PHẨM “NHIẾP THỌ”
Cuối quyển 427 đến đầu quyển 428, Hội thứ II, ĐBN.
(Tương đương phẩm “Nhiếp Thọ”, đầu Q.101- Q.103, Hội
thứ I, ĐBN)
Tóm
lược:
Bấy giờ, Thiên Đế Thích thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát rất là hiếm có. Đối với Bát
nhã Ba la mật đây chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy
nghĩ đúng lý, thơ tả giải nói, rộng khiến lưu bố, nhiếp thọ hiện pháp công đức
thắng lợi hiếm có như thế, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Từ một
nước Phật đến một nước Phật, gần gũi vâng thờ chư Phật Thế Tôn, đem các căn
lành mà mình ưa thích để cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế
Tôn; tức có khả năng làm cho các căn lành sanh trưởng, sớm được viên mãn. Từ
chỗ chư Phật được thọ Chánh pháp, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, ở thời
gian giữa chưa từng quên mất. Chóng được dòng tộc viên mãn, cha mẹ viên mãn,
sinh thân viên mãn, quyến thuộc viên mãn, tướng hảo viên mãn, quang minh viên
mãn, thắng nhãn viên mãn, thắng nhĩ viên mãn, thắng âm viên mãn, đẳng trì viên
mãn, tổng trì viên mãn.
Lại đem sức phương tiện khéo léo, đại Bồ tát tự biến hóa thân
mình như thân Phật. Từ một thế giới tới một thế giới, đến cõi không Phật, khen
nói bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật. Khen nói nội không cho đến vô
tánh tự tánh không. Khen nói bốn lĩnh tự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Khen
nói bốn niệm trụ, nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Lại đem sức
phương tiện khéo léo, vì các hữu tình tuyên nói pháp yếu, tùy nghi an để(1)
trong pháp Tam thừa, khiến giải thoát hẳn sanh lão bệnh tử, chứng Vô dư y bát
Niết bàn. Hoặc lại cứu vớt khổ, khiến sanh trong trời người hưởng các thú vui.
Khi ấy, Thiên Đế Thích lại thưa Phật rằng:
- Bát nhã Ba la mật như thế rất là hiếm có. Nếu năng nhiếp
thọ Bát nhã Ba la mật như thế, thời là nhiếp thọ đầy đủ sáu Ba la mật. Nói rộng
là nhiếp thọ đầy đủ mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng là nhiếp thọ đầy đủ quả
Dự lưu cho đến A la hán, Độc giác Bồ đề cho đến chư Phật Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.
Bấy giờ, Phật bảo Thiên Đế Thích rằng:
- Như vậy! Như ngươi đã nói, nếu năng nhiếp thọ Bát nhã Ba la
mật như thế, là nhiếp thọ đầy đủ sáu món Ba la mật. Nói rộng cho đến nhiếp đầy
đủ thọ Nhất thiết tướng trí.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ năng đối Bát
nhã Ba la mật chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy
nghĩ đúng lý, thơ tả giải nói, rộng khiến lưu bố. Các thiện nam, thiện nữ này
nhiếp thọ các loại hiện pháp công đức thắng lợi đời này hay đời sau. Ngươi nên
nghe kỹ, rất khéo tác ý, ta sẽ vì các ngươi phân biệt giải nói.
Thiên Đế Thích thưa:
- Dạ, xin Đại Thánh, nguyện xin nói, chúng con muốn nghe.
Phật bảo:
- Kiều Thi Ca! Nếu có các thứ tộc loại ngoại đạo, hoặc các
thiên ma và quyến thuộc ma ở cõi Dục, hoặc các kẻ bạo ác tăng thượng mạn muốn
đối các thiện nam thiện nữ như thế, phát khởi ác tâm, gây xa lìa, chống trái
hủy báng Bát nhã Ba la mật, bọn kia vừa khởi tâm liền bị tai họa tự phải
tiêu diệt, chẳng đạt sở nguyện. Vì sao? Vì các Bồ tát này thường hành bố trí,
tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật.
Nếu hữu tình vì xan tham nên thường tranh đấu, Bồ tát này đối
với pháp nội ngoại tất cả đều xả, phương tiện dạy họ an trụ bố thí Ba la mật.
Nếu hữu tình thường phá giới, Bồ tát này với pháp nội ngoại tất cả đều xả,
phương tiện dạy họ an trụ tịnh giới Ba la mật. Nếu hữu tình thường giận dữ, Bồ
tát này phương tiện dạy họ an trụ an nhẫn Ba la mật. Nếu hữu tình thường biếng
nhác, Bồ tát này phương tiện dạy họ an trụ tinh tiến Ba la mật. Nếu hữu tình
thường tán loạn, Bồ tát này phương tiện dạy họ an trụ tĩnh lự Ba la mật. Nếu
hữu tình thường ngu si u tối, Bồ tát này phương tiện dạy họ an trụ Bát nhã Ba
la mật.
Nếu các hữu tình trôi lăn sanh tử, thường bị tham sân si, tùy
miên buộc bẩn rối loạn nơi tâm, tạo tác nhiều sự bất nhiêu ích(2), Bồ tát này
phương tiện khéo léo khiến họ dứt diệt tham sân si cùng tùy miên buộc bẩn,
khiến an trụ bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc khiến an trụ bốn
niệm trụ, nói rộng cho đến tám chi Thánh đạo; hoặc khiến an trụ không, vô
tướng, vô nguyện giải thoát môn; hoặc khiến an trụ quả Dự lưu cho đến quả A la
hán; hoặc khiến an trụ Độc giác Bồ đề cho đến chư Phật Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác. Như vậy, gọi đối Bát nhã Ba la mật đây, chăm lòng lóng nghe, thọ
trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, thơ tả giải nói, rộng khiến lưu
bố(3). Đó chính là các Bồ tát nhiếp thọ công đức thắng lợi hiện pháp.
Kiều Thi Ca! Bồ tát này do nhân duyên đây, ở đời vị lai mau
chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp, hóa độ vô lượng chúng
sanh. Tùy bản sở nguyện, phương tiện an lập khiến đối Tam thừa tu học rốt ráo
cho đến chứng được vô dư y Niết bàn. Như vậy, gọi là đối Bát nhã Ba la mật
đây, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý,
thơ tả giải nói, rộng khiến lưu bố. Đó chính là các Bồ tát nhiếp thọ công
đức thắng lợi tương lai.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam thiện nữ, đối Bát nhã
Ba la mật đây, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học v.v…
Chỗ địa phương kia, nếu có ác ma và quyến thuộc ma, nếu có tộc loại các thứ
ngoại đạo, hoặc các kẻ bạo ác tăng thượng mạn, ganh ghét Bát nhã Ba la mật muốn
ngăn ngại, phá hoại, ẩn mất, phương tiện gạn trách, lăng nhục chống trái. Dù có
ý muốn này nhưng trọn chẳng thực hiện được. Ngược lại, chúng ma nhờ nghe Bát
Nhã mà ác tâm dần dần tiêu mất, công đức lần lượt nẩy sanh. Về sau nhờ pháp Tam
thừa được hết ngằn mé khổ, hoặc thoát ác thú sanh trong trời người được nhiều
lợi vui.
Như có diệu dược tên là mạc kỳ, thuốc này oai thế năng tiêu
các độc. Diệu dược như vậy tùy sanh chỗ nào các loại độc trùng chẳng thể đến
gần. Có rắn độc lớn đói đi kiếm ăn, thấy sinh loại muốn mổ nuốt. Sanh loại kia
sợ chết chạy tới chỗ có diệu dược, rắn nghe hơi thuốc bèn thối lui. Vì sao? Vì
diệu dược như thế có đủ đại oai thế, năng ích thân mệnh, dẹp tiêu các độc. Phải
biết Bát nhã Ba la mật có đủ đại oai thế cũng lại như thế. (Q.427, ĐBN)
Nếu các thiện nam, thiện nữ chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc
tụng, tinh siêng tu học v.v… Các ác ma đến chỗ Bồ tát đây muốn làm việc ác, do
sức oai thần Bát nhã Ba la mật này nên khiến việc ác kia tự phải tiêu diệt,
không làm gì được. Vì sao? Bởi vì Bát nhã Ba la mật đây có đủ đại oai lực, năng
xô các ác pháp, tăng trưởng thiện pháp vậy.
Kiều Thi Ca! Vì sao Bát nhã Ba la mật năng xô các ác tăng
trưởng các thiện?
Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật như thế, năng diệt tham
dục, sân nhuế, ngu si vô minh, cho đến trọn nhóm đại khổ ngăn che, tùy miên,
quấn bẩn trói buộc, hoặc ngã kiến, hữu tình kiến, bổ đặc già la kiến, đoạn
kiến, thường kiến, hữu kiến, vô kiến, cho đến nhiều thứ ác kiến thú, xan tham,
phá giới, giận dữ, biếng nhác, tán loạn, ngu si, tưởng thường, tưởng lạc, tưởng
ngã, tưởng tịnh và tất cả tham, sân, si, mạn, nghi, kiến, hành v.v... (Q.427, ĐBN)
Kiều Thi Ca! Như vậy Bát nhã Ba la mật năng diệt chấp
trước sắc cho đến chấp trước thức. Năng diệt chấp trước nhãn cho đến chấp
trước ý. Năng diệt chấp trước sắc thanh hương vị xúc cho đến chấp trước pháp.
Năng diệt chấp trước nhãn thức cho đến chấp trước ý thức. Năng diệt chấp trước
nhãn xúc cho đến chấp trước ý xúc. Năng diệt chấp trước nhãn xúc làm duyên sanh
ra các thọ cho đến chấp trước ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Năng diệt chấp
trước bố thí Ba la mật cho đến chấp trước Bát nhã Ba la mật. Năng diệt chấp
trước nội không cho đến chấp trước vô tánh tự tánh không. Năng diệt chấp trước
bốn niệm trụ, nói rộng cho đến chấp trước mười tám pháp Phật bất cộng. Năng
diệt chấp trước Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Năng diệt
chấp trước Bồ đề, Niết bàn.
Kiều Thi Ca! Như vậy, Bát nhã Ba la mật năng diệt tất cả các
pháp ác đây và năng tăng trưởng các pháp đối trị kia. Vậy nên, Bát nhã Ba la
mật có đủ đại thế lực rất tôn rất thắng.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam thiện nữ, đối Bát nhã
Ba la mật đây chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học v.v… suy
nghĩ đúng lý, thơ tả giải nói, rộng khiến lưu bố. Các thiện nam thiện nữ này
thường được các Thiên vương, Thiên tử, long thần, dược xoa, A tu la, cùng những
thiên thần trong Tam thiên đại thiên đều đến ủng hộ, chẳng cho tất cả tai hoạnh
não hại; các điều mong cầu đều được viên mãn. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác trong thế giới chư Phật như cát sông Hằng, cũng thường hộ niệm các thiện
nam thiện nữ này, khiến ác nghiệp dần dần diệt tận, thiện pháp lần lược tăng
trưởng: Nghĩa là khiến tăng trưởng bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật,
cũng khiến tăng trưởng quán nội không cho đến quán vô tánh tự tánh không, cũng
khiến tăng trưởng bốn niệm trụ, nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng,
cũng khiến tăng trưởng tất cả Tam ma địa môn và Đà la ni môn, cũng khiến tăng
trưởng Nhất thiết trí và Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ này do nhân duyên đây,
nên lời lẽ oai nghiêm, người nghe đều cung kính, luận nói cân xứng, lời không
lầm lộn, khéo biết trả ơn, luôn thờ bạn lành; chẳng bị san tham, đố kị, giận
hờn, phiền não, nịnh dối, kiêu mạn… làm che khuất.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ này tự lìa giết hại,
cũng khuyên người lìa giết hại, tùy thuận tán dương pháp lìa giết hại, vui mừng
ngợi khen kẻ lìa giết hại. Cho đến tự lìa tà kiến, cũng khuyên người lìa tà
kiến, tùy thuận tán dương pháp lìa tà kiến, vui mừng ngợi khen kẻ lìa tà kiến.
Tự thường hành bố thí Ba la mật, cũng khuyên người hành bố thí Ba la mật, tùy
thuận tán dương pháp hành bố thí Ba la mật, vui mừng ngợi khen kẻ hành bố thí Ba
la mật. Cho đến tự thường hành Bát nhã Ba la mật, cũng khuyên người hành Bát
nhã Ba la mật, tùy thuận tán dương pháp hành Bát nhã Ba la mật, vui mừng ngợi
khen kẻ hành Bát nhã Ba la mật. Tự thường hành nội không, cũng khuyên người
hành nội không, tùy thuận tán dương pháp hành nội không, vui mừng ngợi khen kẻ
hành nội không. Cho đến tự thường hành vô tánh tự tánh không, cũng khuyên người
hành vô tánh tự tánh không, tùy thuận tán dương pháp hành vô tánh tự tánh
không, vui mừng ngợi khen kẻ hành vô tánh tự tánh không. Tự thường tu bốn tĩnh lự cũng khuyên người tu bốn tĩnh lự, tùy thuận tán dương pháp
tu bốn tĩnh lự, vui mừng ngợi
khen kẻ tu bốn tĩnh lự. Tự
thường tu bốn vô lượng, cũng khuyên người tu bốn vô lượng, tùy thuận tán dương
pháp tu bốn vô lượng, vui mừng ngợi khen kẻ tu bốn vô lượng. Tự thường tu bốn
định vô sắc, cũng khuyên người tu bốn định vô sắc, tùy thuận tán dương pháp tu
bốn định vô sắc, vui mừng ngợi khen kẻ tu bốn định vô sắc. Nói rộng cho đến
thường tu tất cả pháp Phật, cũng khuyên người tu tất cả pháp Phật, tùy thuận
tán dương phương pháp tu tập tất cả thiện pháp (tức pháp Phật), vui mừng
ngợi khen kẻ tu tất cả các thiện pháp.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ này tu hành bố thí cho
đến Bát nhã Ba la mật, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình bình
đẳng chung có, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Các thiện nam, thiện nữ
này thường khởi nghĩ rằng: Nếu ta chẳng hành bố thí Ba la mật, thì phải sanh
vào nhà bần tiện, không thế lực, đâu có thể thành thục hữu tình, nghiêm tịnh
cõi Phật, huống chi sẽ chứng Nhất thiết trí trí. Nếu ta chẳng trì tịnh giới Ba
la mật, phải đọa ác thú, chẳng được thân người, thì đâu có thể thành thục hữu
tình, nghiêm tịnh cõi Phật, huống chi đắc Nhất thiết trí trí. Nếu ta chẳng tu
an nhẫn Ba la mật, thân căn tàn tạ, hình mạo xấu xí, chẳng đủ sắc thân Bồ tát
viên mãn, lấy đâu thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, huống chi năng
được Nhất thiết trí trí. Nếu ta biếng nhác, chẳng khởi tinh tiến Ba la mật, hãy
chẳng được Bồ tát đạo, chẳng thể thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật,
huống chi năng đắc Nhất thiết trí trí. Nếu ta loạn tâm, chẳng vào tĩnh lự Ba la
mật, chẳng năng khởi thắng định Bồ tát, đâu có thể thành thục tất cả hữu tình,
nghiêm tịnh cõi Phật, huống chi năng đắc Nhất thiết trí trí? Nếu ta vô trí,
chẳng học Bát nhã Ba la mật, chẳng được phương tiện khéo léo vượt bậc Nhị thừa,
đâu có thể thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, huống chi năng đắc Nhất
thiết trí trí.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ này thường khởi nghĩ: Ta
chẳng nên theo thế lực tham lam. Nếu theo lực kia thời bố thí Ba la mật chẳng
được viên mãn. Ta chẳng nên theo thế lực phá giới. Nếu theo lực kia thời tịnh
giới Ba la mật chẳng được viên mãn. Ta chẳng nên theo thế lực giận dữ. Nếu theo
lực kia thời an nhẫn Ba la mật chẳng được viên mãn. Ta chẳng nên theo thế lực
lười biếng. Nếu theo lực kia, thời tinh tiến Ba la mật chẳng được viên mãn. Ta
chẳng nên theo thế lực loạn tâm. Nếu theo lực kia, thời tĩnh lự Ba la mật chẳng
được viên mãn. Ta chẳng nên theo thế lực ác huệ. Nếu theo lực kia, thời Bát nhã
Ba la mật chẳng được viên mãn. Nếu ta sở tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh
tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật chẳng viên mãn, quyết chẳng có khả năng đắc
Nhất thiết trí trí.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ này tâm chẳng lìa Nhất
thiết trí trí, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, đối Bát nhã Ba la mật đây chăm
lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, thơ tả
giải nói, rộng khiến lưu bố, quyết được sẽ được công đức thắng lợi trong
tương lai. (Q.427, ĐBN)
Bấy giờ, Thiên Đế Thích thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế rất là hiếm có,
điều phục chúng Bồ tát chẳng để cống cao mới có khả năng hồi hướng Nhất thiết
trí trí được.
Phật hỏi Thiên Đế Thích rằng:
- Kiều Thi Ca ! Sao là Bát nhã Ba la mật điều phục chúng Bồ
tát chẳng để cống cao, mới có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí được?
Thiên Đế Thích bạch rằng:
- Bạch Thế Tôn ! Các Bồ tát khi hành bố thí theo thế gian,
nếu ở chỗ Phật hành bố thí mà khởi nghĩ này: Ta đã cúng dường chư Phật, hoặc ta
đã thí phát cho vô số Thanh văn, Độc giác, Bồ tát, những kẻ côi cùng, già bệnh,
kẻ lỡ đường, hành khất. Bồ tát hành bố thí vì không phương tiện khéo léo, nên
hành bố thí mà tự mãn, khởi
cống cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí được. Các Bồ tát
khi hành thế gian tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật mà
khởi nghĩ này: Ta đã từng tu
hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Hơn nữa lại
khởi nghĩ: Ta hoàn thành tốt đẹp tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát
nhã Ba la mật, Bồ tát này vì không phương tiện khéo léo, nên dù hành
tịnh giới cho đến Bát Nhã mà khởi cống cao, chẳng có khả năng hồi hướng Nhất
thiết trí trí được. Các Bồ tát khi tu hành ba mươi bảy pháp trợ đạo, tam giải thoát môn, Phật mười lực, bốn vô sở
úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Phật bất cộng.
Nếu khởi nghĩ này: Ta đã từng
tu hành ba mươi bảy pháp trợ đạo cho
đến mười tám pháp Phật bất cộng. Hoặc khởi nghĩ nữa: Ta đã hoàn thành tốt đẹp
ba mươi bảy pháp trợ đạo cho
đến mười tám pháp Phật bất cộng. Bồ tát này vì không phương tiện khéo léo, nên
dù hành tất cả pháp Phật như thế mà khởi cống cao, chẳng có khả năng hồi hướng
Nhất thiết trí trí được.
Bạch Thế Tôn! Chúng Bồ tát như thế, nương tâm thế
gian tu các thiện pháp, vì không phương tiện khéo léo, bị chấp ngã, ngã sở làm
rối tâm, nên dù có tu Bát Nhã mà chẳng đắc, nên chẳng như thật điều phục cống
cao, cũng chẳng như thật hồi hướng Nhất thiết trí trí được.
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát khi hành bố thí Ba la mật xuất
thế, vì khéo tu Bát Nhã, thì chẳng thấy người thí, kẻ thọ thí, vật bố thí.
Bồ tát này nương tựa Bát nhã Ba la mật mà hành bố thí, nên có khả năng như thật
điều phục tâm cống cao, do đó cũng có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí.
Nếu Bồ tát khi hành xuất thế tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba
la mật, khéo tu Bát Nhã, nên chẳng thấy đắc tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh
lự, Bát Nhã và tất cả pháp. Bồ tát này nương dựa Bát nhã Ba la mật mà hành tịnh
giới cho đến Bát Nhã, nên có khả năng như thật điều phục cống cao, do đó cũng
có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí. Nếu Bồ tát khi hành xuất thế bốn niệm
trụ, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí. Vì khéo tu Bát Nhã nên chẳng thấy
đắc bốn niệm trụ, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí và tất cả pháp. Bồ tát
này nương dựa Bát nhã Ba la mật hành bốn niệm trụ, nói rộng cho đến Nhất thiết
tướng trí, nên có khả năng như thật điều phục cống cao, do đó cũng có khả năng
hồi hướng Nhất thiết trí trí. Nếu Bồ tát khi thành thục hữu tình, nghiêm tịnh
cõi Phật, khéo tu Bát Nhã nên chẳng thấy đắc thành thục hữu tình, nghiêm tịnh
cõi Phật và tất cả pháp. Bồ tát này nương dựa Bát nhã Ba la mật mà thành thục
hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, nên có khả năng như thật điều phục cống cao, do
đó cũng có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí.
Bạch Thế Tôn ! Do nhân duyên đây con tác thuyết: Bát nhã Ba
la mật như thế rất là hiếm có, điều phục chúng Bồ tát chẳng để cống cao nên có
khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí. (Q.428,
ĐBN)
Thích nghĩa:
(1). An để: An trú, an trụ hay an định.
(2). Bất nhiêu ích có nghĩa là không có lợi ích hay vô
ích.
(3). Lưu bố: Lưu hành, truyền bá.
Sơ
giải:
1.
Thế nào là nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật:
Nhiếp thọ Bát Nhã có nghĩa là đối Bát nhã Ba la mật chăm
lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, thơ tả
giải nói, rộng khiến lưu bố. Nhiếp thọ Bát Nhã cũng có nghĩa là nhiếp thọ tất
cả pháp thế gian và xuất thế gian. Vì tất cả pháp đều thu nhiếp vào Bát nhã Ba
la mật. Những ai tuân hành Bát Nhã một cách khéo léo, nhất quyết sẽ được công
đức thắng lợi trong hiện tại hay vị lai không thể nghĩ bàn. Vì “Bát nhã Ba
la mật như thế, năng diệt tham dục, sân nhuế, ngu si vô minh, cho đến trọn nhóm
đại khổ ngăn che, tùy miên, quấn bẩn trói buộc, hoặc ngã kiến, hữu tình kiến,
bổ đặc già la kiến, đoạn kiến, thường kiến, hữu kiến, vô kiến, cho đến nhiều
thứ kiến thú, xan tham, phá giới, giận dữ, biếng nhác, tán loạn, ngu si, tưởng
thường, tưởng lạc, tưởng ngã, tưởng tịnh và tất cả tham, sân, si, mạn, nghi,
kiến, hành v.v…” Nhờ nhiếp thọ Bát Nhã như thế, nên các thiện pháp và các
căn lành được tăng trưởng thù thắng, chóng giải thoát khổ não, mau chứng Niết
bàn, mau đạt Nhất thiết trí trí, thành thục hữu tình, thanh tịnh Phật độ, quay
xe diệu pháp độ chúng hữu tình yên vui rốt ráo!
Muốn được như vậy thì phải nhiếp thọ Bát Nhã và tự điều
phục thân tâm chẳng để cống cao, chấp trước.
2.
Sau đây là thí dụ nói lên thế nào là Bố thí theo thế gian và bố thí xuất
thế gian:
Trong tác thứ nhất Bích Nham Lục, có lược thuật câu chuyện
Bồ Đề Đạt Ma, vị La Hán thứ 28 truyền thừa từ Đức Thích Ca mâu Ni, theo phó
chúc của Tổ thứ 27 là Bát Nhã Đa La sang Tàu truyền pháp, nên Tổ Đạt Ma mới
diện kiến vua Lương Võ Đế để xin ủng hộ. Lương Võ Đế là người mộ đạo, thường
mặc áo cà sa, đích thân giảng Kinh Phóng Quang Bát Nhã, thí phát qui y cho hàng
trăm ngàn tính đồ, xây chùa độ Tăng, tu hành theo giáo lý. Thiên hạ gọi ông là
Phật Tâm Thiên Tử.
Lúc mới gặp Đạt Ma, Võ Đế bèn hỏi: “Trẫm xây chùa độ Tăng,
như thế có công đức chăng?” Đạt Ma bảo “Chẳng có công đức gì cả”. Câu trả lời
đó chẳng khác nào tạt nước lã vào mặt người ta. Tục truyền rằng Võ Đế nghi Đạt
Ma chỉ là “Tổ giả”, nên muốn đánh thuốc độc, Tổ đoán biết nên nửa đêm vượt sông
mà sang đất Ngụy.
Trở lại câu chuyện, Tổ Đạt Ma thấy Võ Đế tu hành mà còn
nói tới công đức, tức còn chấp tướng, còn nắm bắt mới trả lời là không có công
đức. Đó là lối tu theo thế gian, cái tu hữu lậu tức. Cái tu đó thật ra có công
đức nhưng chỉ là công đức hữu lậu, vì còn chấp đắm, không được rốt ráo. Vì vậy,
mà Tổ trả lời là không có công đức. Nhưng Võ Đế không hiểu, nên phật lòng.
Còn về phần Tổ đã dày công tu luyện, nên biết thế nào tu
vô lậu. Không mong cầu nắm bắt, nên mới được gọi là tu Ba la mật xuất thế gian!
---o0o---