tự tánh, trong ấy hãy không chút niệm khá được, huống có niệm sắc, niệm thọ
tưởng hành thức, niệm tất cả pháp Phật. Các niệm và pháp bị niệm như thế, nếu
có chút thật, thì không có lẽ.
Đại Bồ tát khi tu hành Bát nhã Ba la
mật như thế tuy làm việc theo thứ bậc, tu học theo thứ bậc, hành trì theo thứ
bậc, nhưng ở trong đó, có tất cả tâm sở hành nghiệp, tâm sở tu học, tâm sở hành
trì đều chẳng chuyển, vì tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh.
(Chẳng chấp Hữu chấp Vô)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật
rằng: Nếu tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh thì đáng lẽ không có sắc,
cũng không có thọ, tưởng, hành, thức; đáng lẽ không có xứ, giới…, đáng lẽ không
có Nhất thiết trí, cũng không có Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; không có
các quả Thanh văn, Độc giác; đáng lẽ không có Bồ tát hạnh, cũng không có quả vị
Giác ngộ tối cao; đáng lẽ không Phật, không Pháp, không Tăng; không đạo, không
quả; không nhiễm, không tịnh; đáng lẽ không hành, cũng không đắc, không hiện
quán, cho đến tất cả pháp đáng lẽ cũng đều không có?
Phật hỏi lại cụ thọ Thiện Hiện:
- “Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Ở
trong tất cả pháp lấy vô tánh làm tự tánh thì tánh hữu, tánh vô có thể nắm bắt
được chăng?
Thiện Hiện bạch:
- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện
Thệ! Không! Ở trong tất cả pháp lấy vô tánh làm tự tánh, thì tánh hữu, tánh vô
đều chẳng thể nắm bắt được.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu ở trong tất cả
pháp lấy vô tánh làm tự tánh, tánh hữu, tánh vô đều chẳng thể nắm bắt được thì
tại sao nay ông có thể đặt câu hỏi là nếu tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự
tánh thì đáng lẽ không có sắc, cũng không có thọ, tưởng, hành, thức; đáng lẽ
không có xứ, giới v.v… đáng lẽ không có Nhất thiết trí, cũng không có Đạo tướng
trí, Nhất thiết tướng trí; đáng lẽ không có quả Dự lưu, cũng không có quả Nhất
lai, Bất hoàn, A la hán, quả vị Độc giác; đáng lẽ không có Bồ tát hạnh, cũng
không có quả vị Giác ngộ tối cao; đáng lẽ không Phật, cũng không Pháp, không
Tăng; đáng lẽ không đạo, không quả; không nhiễm, không tịnh; đáng lẽ không
hành, không đắc, không hiện quán, cho đến tất cả pháp đáng lẽ đều là không?
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đối với pháp ấy, con
không nghi hoặc, nhưng vào đời tương lai, có Bí sô v.v… hoặc cầu Thanh văn
thừa, hoặc cầu Độc giác thừa, hoặc cầu Bồ tát thừa, họ sẽ nói: Phật dạy tất cả
pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh. Nếu tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh
thì ai nhiễm, ai tịnh, ai triền phược, ai giải thoát? Vì đối với nhiễm, tịnh và
đối với triền phược, giải thoát chẳng hiểu rõ, nên họ phá giới, phá kiến, pháp
oai nghi, phá tịnh mạng; do phá giới, phá kiến, phá pháp, phá tịnh mạng nên đọa
địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, chịu các khổ kịch liệt, luân hồi sanh tử, khó
được giải thoát. Con quán đời vị lai sẽ có sự việc đáng sợ như thế, nên hỏi Như
Lai ý nghĩa sâu xa như thế, nhưng đối với điều này, con không nghi hoặc.
Phật dạy:
- Hay thay! Này Thiện Hiện! Đúng
vậy! Đúng như lời ông nói! Trong tất cả pháp lấy vô tánh làm tự tánh, tánh hữu
tánh vô đều chẳng thể nắm bắt được. Ở đây chẳng nên chấp tánh hữu tánh
vô”. (Q.373, ĐBN)
Thích nghĩa:
(1). Ngũ thần thông: Thần cảnh trí
chứng thông, Thiên nhĩ trí chứng thông, Thiên nhãn trí chứng thông, Tha tâm trí
chứng thông và Túc trụ tùy niệm chứng thông, nếu thêm Lậu tận trí chứng thông
nữa thì thành lục thần thông. (Xem lại phần thứ I Tổng luận hay phẩm “Vãng
Sanh”, quyển thứ 02, Kinh MHBNBLMĐ).
(2). Lần lượt làm việc theo thứ bậc,
tu học theo thứ bậc, hành trì theo thứ bậc: Nguyên văn câu chữ Hán là “作 tác 漸 tiệm 次 thứ 業 nghiệp . 修 tu 漸 tiệm 次 thứ 學 học . 行 hành 漸 tiệm 次 thứ 行 hành”:
- Nghiệp (業 S: karma;
P: kamma): Đó là một khái niệm quan trọng của Đạo Phật, có thể nói gọn là do
các hành vi tư tưởng thiện ác, xấu tốt của thân khẩu ý tạo nên. Làm lành thì có
kết quả tốt, làm ác thì hậu quả xấu. Kết quả hay hậu quả của hành vi tạo tác đó
được gọi là nghiệp.
- Học (學): Nghiên cứu, tra cứu, ghi nhớ.
- Hành (行): Thực hành, hành trì.
Vì vậy, câu chữ Hán trên được nhiều
dịch giả dịch là “làm việc theo thứ bậc, tu học theo thứ bậc, hành trì theo thứ
bậc” hay “làm nghiệp lần hồi, tu học lần hồi, hành hạnh lần hồi”, hoặc “tuần tự
tạo nghiệp, tuần tự tu học, tuần tự thực hành”. Kinh Ma Ha Bát nhã Ba la mật
trong phẩm “Tam Thứ Đệ Hành” dịch là: Chỗ làm thứ đệ hành, thứ đệ học và thứ đệ
đạo.
Sau khi hiểu rõ nghĩa của nghiệp,
học và hành, chúng ta có thể dịch một cách giản tiện câu chữ Hán trên như sau:
“tạo nghiệp lần hồi, học lần hồi, hành lần hồi”.
(3). Hành trì: Thực hành, áp dụng sở
học vào đời sống. Có hành trì mới có tu chứng.
(4). Bổ đặc già la của tứ song bát
chích: Bổ đặc già la đã thích nghĩa rồi, xin nhắc lại Bổ đặc già la nói nôm na
là hữu tình có luân hồi sanh tử, đôi khi dịch là “chủ thể luân hồi”. Có rất
nhiều quan niệm về Bổ đặc già la tùy theo bộ phái Phật giáo. Có giáo phái cho
Bổ đặc già la đồng nghĩa với người, như luận Pháp uẩn túc quyển 2 gọi quả vị tu
hành Tứ song bát bối (bốn đôi tám bậc) là Tứ song bát chích bổ đặc già la.
Lược giải:
Người trụ hữu tưởng, không thuận
nhẫn, không đạo, không quả cũng không hiện quán thì người trụ vô tưởng cũng
không thuận nhẫn, không đạo, không quả, không hiện quán. Trụ hữu, trụ vô là trụ
hai bên, nếu có hai bên là có chấp, có chấp là có thiên lệch… Ngược lại, nếu
không trụ hữu cũng không trụ vô thì đó tức là Bồ tát thuận nhẫn, cũng là tu
đạo, cũng đắc quả.
Trụ hữu, trụ vô có nghĩa là gì? Đó
là nắm giữ những nghĩ tưởng thuộc nhị pháp hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc
hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc viễn ly hoặc
chẳng viễn ly… Những nghĩ tưởng này do thức vọng phân biệt sanh khởi tạo thành
tâm sanh diệt, nên không thể tu, không thể chứng. Bất nhị chính là pháp vô
tánh, nghĩa là không nắm giữ có không, được mất, thủ xả… Nên Kinh nói vô tánh
đây tức là Bồ tát đạo, vô tánh đây tức là hiện quán. Do lý do này, nên nói “tất
cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh”. Chúng ta cũng biết tất cả pháp không có
tự tánh vì chúng là duyện hội. Có duyên mới có pháp, không duyên làm sao có
pháp. Không có pháp, thì làm gì có tự tánh, nên thi thiết lấy vô tánh làm tự
tánh. Nói như vậy là quá cô động, nhưng nó là sở ngộ của Phật. Giáo pháp này
được nhắc nhở không biết bao nhiêu lần. Ngày nào hiểu được chỗ này thì thấy
đạo. Nên Kinh nói “... vô tánh tức là đạo Bồ tát Ma ha tát, vô
tánh tức là hiện quán Bồ tát Ma ha tát”.
Kinh thuyết tiếp: Đoạn trừ phiền não
là do tu Thánh đạo, không phải do nắm bỏ các pháp. Vì bị phiền não khách trần
che đậy nên các đại Bồ tát chẳng có thể nhập Chánh tánh ly sanh. Nếu không thể
nhập Bồ tát Chánh tánh ly sanh thì cũng không thể chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Nếu không thể chứng đắc Nhất thiết trí trí thì cũng không thể đoạn trừ vĩnh
viễn tất cả tập khí phiền não tương tục.
Tất cả các bậc hiền Thánh từ Thanh
văn đến Vô Thượng Chánh đẳng Chánh giác đều lấy vô tánh tự tánh làm cứu cánh
tu hành tất cả pháp để chứng đắc quả vị mà mình thọ trì, nhưng không thấy
mình tu, mình chứng cũng không thấy bất cứ một pháp nào dù nhỏ nhiệm bằng một
mảy lông phải tu, phải chứng, phải trụ.
Đại Bồ tát ấy phát tâm hướng đến quả
vị Giác ngộ tối cao, vì cứu độ khắp hữu tình nên làm việc theo thứ bậc, tu học
theo thứ bậc, hành trì theo thứ bậc giống như các đại Bồ tát ở quá khứ đã từng
làm: Trước hết nên lần lược tu hành bố thí, kế đến nên tu hành tịnh giới, tu
hành an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, sau cùng nên tu hành Bát nhã Ba la mật.
Đại Bồ tát ấy từ khi mới phát tâm tu
hành lục Ba la mật, cũng khuyên người hành lục Ba la mật, chỉ rõ
công đức của việc hành lục Ba la mật, hoan hỷ khen ngợi người hành lục Ba la
mật. Do nhân duyên này, nên viên mãn sáu pháp Ba la mật, được sanh vào cõi trời
người, hưởng được quả báo cao quý. Nhưng Bồ tát không an trụ ở đó mà lại tu tập
giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn. Do giới,
định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến uẩn viên mãn nên vượt qua
các bậc Thanh văn và Độc giác, hướng nhập Bồ tát Chánh tánh ly sanh, thành thục
hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển bánh
xe pháp, an lập hữu tình ở ba thừa để giúp chúng sanh giải thoát sanh tử.
Đại Bồ tát ấy, nương lục Ba la mật
nên khi làm việc lần lữa, tu học lần lữa, hành hạnh lần lữa này theo thứ bậc,
từ sơ phát tâm, đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí tin hiểu các pháp hoàn
toàn chẳng thể nắm bắt được, vì biết các pháp đều không, lấy vô tánh làm tự
tánh, trước nên tu Phật tùy niệm, kế nên tu Pháp tùy niệm, tu Tăng tùy niệm,
giới tùy niệm, xả tùy niệm, sau nên tu thiên tùy niệm.
Đại Bồ tát khi tu Bát nhã Ba la mật,
vì muốn viên mãn “làm theo thứ bậc, tu theo thứ bậc, hành theo thứ bậc”, nên
phải học tất cả pháp, nhưng đều lấy vô tánh làm tự tánh, trong ấy hãy không
chút niệm khá được, huống có niệm sắc cho đến niệm tất cả pháp Phật. Các
niệm và pháp bị niệm như thế, nếu có chút thật, thì không có lẽ. Vì sao? Vì
tất cả tâm sở hành nghiệp, tâm sở tu học, tâm sở hành trì đều chẳng chuyển đối
với tất cả pháp lấy vô tánh làm tự tánh.
Phật dạy:
- “Này Thiện Hiện! Nếu ở trong tất
cả pháp lấy vô tánh làm tự tánh, tánh hữu, tánh vô đều chẳng thể nắm bắt
được thì tại sao nay ông có thể đặt câu hỏi là nếu tất cả pháp đều lấy vô
tánh làm tự tánh thì đáng lẽ không có sắc, cũng không có thọ, tưởng, hành,
thức; đáng lẽ không có xứ, giới v.v… đáng lẽ không có Nhất thiết trí, cũng
không có Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; đáng lẽ không có quả Dự lưu, cũng
không có quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, quả vị Độc giác; đáng lẽ không có Bồ
tát hạnh, cũng không có quả vị Giác ngộ tối cao; đáng lẽ không Phật, cũng không
Pháp, không Tăng; đáng lẽ không đạo, không quả; không nhiễm, không tịnh; đáng
lẽ không hành, không đắc, không hiện quán, cho đến tất cả pháp đáng lẽ đều là
không.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đối với pháp ấy, con
không nghi hoặc, nhưng vào đời tương lai, có Bí sô v.v… hoặc cầu Thanh văn
thừa, hoặc cầu Độc giác thừa, hoặc cầu Bồ tát thừa, họ sẽ nói: Phật dạy tất cả
pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh. Nếu tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh
thì ai nhiễm, ai tịnh, ai triền phược, ai giải thoát? Vì đối với nhiễm, tịnh và
đối với triền phược, giải thoát chẳng hiểu rõ, nên họ phá giới, phá kiến, phá
oai nghi, phá tịnh mạng; do phá giới, phá kiến, phá oai nghi, phá tịnh mạng nên
đọa địa ngục, bàng sanh, quỉ giới, chịu các khổ dữ dội, luân hồi sanh tử, khó
được giải thoát. Con quán đời vị lai sẽ có sự việc đáng sợ như thế, nên hỏi Như
Lai ý nghĩa sâu xa như thế, nhưng đối với điều này, con không nghi hoặc.
Phật dạy:
- Hay thay! Này Thiện Hiện! Đúng
vậy! Đúng như lời ông nói! Trong tất cả pháp lấy vô tánh làm tự tánh, tánh hữu,
tánh vô đều chẳng thể nắm bắt được. Ở đây chẳng nên chấp tánh hữu, tánh
vô”. (Q.373, ĐBN)
Tất cả pháp, pháp nào cũng tốt, cũng
mang nhiều thắng lợi, công ích cả. Biết như vậy nhưng đừng chấp đắm. Một khi có
chấp Bát Nhã không còn ở đó nữa, thì còn gì để tu để học để chứng. Học tất cả
pháp, tu tất cả pháp, hành tất cả pháp... nhưng chẳng chấp pháp nào. Vì tất cả
pháp đều không có tự tánh, lấy vô tánh làm tự tánh. Đây không phải là sáo ngữ
mà chúng ta chỉ biết lặp đi lặp lại như con vẹt. Ngày nào thấy nó như một chân
lý thì ngày đó sẽ thành đạo tướng trí.
Kết luận:
Giáo pháp chính của phẩm này là nói
tới kỹ thuật tu hành của người hành trì Bát Nhã. Muốn thành đạt giác ngộ thì
hành giả Bát Nhã phải lần lược “làm theo thứ bậc, tu học theo thứ bậc và hành
theo thứ bậc” tất cả các thiện pháp nhất là sáu pháp Ba la mật. Ngoài ra, từ sơ
phát tâm, hành giả Bát Nhã phải lấy tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí làm đầu,
tin hiểu các pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh, nên trước hết phải tu Phật tùy
niệm, kế nên tu Pháp tùy niệm, Tăng tùy niệm, giới tùy niệm, xả tùy niệm, sau
nên tu thiên tùy niệm. Nhưng dù tu dưới bất cứ hình thức nào cũng phải nhớ: “Tất cả pháp
lấy vô tánh làm tự tánh, tánh hữu, tánh vô đều bất khả đắc. Ở đây chẳng nên
chấp hữu chấp vô”. Vì Bát nhã Ba la mật là pháp môn bất nhị! Nên học,
nên tu Bát Nhã đừng tưởng Hữu tưởng Vô, phải như hư không mà học!
Phẩm “Vô tướng vô đắc” sau đây sẽ
giải thích thêm ý này.
---o0o---