PHẨM “KHÔNG NÊU CỜ”
Phần sau quyển 436 đến phần đầu quyển 437, Hội thứ II.
(Tương đương 2 phẩm: 1. Phẩm “Trước và Chẳng Trước
Tướng”, Q.287 - Q.292, và
2. Phẩm “Thuyết Tướng Bát Nhã”, phần sau Q.292 - Q.296,
Hội thứ I, ĐBN)
Gợi
ý:
Phẩm này có thể chia làm hai phần để thuyết: 1. Trước và
chẳng trước tướng; 2.
Thuyết tướng Bát Nhã.
Tóm
lược:
1. Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Trước và Chẳng Trước
Tướng”, quyển 287 đến quyển 292, Hội thứ I, ĐBN.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát nên hành Bát Nhã như thế nào?
Phật nói:
- Thiện Hiện! Đại Bồ tát hành Bát Nhã, nếu chẳng hành sắc
là hành Bát Nhã, chẳng hành thọ tưởng hành thức là hành Bát Nhã. Cho đến
chẳng hành Nhất thiết trí là hành Bát Nhã; chẳng hành Đạo tướng trí, Nhất thiết
tướng trí là hành Bát nhã Ba la mật.
Chẳng hành sắc hoặc thường hoặc vô thường; chẳng hành sắc
hoặc vui hoặc khổ; chẳng hành sắc hoặc ngã hoặc vô ngã; chẳng hành sắc hoặc
tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát Nhã. Chẳng hành thọ tưởng hành thức hoặc
thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc
bất tịnh là hành Bát Nhã. Như vậy, cho đến chẳng hành Nhất thiết trí, Đạo tướng
trí, Nhất thiết tướng trí thường hoặc vô thường cho đến tịnh hoặc bất tịnh là
hành Bát Nhã. Vì sao? Vì đại Bồ tát khi hành Bát Nhã hãy chẳng thấy sắc thọ
tưởng hành thức, huống thấy sắc thọ tưởng hành thức hoặc thường hoặc vô thường,
hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Như vậy, cho
đến hãy chẳng thấy Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; huống
chi thấy ba trí này hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã
hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ tát khi hành Bát Nhã chẳng
hành sắc viên mãn, chẳng hành sắc chẳng viên mãn là hành Bát nhã Ba la mật.
Chẳng hành thọ tưởng hành thức viên mãn, chẳng hành thọ tưởng hành thức chẳng
viên mãn là hành Bát Nhã. Như vậy, cho đến chẳng hành Nhất thiết trí viên mãn,
chẳng hành Nhất thiết trí chẳng viên mãn là hành Bát Nhã. Chẳng hành Đạo tướng
trí, Nhất thiết tướng trí viên mãn, chẳng hành Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng
trí chẳng viên mãn là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì đại Bồ tát khi hành Bát
Nhã hãy chẳng thấy chẳng đắc sắc thọ tưởng hành thức, huống thấy đắc sắc thọ
tưởng hành thức hoặc viên mãn hoặc chẳng viên mãn. Như vậy, cho đến hãy chẳng
thấy chẳng đắc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; huống thấy
đắc ba trí này hoặc viên mãn hoặc chẳng viên mãn.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác rất lạ, khéo vì
các thiện nam thiện nữ Đại thừa, tuyên nói tướng chấp trước chẳng chấp trước.
Phật nói:
- Thiện Hiện! Như vậy. Đúng như ngươi đã nói. Tất cả Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác khéo vì các thiện nam thiện nữ Đại thừa, tuyên nói tướng
chấp trước chẳng chấp trước.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ tát khi hành Bát Nhã chẳng
hành sắc hoặc chấp trước hoặc chẳng chấp trước là hành Bát Nhã; chẳng hành
thọ tưởng hành thức hoặc chấp trước hoặc chẳng chấp trước là hành Bát Nhã;
chẳng hành mười hai xứ cho đến mười tám giới hoặc chấp trước hoặc chẳng chấp
trước là hành Bát Nhã; chẳng hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật hoặc chấp
trước hoặc chẳng chấp trước là hành Bát nhã Ba la mật; chẳng hành nội không cho
đến vô tánh tự tánh không hoặc chấp trước hoặc chẳng chấp trước là hành Bát Nhã;
chẳng hành ba mươi bảy trợ đạo, chẳng hành Như Lai mười lực cho đến mười tám
pháp Phật bất cộng hoặc chấp trước hoặc chẳng chấp trước là hành Bát Nhã; chẳng
hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí hoặc chấp trước hoặc
chẳng chấp trước là hành Bát nhã Ba la mật; chẳng hành quả Dự lưu, Nhất lai,
Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, hoặc chấp trước hoặc chẳng chấp trước là
hành Bát Nhã; chẳng hành tất cả Bồ tát hạnh, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề hoặc chấp trước hoặc chẳng chấp trước là hành Bát nhã Ba la mật.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát khi hành Bát Nhã như thế, như thật
biết rõ sắc không tướng chấp trước chẳng chấp trước. Thọ tưởng hành thức cũng
không tướng chấp trước chẳng chấp trước. Như vậy, cho đến như thật biết rõ tất
cả Bồ tát hạnh không tướng chấp trước chẳng chấp trước, chư Phật Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề cũng không tướng chấp trước chẳng chấp trước.
(Tu Bát Nhã như tu hư không)
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Pháp tánh thẳm sâu rất là hiếm có, hoặc nói
hoặc chẳng nói đều chẳng tăng chẳng giảm.
Phật nói:
- Thiện Hiện! Như vậy. Đúng như ngươi đã nói! Pháp tánh
thẳm sâu rất hiếm có, hoặc nói hoặc chẳng nói đều không tăng giảm. Giả
sử Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trụ hết thọ lượng khen chê hư không, hư không
kia cũng không tăng không giảm. Pháp tánh thẳm sâu cũng lại như thế, hoặc nói
chẳng nói đều không tăng giảm. Ví như huyễn sĩ, khen hay chê không tăng không
giảm, cũng không buồn không vui. Pháp tánh thẳm sâu cũng lại như thế, hoặc nói
hoặc chẳng nói như hư không chẳng khác.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ tát tu hành Bát Nhã là việc rất
khó. Nghĩa là đối với Bát nhã Ba la mật đây, nếu tu hay chẳng tu thì cũng
không tăng không giảm, không buồn không vui, không thuận không trái, song siêng
năng tu học Bát Nhã như thế cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì thường không
thối chuyển. Vì sao? Vì các Đại Bồ tát tu hành Bát Nhã như tu hư không, đều
không sở hữu.
Bạch Thế Tôn! Như trong hư không không sắc khá biết, không
thọ tưởng hành thức khá biết. Không mười hai xứ khá biết, không mười tám giới
khá biết. Không bố thí khá biết; không tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát
nhã Ba la mật khá biết. Không nội không khá biết, không ngoại không cho đến vô
tánh tự tánh không khá biết. Không ba mươi bảy pháp trợ đạo khá biết, không Phật
mười lực, không bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng khá biết.
Không Nhất thiết trí khá biết; không Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí khá
biết. Không quả Dự lưu khá biết; không quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc
giác Bồ đề khá biết. Không tất cả Bồ tát hạnh khá biết. Không chư Phật Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề khá biết. Sở tu Bát nhã Ba la mật cũng lại như thế. Nghĩa
là trong pháp Bát nhã Ba la mật thẳm sâu đây không sắc khá được, không thọ
tưởng hành thức khá được. Cho đến không Bồ tát hạnh khá được. Không chư Phật Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề khá được.
Trong đây dù không có các pháp khá được, mà các đại Bồ tát
thường siêng tinh tấn tu học Bát Nhã, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thường
không quay lui. Vậy nên con nói các đại Bồ tát tu hành Bát Nhã là việc rất khó.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ tát thường mặc áo giáp đại công
đức như thế, tất cả hữu tình đều nên kính lễ.
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ tát vì hữu tình mặc áo giáp công đức
chuyên cần tinh tấn thì cũng giống như hư không mà mặc áo giáp công đức chuyên
cần tinh tấn.
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ tát vì muốn giải thoát cho hữu tình
mặc áo giáp công đức chuyên cần tinh tấn thì cũng giống như muốn giải thoát cho
hư không mặc áo giáp công đức chuyên cần tinh tấn.
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ tát vì tất cả pháp mặc áo giáp công
đức chuyên cần tinh tấn thì cũng giống như hư không mặc áo giáp công đức chuyên
cần tinh tấn.
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ tát vì cứu vớt chúng sanh ra khỏi
khổ sanh tử mặc áo giáp công đức chuyên cần tinh tấn thì cũng giống như vì cất
hư không để chỗ cao hơn mà mặc áo giáp công đức chuyên cần tinh tấn.
Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ tát được thế lực đại tinh tấn dũng
mãnh, vì loài hữu tình nên sớm thoát khỏi sanh tử như hư không, nên phát tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ tát được thần lực bất tư nghì vô
đẳng, vì biển pháp tánh như hư không mặc giáp công đức phát tới Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề.
Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ tát rất cực mạnh mẽ, vì sở cầu Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như hư không mặc giáp công đức chuyên cần tinh tấn.
Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ tát vì các loại hữu tình như hư
không thành thục giải thoát được lợi vui lớn, siêng tu khổ hạnh, muốn chứng Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Việc đó rất hiếm có. Vì sao? Vì giả sử trong Tam thiên
đại thiên thế giới đầy rẫy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như rừng, tre, mè, lau,
mía v.v… hoặc trải một kiếp, hoặc một kiếp hơn, vì các hữu tình thuyết Chánh
pháp, đều độ vô lượng vô biên hữu tình khiến vào Niết bàn an vui rốt ráo, mà
cõi hữu tình chẳng thêm chẳng bớt. Sở dĩ như vậy là vì các hữu tình đều vô sở
hữu, tánh xa lìa vậy.
Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên này nên con tác thuyết: Các đại
Bồ tát vì các loại hữu tình như hư không thành thục giải thoát, được lợi vui
lớn, siêng tu khổ hạnh, muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rất là hiếm có.
Khi đó trong chúng hội có một Bí sô thầm khởi nghĩ này: Ta
nên kính lễ Bát Nhã thẳm sâu. Trong đấy tuy không các pháp sanh diệt, mà có
những nhóm giới, nhóm định, nhóm huệ, nhóm giải thoát, nhóm giải thoát trí kiến
khá thi thiết được. Cũng có quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác
Bồ đề khá thi thiết được. Cũng có Bồ tát hạnh khá thi thiết được. Cũng có Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề khá thi thiết được. Cũng có chúng Bồ tát và các Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác khá thi thiết được. Cũng có Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo
khá thi thiết. Cũng có chư Phật quay xe diệu pháp, khiến các hữu tình lợi ích
an vui khá thi thiết được.
Phật biết điều thầm nghĩ kia, liền bảo rằng:
- Bí sô! Như vậy. Đúng như ngươi đã nghĩ! Bát Nhã thẳm sâu
mầu nhiệm khó lường, tuy chẳng có pháp mà cũng chẳng phải không.
(Học Bát Nhã phải như hư không mà học)
Khi ấy, Thiên Đế Thích hỏi Thiện Hiện rằng:
- Thưa Đại Đức! Nếu đại Bồ tát muốn học Bát nhã Ba la mật
phải học như thế nào?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ tát muốn học Bát Nhã phải như hư
không tinh siêng tu học. (Q.437, ĐBN)
Khi đó, Thiên Đế Thích lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ đối Bát nhã Ba la
mật đây chăm lòng lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng
lý, thơ tả giải nói rộng khiến lưu bố, con phải làm sao thủ hộ (bảo hộ)
họ?
Bấy giờ, Thiện Hiện thay Phật bảo Đế Thích rằng:
- Kiều Thi Ca! Ngươi thấy có pháp khá thủ hộ chăng?
Thiên Đế Thích nói:
- Thưa Đại đức! Chẳng có! Con chẳng thấy pháp khá thủ hộ
được.
Thiện Hiện bảo rằng:
- Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ như Phật đã dạy, an
trụ Bát nhã Ba la mật tức là thủ hộ. Nếu các thiện nam, thiện nữ an trụ Bát
nhã Ba la mật thường chẳng xa lìa, phải biết tất cả người phi người thảy rình
tìm chỗ dở, muốn làm tổn hại trọn chẳng thể được.
Kiều Thi Ca! Nếu muốn thủ hộ các thiện nam thiện nữ an trụ Bát
nhã Ba la mật, chẳng khác có người phát ý siêng năng thủ hộ hư không. Nếu muốn
thủ hộ các thiện nam thiện nữ tu hành Bát nhã Ba la mật, nhọc nhằn luống uổng
đều không ích gì.
Kiều Thi Ca! Ý ông nghĩ sao? Có người có thể thủ hộ huyễn,
mộng, vang, tượng, bóng sáng, ánh nắng và việc biến hóa, thành tầm hương không?
Thiên Đế Thích nói:
- Thưa Đại Đức! Chẳng có!
Thiện Hiện bảo rằng:
- Kiều Thi Ca! Nếu muốn thủ hộ các thiện nam, thiện nữ tu
hành Bát nhã Ba la mật cũng lại như thế, nhọc nhằn luống uổng đều không ích gì.
Kiều Thi Ca! Ý ông nghĩ sao? Có người thường thủ hộ tất cả
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và những việc do Phật biến hóa ra không?
Thiên Đế Thích nói:
- Thưa Đại đức! Chẳng có!
Thiện Hiện bảo rằng:
- Kiều Thi Ca! Nếu muốn thủ hộ các thiện nam, thiện nữ tu
hành Bát nhã Ba la mật cũng lại như thế, nhọc nhằn luống uổng đều không ích gì.
Kiều Thi Ca! Ý ông nghĩ sao? Có người năng thủ hộ pháp giới,
pháp tánh, chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, hư không giới không?
Thiên Đế Thích nói:
- Thưa Đại đức! Chẳng có!
Thiện Hiện bảo rằng:
- Kiều Thi Ca ! Nếu muốn thủ hộ các thiện nam, thiện nữ tu
hành Bát nhã Ba la mật cũng lại như thế, nhọc nhằn luống uổng đều không ích gì.
Khi ấy, Thiên Đế Thích hỏi Thiện Hiện rằng:
- Thưa Đại đức! Vì sao đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã dù biết
các pháp như huyễn, như mộng, như vang, như tượng, như bóng sáng, như ánh nắng,
như việc biến hóa, như thành tầm hương, mà đại Bồ tát này chẳng chấp là huyễn,
là mộng, là vang, là tượng, là bóng sáng, là ánh nắng, là việc biến hóa, là
thành tầm hương. Cũng lại chẳng chấp thuộc huyễn cho đến thuộc thành tầm hương.
Cũng lại chẳng chấp nương huyễn cho đến nương thành tầm hương?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Kiều Thi Ca! Nếu Bồ tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật,
chẳng chấp là sắc, là thọ tưởng hành thức; cũng chẳng chấp do sắc, do thọ tưởng
hành thức; cũng chẳng chấp thuộc sắc, thuộc thọ tưởng hành thức; cũng chẳng
chấp nương sắc, nương thọ tưởng hành thức. Như vậy, cho đến chẳng chấp là Nhất
thiết trí, là Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; cũng chẳng chấp do Nhất
thiết trí, do Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; cũng chẳng chấp thuộc; cũng
chấp nương v.v...
Đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật, dù biết các
pháp như huyễn cho đến như thành tầm hương, mà chẳng chấp là huyễn cho đến là
thành tầm hương; cũng lại chẳng chấp thuộc huyễn cho đến thuộc thành tầm hương;
cũng lại chẳng chấp nương huyễn cho đến nương thành tầm hương.
2. Đoạn
Kinh dưới đây tương đương với phẩm “Thuyết Tướng Bát Nhã”,
phần sau Q.292 đến Q.296,
Hội thứ I, ĐBN.
Bấy giờ, nhờ oai thần Như Lai nên Tam thiên đại thiên thế
giới đây, trời Bốn đại vương
chúng cho đến trời Tịnh cư đều đem thiên hoa, bột hương đàn trầm xa rải lên
Phật, đi đến chỗ Phật đảnh lễ hai chân, lui đứng một phía. Và cũng nhờ thần lực
của đức Phật nên chư thiên thấy ngàn cõi Phật ở phương Đông đều có Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật, ý nghĩa phẩm loại, danh tự đều
đồng như đây. Bí sô đứng đầu thỉnh hỏi Bát Nhã đều có tên là Thiện Hiện. Đứng
đầu Thiên chúng hỏi Bát Nhã đều tên là Đế Thích. Phương Nam Tây Bắc, bốn góc,
trên dưới cũng lại như thế.
Bấy giờ, Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện rằng:
- Từ Thị Bồ tát khi chứng Vô thượng Chánh đẳng Giác cũng ở
nơi đây tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật. Các Phật đương lai trong hiền kiếp đây,
cũng ở nơi này tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Từ Thị Bồ tát khi chứng Vô thượng Chánh đẳng
giác phải lấy các hành tướng trạng pháp nào tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Từ Thị Bồ tát khi chứng Vô thượng Chánh đẳng
giác, sẽ lấy sắc phi thường phi vô thường tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật,
sẽ lấy thọ tưởng hành thức phi thường phi vô thường tuyên thuyết Bát nhã Ba la
mật. Như vậy, cho đến sẽ lấy Nhất thiết trí phi thường phi vô thường tuyên
thuyết Bát nhã Ba la mật; sẽ lấy Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí phi thường
phi vô thường tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật. Sẽ lấy sắc phi lạc phi khổ
tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật, sẽ lấy thọ tưởng hành thức phi lạc phi khổ
tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật. Như vậy, cho đến sẽ lấy Nhất thiết trí phi lạc
phi khổ tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật; sẽ lấy Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng
trí phi lạc phi khổ tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật. Sẽ lấy sắc, thọ, tưởng,
hành, thức phi ngã phi vô ngã; phi tịnh phi bất tịnh; phi buộc phi mở; phi
quá khứ phi vị lai… tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật. Như vậy, cho đến sẽ lấy
Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí phi ngã phi vô ngã; phi
tịnh phi bất tịnh; phi buộc phi mở v.v… tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật.
(Một pháp thanh tịnh mười phương thế
giới như cát sông Hằng đều thanh tịnh)
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Từ Thị Bồ tát khi được Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề sẽ chứng pháp nào? Sẽ thuyết pháp nào?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Từ Thị Bồ tát khi được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề sẽ chứng sắc rốt ráo tịnh, thuyết sắc rốt ráo tịnh. Chứng thọ tưởng
hành thức rốt ráo tịnh, thuyết thọ tưởng hành thức rốt ráo tịnh. Như vậy cho
đến chứng Nhất thiết trí rốt ráo tịnh, thuyết Nhất thiết trí rốt ráo tịnh.
Chứng Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí rốt ráo tịnh, thuyết Đạo tướng trí,
Nhất thiết tướng trí rốt ráo tịnh.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế duyên vào đâu mà
được thanh tịnh?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Sắc thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh
tịnh, thọ tưởng hành thức thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Như vậy,
cho đến Nhất thiết trí thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh; Đạo
tướng trí, Nhất thiết tướng trí thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
Cụ thọ Thiện Hiện liền thưa Phật rằng:
- Vì sao sắc thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh? Thọ
tưởng hành thức thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh? Như vậy, cho
đến vì sao Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí thanh tịnh
nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Sắc không sanh không diệt không nhiễm không
tịnh nên thanh tịnh, sắc thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Thọ
tưởng hành thức không sanh không diệt không nhiễm không tịnh nên thanh tịnh,
thọ tưởng hành thức thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Như vậy, cho
đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí không sanh không diệt
không nhiễm không tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hư không thanh tịnh nên Bát nhã Ba la
mật thanh tịnh.
- Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không thanh tịnh nên Bát nhã Ba la
mật thanh tịnh?
- Thiện Hiện! Hư không không sanh không diệt không dơ không
sạch nên thanh tịnh. Hư không thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật
thanh tịnh, thọ tưởng hành thức không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
Như vậy, cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí không
nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
Cụ thọ Thiện Hiện liền thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Vì sao sắc không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la
mật thanh tịnh, thọ tưởng hành thức không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh
tịnh. Như vậy, cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí
không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Sắc chẳng khá nắm lấy nên không nhiễm ô, vì sắc
không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Thọ tưởng hành thức chẳng khá
nắm lấy nên không nhiễm ô, vì thọ tưởng hành thức không nhiễm ô nên Bát nhã Ba
la mật thanh tịnh. Như vậy, cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết
tướng trí chẳng khá nắm lấy nên không nhiễm ô; vì Nhất thiết trí, Đạo tướng
trí, Nhất thiết tướng trí không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hư không không nhiễm ô nên Bát nhã Ba
la mật thanh tịnh.
Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la
mật thanh tịnh?
- Thiện Hiện! Hư không chẳng khá nắm lấy nên không nhiễm ô.
Hư không không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Lại nữa, Thiện Hiện!
Hư không chỉ giả nói nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
- Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không chỉ giả nói nên Bát nhã Ba la
mật thanh tịnh?
- Thiện Hiện! Như nương vào hư không mà có tiếng vang hiện
hữu, chỉ là lời nói giả. Chỉ là lời nói giả nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hư không chẳng thể nói nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
- Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không chẳng thể nói nên Bát nhã Ba
la mật thanh tịnh?
- Thiện Hiện! Hư không là rỗng không, không có gì để nói, nên
không thể nói. Do đấy Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Lại nữa, Thiện Hiện! Hư
không chẳng thể đắc nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
- Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không chẳng thể đắc nên Bát nhã Ba
la mật thanh tịnh?
- Thiện Hiện! Hư không là rỗng không, nên chẳng thể đắc. Do
đấy Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả pháp không sanh
không diệt không dơ không sạch, nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
- Bạch Thế Tôn! Vì sao tất cả pháp không sanh không diệt
không dơ không sạch, nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh?
- Thiện Hiện! Vì tất cả pháp rốt ráo không sanh không diệt
không dơ không sạch. Do đấy Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam thiện nữ, đối Bát nhã Ba la
mật đây chăm lòng lắng nghe,
thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, thơ tả giải nói, rộng
khiến lưu bố. Các thiện nam thiện nữ này mắt tai mũi lưỡi đều không bị bệnh,
thân căn không khuyết, chẳng suy yếu cũng chẳng yểu mệnh; thường được vô lượng
trăm ngàn thiên thần cung kính vây quanh theo dõi bảo hộ.
Các thiện nam thiện nữ này vào ngày mồng tám, ngày mười bốn
và ngày rằm của tháng có trăng và không trăng, đọc tụng tuyên nói Bát nhã Ba la
mật. Bấy giờ, trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Tịnh cư đều đến nhóm họp
chỗ Pháp sư này để nghe thọ đọc Bát nhã Ba la mật. Các thiện nam thiện nữ đây
nhờ ở trong vô lượng Pháp hội đọc tụng tuyên nói Bát nhã Ba la mật thẳm sâu, nên
được công đức thù thắng vô lượng vô số vô biên, chẳng khá nghĩ bàn, chẳng khá
cân lường.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Như vậy. Đúng như ngươi đã nói! Nếu các thiện
nam thiện nữ đối Bát nhã Ba la mật đây, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng,
tinh siêng tu học v.v… sẽ được tất cả phước đức như ngươi đã nói. Vì sao? Vì Bát
nhã Ba la mật như thế là đại trân bảo nên các hữu tình tu Bát Nhã tránh
khỏi cảnh địa ngục, bàng sanh, quỷ giới và lại được vô lượng vô số vô biên
trời, rồng, dược xoa, người, phi người v.v… đều ủng hộ, bảo vệ; lại khiến cho
vô số vô lượng hữu tình đó được sanh vào đại tộc Sát đế lợi, đại tộc Bà la môn,
Trưởng giả, Cư sĩ hay sanh vào các cõi trời Bốn đại vương chúng cho đến trời
Phi tưởng phi phi tưởng xứ giàu sang phú quý, lợi vui; cũng lại khiến được quả
Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề và cho đến Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề an vui tự tại. Vì sao? Vì Kinh Bát Nhã thẳm sâu như thế rộng nói
khai chỉ mười thiện nghiệp đạo; bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; bốn
niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi; bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; Nội không
cho đến vô tánh tự tánh không, Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng;
Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí vô lượng công đức báu quý
như vậy.
Vô lượng vô số vô biên hữu tình tu học trong ấy, được sanh
đại tộc Sát đế lợi, đại tộc Bà la môn, đại tộc Trưởng giả, Cư sĩ. Vô lượng vô
số vô biên hữu tình tu học trong ấy được sanh trời Bốn đại vương chúng cho đến
trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Vô lượng vô số vô biên hữu tình tu học trong
ấy được quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Vô lượng vô số vô biên hữu
tình tu học trong ấy được Độc giác Bồ đề. Vô lượng vô số vô biên hữu tình tu
học trong ấy được vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh, được chứng Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Do nhân duyên đây, nên Bát nhã Ba la mật như thế
được gọi là Đại bảo tạng. Vì công đức quý báu thế gian xuất thế gian đều
nương Bát Nhã thẳm sâu như thế mà xuất hiện vậy.
Thiện Hiện! Trong Đại bảo tạng Bát Nhã như thế chẳng nói chút
pháp có sanh có diệt, có nhiễm có tịnh, có lấy có bỏ. Vì sao? Vì không chút
pháp khá sanh khá diệt, khá nhiễm khá tịnh, khá lấy khá bỏ vậy. Trong Đại bảo
tạng Bát Nhã như thế chẳng nói có pháp là thiện là phi thiện, là hữu ký là vô
ký, là thế gian là xuất thế gian, là hữu lậu là vô lậu, là hữu vi là vô vi.
Thiện Hiện! Do nhân duyên đây, nên Bát nhã Ba la mật như thế
được gọi là Vô sở đắc Đại pháp bảo tạng. Trong Bát Nhã Đại bảo tàng này
chẳng nói chút pháp nhiễm ô. Vì sao? Vì không có chút pháp nhỏ nhiệm nào nhiễm
ô, nên cũng không chút pháp năng nhiễm Bát Nhã Đại bảo tạng thẳm sâu như thế.
Vì sao? Vì pháp năng nhiễm ô bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện! Do nhân duyên đây, Bát nhã Ba la mật như thế được
gọi là Vô nhiễm Đại pháp bảo tạng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát khi tu hành Bát Nhã không
tưởng như vầy, phân biệt như vầy, có đắc như vầy, hý luận như vầy: “Ta năng tu
hành Bát nhã Ba la mật thẳm sâu”. Bồ tát này mới năng như thật tu hành Bát Nhã
thẳm sâu, cũng năng gần gũi lễ thờ chư Phật. Mới từ một nước Phật đến một nước
Phật, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn. Dạo các nước
Phật, khéo lấy tướng kia để nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình, tu các
Bồ tát hạnh, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật như thế đối tất cả pháp
chẳng tự tại chẳng phải chẳng tự tại, chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng sanh chẳng
diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. Bát nhã Ba la mật như thế
chẳng phải quá khứ, hiện tại, vị lai, không đến cõi Dục, không bỏ cõi Dục,
không trụ cõi Dục; không đến cõi Sắc, không bỏ cõi Sắc, không trụ cõi Sắc;
không đến cõi Vô sắc, không bỏ cõi Vô sắc, không trụ cõi Vô sắc.
Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật như thế, đối bố thí cho đến Bát
nhã Ba la mật chẳng cho chẳng bỏ. Đối nội không cho đến vô tánh tự tánh không
cũng chẳng cho chẳng bỏ. Đối bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi cũng chẳng
cho chẳng bỏ. Đối Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng
chẳng cho chẳng bỏ. Đối quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề cũng chẳng cho chẳng
bỏ. Đối các Bồ tát Chánh tánh ly sanh cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng
chẳng cho chẳng bỏ. Đối Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí
cũng chẳng cho chẳng bỏ.
Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật-đa như thế chẳng cho pháp
Thanh văn chẳng bỏ pháp dị sanh, chẳng cho pháp Độc giác chẳng bỏ pháp Thanh
văn, chẳng cho pháp chư Phật chẳng bỏ pháp Độc giác, chẳng cho pháp vô vi chẳng
bỏ pháp hữu vi. Vì sao? Vì Như Lai ra đời hoặc chẳng ra đời, các pháp như thế
thường không biến đổi, pháp tánh, pháp giới, pháp định, pháp trụ cũng không
khác vậy.
Bấy giờ, vô lượng trăm ngàn Thiên tử trụ trong hư không rất
đổi vui mừng, đem hoa trời: Hoa sen xanh, hoa sen đỏ, hoa sen vàng, hoa vi diệu
âm và các hương bột mà rải lên Phật, cùng nhau vui mừng, đồng thanh xướng rằng:
“Ngày nay, chúng ta ở châu Thiệm bộ, thấy đức Phật chuyển bánh xe diệu pháp lần
thứ hai, trong đó có vô lượng trăm ngàn Thiên tử nghe thuyết Bát nhã Ba la mật,
đều chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn”.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Thiện Hiện rằng:
- Xe pháp như thế chẳng quay lần thứ nhất, cũng chẳng quay
lần thứ hai. Vì sao? Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật như thế, đối tất cả pháp
chẳng chuyển, chẳng hoàn vậy mà xuất hiện thế gian, vì các pháp vô tánh, tự
tánh rỗng không vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Những pháp nào gọi là vô tánh tự tánh không
mà Bát nhã Ba la mật như thế đối tất cả pháp, chẳng chuyển, chẳng hoàn mà xuất
hiện thế gian?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật, tánh Bát nhã Ba la mật
không cho đến bố thí Ba la mật, tánh bố thí Ba la mật không vậy. Nội không,
tánh nội không không vậy cho đến vô tánh tự tánh không, tánh vô tánh tự tánh
không không vậy. Bốn niệm trụ, tánh bốn niệm trụ không vậy cho đến tám Thánh
đạo chi, tánh tám chi Thánh đạo không vậy. Như Lai mười lực, tánh Bồ tát mười
lực không, vậy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, tánh mười tám pháp Phật bất
cộng không vậy. Nhất thiết trí, tánh nhất thiết trí không vậy. Đạo tướng trí,
Nhất thiết tướng trí, tánh Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí không vậy. Dị
sanh tánh, tánh dị sanh tánh không vậy. Quả Dự lưu, tánh quả Dự lưu không vậy
cho đến quả A la hán, tánh quả A la hán không vậy. Độc giác Bồ đề, tánh Độc
giác Bồ đề không vậy. Tất cả Bồ tát hạnh, tánh tất cả Bồ tát hạnh không vậy.
Chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tánh chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề
không vậy.
Thiện Hiện! Bởi các pháp như thế vô tánh tự tánh không
vậy. Bát nhã Ba la mật như thế đối tất cả pháp chẳng chuyển, chẳng hoàn vậy mà
xuất hiện thế gian.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát Bát nhã Ba la mật như thế là Đại Ba
la mật, vì đạt tự tánh không tất cả pháp vậy. Dù đạt tự tánh tất cả pháp đều
không, mà các Bồ tát vẫn nương Bát nhã Ba la mật đây chứng được Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp, độ vô lượng chúng. Dù chứng Bồ đề mà không sở
chứng, chứng pháp chẳng chứng, vì bất khả đắc vậy. Dù quay xe pháp mà
không sở quay, vì pháp chuyển, pháp hoàn lại bất khả đắc. Dù độ hữu tình mà
không sở độ, vì pháp thấy, chẳng thấy bất khả đắc vậy.
Bạch Thế Tôn! Trong Đại Bát nhã Ba la mật đây việc quay xe
pháp đều bất khả đắc, vì tất cả pháp chẳng sanh, năng quay sở quay bất khả đắc
vậy. Vì sao? Vì chẳng phải trong pháp không, vô tướng, vô nguyện có pháp khá
chuyển, khá hoàn, vì pháp tánh chuyển, hoàn bất khả đắc vậy.
Bạch Thế Tôn! Đối Bát nhã Ba la mật đây nếu thường tuyên
nói khai chỉ phân biệt rõ ràng như thế, khiến dễ ngộ vào. Đấy gọi khéo tịnh
tuyên nói Bát nhã Ba la mật. Trong đây đều không kẻ nói, kẻ thọ và pháp được
nói. Đã không kẻ nói, kẻ thọ và pháp, thì kẻ năng chứng cũng bất khả đắc. Không
kẻ chứng nên cũng không có kẻ năng đắc Niết bàn.
Đối với Bát nhã Ba la mật này, khéo thuyết pháp thì cũng
không có phước điền, vì người thí, người nhận và vật thí đều là tánh Không.
Phước điền không, nên phước đức cũng không. Biểu tướng, danh ngôn đều bất khả đắc. Vì thế nên gọi
là Đại Ba la mật.
(Kẻ thuyết, kẻ thọ và pháp được nói đều không thì cũng
chẳng có phước điền, rỗng không như hư không. Vì biểu tướng danh ngôn bất khả
đắc, nên cũng “không tuyên dương xưng tụng”. Đó chính là Đại Ba la mật!)
Sơ
giải:
Phẩm này tương đương với hai phẩm:
1. Phần đầu phẩm này tương đương phẩm “Trước và Chẳng
Trước Tướng”, từ Q. 287 - Q. 292, Hội thứ I, ĐBN, và
2. Phẩm “Thuyết Tướng Bát Nhã”, phần sau quyển 292 đến
quyển 296, Hội thứ I, ĐBN.
Hai phẩm này của Hội thứ I đã thích nghĩa và lược giải
rồi, nên ở đây không cần trùng tuyên nữa. Xin Quý vị quay đọc tụng hai phẩm
liệt kê trên nếu muốn!
---o0o---