PHẨM “THIỆN HIỆN”
Quyển 406 đến đầu quyển 408, Hội thứ
II, ĐBN.
(Tương đương phẩm “Dạy Bảo Trao
Truyền” Q.11 đến đầu Q.36, Hội thứ I, ĐBN).
Tóm lược:
Lúc bấy giờ, Phật bảo Tôn giả Thiện
Hiện:
- Ông hãy đem biện tài tùy theo
chúng Bồ tát mà giảng nói pháp tương ưng với Bát nhã Ba la mật, dạy bảo truyền
trao cho các Bồ tát, làm cho họ thành tựu Bát nhã Ba la mật.
Khi ấy, các Bồ tát, đại Thanh văn,
chư thiên, nhơn v.v... đều nghĩ: Tôn giả Thiện Hiện đem biện tài của mình tùy
theo chúng đại Bồ tát mà giảng nói pháp tương ưng với Bát nhã Ba la mật, dạy
bảo truyền trao cho các Bồ tát, làm cho họ thành tựu Bát nhã Ba la mật, đó có
phải là nhờ oai lực của Phật gia hộ chăng?
Tôn giả Thiện Hiện biết tâm niệm của
các chúng Bồ tát, đại Thanh văn, chư thiên, nhơn liền bảo Tôn giả Xá lợi Tử:
- Các đệ tử Phật phàm nói ra điều gì
tất cả đều nhờ oai lực của Phật. Vì sao? Này Xá lợi Tử! Như Lai giảng nói pháp
yếu cho chúng sanh, các pháp tánh thường không trái nhau. Các đệ tử Phật nương
vào pháp ấy, siêng năng tu học, chứng thật tánh các pháp. Do đó, những pháp mà
Ngài nói cùng với pháp tánh không trái nhau. Nên lời Phật nói như ngọn đèn
truyền sáng mãi.
Này Xá lợi Tử! Nhờ oai lực của Phật
gia hộ, ta sẽ tùy theo chúng Bồ tát mà giảng nói pháp tương ưng với Bát nhã Ba
la mật, dạy bảo truyền trao cho các Bồ tát, làm cho họ thành tựu Bát nhã Ba la
mật, chẳng phải là biện tài của mình có thể làm được việc này. Vì sao? Vì Bát
nhã Ba la mật thẳm sâu không phải là cảnh giới của các Thanh văn, Độc giác.
Tôn giả Thiện Hiện liền bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Con đều không thấy
có một pháp nào có thể gọi là Bồ tát, cũng không thấy pháp nào có thể gọi là Bát
nhã Ba la mật. Hai tên như thế con đều không thấy thì làm sao con có thể tùy
chúng Bồ tát mà giảng nói pháp tương ưng với Bát nhã Ba la mật, dạy bảo truyền
trao, làm cho họ thành tựu Bát nhã Ba la mật?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Bồ tát chỉ có tên, Bát nhã Ba la
mật cũng chỉ có tên, hai tên như thế cũng chỉ là tên gọi.
Này Thiện Hiện! Hai tên này không
sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng
giữa vì không nắm bắt được.
Này Thiện Hiện! Nên biết, như ngã ở
thế gian chỉ có giả danh. Giả danh như thế không sanh, không diệt, chỉ
giả lập mà gọi là ngã. Như vậy, hữu tình, mạng giả, sự sanh, sĩ phu, nho đồng,
ý sanh, tác giả, người biết, người thấy… cũng chỉ có giả danh. Giả danh như thế
không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, nghĩa là hữu tình cho đến người thấy,
tất cả như vậy, chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài,
không ở khoảng giữa vì không nắm bắt được.
Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Bồ
tát, hoặc Bát nhã Ba la mật, nếu hai tên này đều là giả pháp; giả pháp
như thế đều không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở
ngoài, không ở khoảng giữa vì không nắm bắt được.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Như sắc chỉ
là giả pháp; giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ là giả lập mà gọi là
sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng chỉ là giả pháp; giả pháp như thế không sanh,
không diệt, chỉ giả lập mà gọi là thọ, tưởng, hành, thức. Như vậy, tất cả chỉ
có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa
vì không nắm bắt được.
Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Bồ
tát, hoặc Bát Nhã, cả hai tên này đều là giả pháp; giả pháp như thế thì không
sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng
giữa vì không nắm bắt được.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Như mười
hai xứ, mười tám giới chỉ là giả pháp; giả pháp như thế không sanh, không diệt,
chỉ giả lập mà gọi là mười hai xứ, mười tám giới. Như vậy, tất cả chỉ có giả
danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên
bất khả đắc.
Này Thiện Hiện! Cũng như vậy, hoặc
đại Bồ tát, hoặc Bát Nhã, nếu hai tên này đều là giả pháp; giả pháp như thế thì
không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở
khoảng giữa nên bất khả đắc.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Thí như
trong thân có đầu, cổ, vai, bắp tay, cánh tay, bụng, lưng, ngực, hông, eo,
xương sống, đùi, đầu gối, bắp chân, ống chân, da, thịt, xương, tủy… chỉ có giả
danh; giả danh như thế không sanh, không diệt chỉ giả lập mà gọi là đầu, cổ,
cánh tay... Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong,
không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.
Này Thiện Hiện! Cũng như vậy hoặc Bồ
tát, hoặc Bát Nhã, nếu hai tên này đều là giả pháp; giả pháp như thế không
sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng
giữa nên bất khả đắc.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ví như các
vật bên ngoài như: Cỏ cây, gốc, cành, lá, hoa, quả v.v... chỉ có giả danh; giả
danh như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là các vật bên ngoài
như cỏ, cây, gốc v.v... Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không
ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.
Này Thiện Hiện! Cũng như vậy, hoặc
Bồ tát, hoặc Bát nhã Ba la mật, nếu hai tên này đều là giả danh; giả pháp như
thế không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không
ở khoảng giữa nên bất khả đắc.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ví như chư
Phật quá khứ, vị lai chỉ có giả danh; giả danh như thế không sanh, không diệt,
chỉ giả lập mà gọi là chư Phật quá khứ, vị lai. Như vậy, tất cả chỉ có giả
danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên
bất khả đắc.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ví như cảnh
trong mộng, tiếng vang, bóng sáng, việc huyễn, sóng nắng, trăng dưới nước, biến
hóa... chỉ có giả danh; giả danh như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà
gọi là cảnh trong mộng cho đến biến hóa. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các
giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.
Này Thiện Hiện! Cũng như vậy hoặc Bồ
tát, hoặc Bát nhã Ba la mật, nếu hai tên này đều là giả pháp; giả pháp như thế,
không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở
khoảng giữa nên bất khả đắc.
Này Thiện Hiện! Các Bồ tát khi tu
hành Bát Nhã, đối với tất cả pháp, tên giả, pháp giả và phương tiện giả nên
phải tu học. Vì sao? Này Thiện Hiện! Các Bồ tát tu hành Bát Nhã, không nên
quán danh sắc hoặc thường hoặc vô thường; không nên quán danh thọ, tưởng, hành,
thức hoặc thường hoặc vô thường. Không nên quán danh sắc hoặc vui hoặc khổ;
không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc vui hoặc khổ. Không nên quán
danh sắc hoặc ngã hoặc vô ngã; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc
ngã hoặc vô ngã. Không nên quán danh sắc hoặc tịnh hoặc bất tịnh; không nên
quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Không nên quán danh
sắc hoặc không hoặc bất không; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc
không hoặc bất không. Không nên quán danh sắc hoặc hữu tướng hoặc vô tướng;
không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc hữu tướng hoặc vô tướng. Không
nên quán danh sắc hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện; không nên quán danh thọ, tưởng,
hành, thức hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện. Không nên quán danh sắc hoặc tịch
tịnh hoặc bất tịch tịnh; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc tịch
tịnh hoặc bất tịch tịnh. Không nên quán danh sắc hoặc viễn ly hoặc không viễn
ly; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc viễn ly hoặc không viễn ly.
Không nên quán danh sắc hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh; không nên quán danh
thọ, tưởng, hành, thức hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh. Không nên quán danh sắc
hoặc sanh hoặc diệt; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc sanh hoặc
diệt.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Bồ tát
tu hành Bát Nhã, không nên quán danh mười hai xứ, mười tám giới hoặc thường
hoặc vô thường; hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã; hoặc tịnh hoặc bất
tịnh, hoặc không hoặc bất không, hoặc hữu tướng hoặc vô tướng, hoặc hữu nguyện
hoặc vô nguyện, hoặc tịch tịnh hoặc bất tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc không viễn
ly, hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh, hoặc sanh hoặc diệt. Vì sao? Vì Bồ tát này
khi tu hành Bát Nhã, hoặc Bồ tát, hoặc danh Bồ tát, hoặc Bát Nhã, hoặc danh Bát
Nhã đều không thấy ở trong giới hữu vi, cũng không thấy ở trong giới vô vi. Vì
sao? Vì Bồ tát này đối tất cả pháp chẳng khởi tác phân biệt, không phân biệt
khác. (Q. 406, ĐBN)
Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát này khi
tu hành Bát Nhã an trụ trong tất cả pháp vô phân biệt nên chẳng thấy đại Bồ
tát, chẳng thấy danh Bồ tát, chẳng thấy Bát nhã Ba la mật, chẳng thấy danh Bát
nhã Ba la mật.
Này Thiện Hiện! Bồ tát này khi tu
hành Bát Nhã thường tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã;
thường trụ pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh; thường trụ
chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế… cho đến cảnh giới
hư không, cảnh giới bất tư nghì; thường tu ba mươi bảy pháp trợ đạo; thường trụ
tứ Thánh đế; thường tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; thường tu
tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; thường tu Phật
mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại
hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.
Bồ tát này vào lúc đó không thấy Bồ
tát, không thấy danh Bồ tát, không thấy Bát nhã Ba la mật, không thấy danh Bát
nhã Ba la mật. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bồ tát này tu hành Bát Nhã đối với
tất cả pháp khéo thông đạt thật tướng, và trong ấy khéo thông đạt pháp không
tạp nhiễm, pháp thanh tịnh.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các Bồ tát
tu hành Bát Nhã hiểu biết tất cả pháp đều là danh giả, pháp giả.
Này Thiện Hiện! Bồ tát này đã hiểu
biết như thật danh pháp giả rồi nên không chấp trước sắc, không chấp
trước thọ, tưởng, hành, thức; không chấp trước mười hai xứ, mười tám giới;
không chấp trước tất cả pháp Phật; không chấp trước giới hữu vi, không chấp
trước giới vô vi; không chấp trước bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh
lự, Bát Nhã; không chấp trước các tướng tốt, không chấp trước thân Bồ tát,
không chấp trước nhục nhãn cho đến Phật nhãn; không chấp trước trí Ba la mật và
thần thông Ba la mật; không chấp trước sự thành thục hữu tình, không chấp trước
việc nghiêm tịnh cõi Phật, không chấp trước phương tiện quyền xảo. Vì sao? Này
Thiện Hiện! Vì tất cả pháp đều vô sở hữu, năng trước, sở trước, xứ trước, thời
trước đều bất khả đắc.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các Bồ tát
đối với tất cả pháp không chấp trước; khi tu hành Bát Nhã tăng trưởng bố thí Ba
la mật; tăng trưởng tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã. Hướng vào
Chánh tánh ly sanh của Bồ tát, hướng vào địa vị Bồ tát Bất thối chuyển, viên
mãn thần thông thù thắng của Bồ tát.
Như vậy, Thần thông thù thắng của Bồ
tát đã được viên mãn, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, vì muốn giáo hóa các
hữu tình, vì muốn làm nghiêm tịnh cõi Phật, được gặp Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác, gặp rồi cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, làm cho các thiện
căn đều được sanh trưởng. Thiện căn đã được sanh trưởng, được nghe và thọ trì
Chánh pháp chư Phật theo sở thích của mình. Đã thọ trì rồi cho đến Vô Thượng Bồ
đề không quên mất, đối với tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa môn đều được tự tại.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại
Bồ tát tu hành Bát Nhã hiểu biết như thật danh giả, pháp giả nên không chấp
trước.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ngươi
Sắc có phải là Bồ tát không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Thọ, tưởng, hành, thức là có phải
Bồ tát không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Lìa sắc có phải Bồ tát không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Lìa thọ, tưởng, hành, thức có phải
Bồ tát không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Mười hai xứ có phải Bồ tát không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Mười tám giới có phải là Bồ tát
không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Vô minh có phải là Bồ tát không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Hành, thức, danh sắc, lục nhập,
xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử có phải Bồ tát không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Lìa vô minh có phải là Bồ tát
không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Lìa hành cho đến lão tử có phải là
Bồ tát không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
Lúc bấy giờ, Phật bảo Tôn giả Thiện
Hiện:
- Ngươi xem xét nghĩa nào mà nói như
vầy: Sắc thảy pháp(1) chẳng phải Bồ tát, lìa sắc thảy pháp cũng không phải Bồ
tát?
Khi ấy, Tôn giả Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Hoặc Bồ đề, hoặc Tát
đỏa, hoặc sắc thảy pháp rốt ráo còn bất khả đắc vì tánh chẳng có, huống
là có Bồ tát. Nếu đã chẳng có, sao có thể nói sắc thảy pháp là Bồ tát, lìa sắc
có Bồ tát được!
Phật bảo Thiện Hiện!
- Hay thay! Đúng vậy! Đúng như lời
ngươi nói. Này Thiện Hiện! Hoặc Bồ đề, hoặc Tát đỏa, hoặc sắc thảy pháp đều
bất khả đắc nên các Bồ tát cũng bất khả đắc. Vì các Bồ tát bất khả đắc nên việc
tu hành Bát Nhã cũng bất khả đắc.
Này Thiện Hiện! Các Bồ tát khi tu
hành Bát Nhã nên học như vậy.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ngươi,
thế nào là Bồ tát?
- Sắc như(2) có phải là Bồ tát
không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Thọ, tưởng, hành, thức như có phải
là Bồ tát không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Lìa sắc như có phải là Bồ tát
không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Lìa thọ, tưởng, hành, thức như có
phải là Bồ tát không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- 12 xứ như có phải là Bồ tát không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- 18 giới như có phải là Bồ tát
không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Lìa 18 giới như có phải là Bồ tát
không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Vô minh như có phải là Bồ tát phải
không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc,
thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử như có phải là đại Bồ tát không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Lìa vô minh như có phải là Bồ tát
không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Lìa hành cho đến lão tử như có phải
là Bồ tát không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
Lúc bấy giờ, Phật bảo Tôn giả Thiện
Hiện:
- Ngươi quán nghĩa nào mà nói như
vầy: Cả sắc thảy pháp như, không phải là Bồ tát, lìa sắc thảy pháp như không
phải là Bồ tát?
Khi ấy, Tôn giả Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Sắc thảy pháp rốt
ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có sắc thảy pháp như. Như này
đã chẳng có, như vậy sao có thể nói cả sắc thảy pháp như là Bồ tát, lìa sắc
thảy pháp như có Bồ tát?
Phật bảo Thiện Hiện!
- Hay thay! Đúng vậy! Đúng như lời
ngươi nói.
Này Thiện Hiện! Vì sắc thảy pháp
bất khả đắc, nên cả sắc thảy pháp như cũng bất khả đắc. Vì sắc thảy pháp như
bất khả đắc nên các Bồ tát cũng bất khả đắc. Vì các Bồ tát bất khả đắc nên tu
hành Bát Nhã cũng bất khả đắc.
Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi
tu hành Bát Nhã nên học như vậy.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ngươi
thế nào là Bồ tát? Khái niệm sắc là Bồ tát phải không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là
Bồ tát phải không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
Khái niệm sắc thường là Bồ tát phải
không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức
thường là Bồ tát phải không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
Khái niệm sắc vô thường là Bồ tát
phải không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức vô
thường là Bồ tát phải không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
Khái niệm sắc là vui hay khổ, là ngã
hay vô ngã, là tịnh hay bất tịnh, là không hay bất không, là hữu tướng hay vô
tướng, là hữu nguyện hay vô nguyện, là tịch tịnh hay bất tịch tịnh, là viễn ly
hay bất viễn ly, là tạp nhiễm hay thanh tịnh, sanh hay diệt…là Bồ tát phải
không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là
vui hay khổ, là ngã hay vô ngã, là tịnh hay bất tịnh, là không hay bất không,
là hữu tướng hay vô tướng, là hữu nguyện hay vô nguyện, là tịch tịnh hay bất
tịch tịnh, là viễn ly hay bất viễn ly, là tạp nhiễm hay thanh tịnh, sanh hay
diệt… là Bồ tát phải không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
Khái niệm mười hai xứ, mười tám
giới… cho đến mười hai duyên khởi là vui hay khổ, là ngã hay vô ngã,
sanh hay diệt v.v… có phải là Bồ tát không?
- Bạch Thế Tôn! Không!
Lúc bấy giờ, Phật bảo cụ thọ Thiện
Hiện:
- Ngươi xem xét nghĩa nào mà nói như
vầy: Khái niệm về sắc không phải là Bồ tát? Lại xem xét nghĩa nào mà nói
như vầy: Khái niệm về sắc hoặc thường, hoặc vô thường, hoặc vui, hoặc khổ, hoặc
ngã, hoặc vô ngã, hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, hoặc không, hoặc bất không, hoặc
hữu tướng, hoặc vô tướng, hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện, hoặc tịch tịnh, hoặc
bất tịch tịnh, hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh,
hoặc sanh, hoặc diệt cũng không phải là Bồ tát?
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Sắc rốt ráo còn bất
khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có khái niệm về sắc, các pháp này đã không
có, sao có thể nói khái niệm về sắc là Bồ tát?
Bạch Thế Tôn! Thường của sắc rốt
ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có vô thường của sắc.
Thường, vô thường của sắc rốt ráo còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về
thường, vô thường của sắc. Khái niệm về các pháp này đã không có, sao có thể
nói khái niệm về thường, vô thường của sắc là Bồ tát.
Bạch Thế Tôn! Lạc của sắc rốt ráo
còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có khổ của sắc, khổ của sắc rốt ráo
còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về khổ của sắc. Khái niệm về các pháp
này đã không có, sao có thể nói khái niệm về lạc, khổ của sắc là Bồ tát.
Bạch Thế Tôn! Ngã, tịnh v.v… của sắc
thảy pháp rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có vô ngã, bất
tịnh v.v… của sắc thảy pháp, ngã, vô ngã, tịnh, bất tịnh v.v… của sắc rốt ráo
còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về ngã, vô ngã, tịnh, bất tịnh v.v… của
sắc. Khái niệm về các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về ngã, vô
ngã, tịnh, bất tịnh v.v… của sắc là đại Bồ tát.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Lành thay! Lành
thay! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Này Thiện Hiện! Các sắc thảy và thường,
vô thường v.v... bất khả đắc nên khái niệm về sắc thảy và khái niệm về thường,
vô thường v.v... cũng bất khả đắc. Vì pháp và khái niệm đều bất khả đắc, nên
các đại Bồ tát cũng bất khả đắc. Vì các Bồ tát bất khả đắc, nên tu hành Bát Nhã
cũng bất khả đắc.
Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi
tu hành Bát Nhã nên học như vậy.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Trước ngươi
đã nói: “Con hoàn toàn không thấy có một pháp nào có thể gọi là Bồ tát”. Đúng
vậy! Đúng như lời ngươi nói!
Các pháp không thấy các pháp. Các
pháp không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy các pháp. Pháp giới không thấy
pháp giới. Pháp giới không thấy sắc giới; sắc giới không thấy pháp giới. Pháp
giới không thấy thọ, tưởng, hành, thức giới; thọ, tưởng, hành, thức giới không
thấy pháp giới. Pháp giới không thấy mười hai xứ, mười tám giới; mười hai xứ,
mười tám giới không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy vô minh; vô minh không
thấy pháp giới. Pháp giới không thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ,
ái, thủ, hữu, sanh, lão tử; hành cho đến lão tử không thấy pháp giới. Giới hữu
vi không thấy giới vô vi; giới vô vi không thấy giới hữu vi. (Q. 408, ĐBN)
Này Thiện Hiện! Chẳng phải lìa hữu
vi mà lập vô vi, chẳng phải lìa vô vi mà lập hữu vi.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các Bồ tát
khi tu hành Bát Nhã, đối với tất cả pháp đều không thấy. Vì không thấy nên tâm
không kinh (khiếp), không hãi, không e ngại, đối với tất cả pháp tâm
không chìm đắm, cũng chẳng lo buồn, ăn năn. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bồ tát
này khi tu hành Bát Nhã thâm sâu như vậy, không thấy sắc, không thấy thọ,
tưởng, hành, thức; không thấy mười hai xứ, mười tám giới; không thấy vô minh,
không thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử;
không thấy tham dục, không thấy sân giận, ngu si; không thấy ngã, không thấy
hữu tình, mạng giả, sĩ phu, nho đồng cho đến người biết, người thấy; không thấy
Dục giới, không thấy Sắc, Vô sắc giới; không thấy Thanh văn và pháp Thanh văn,
không thấy Độc giác và pháp Độc giác; không thấy Bồ tát và pháp Bồ tát; không
thấy chư Phật và pháp chư Phật; không thấy Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Này Thiện Hiện! Các Bồ tát đối
với tất cả pháp đều không thấy. Vì không thấy, nên tâm không kinh, không hãi,
không e ngại. Đối với tất cả pháp tâm không chìm đắm, cũng chẳng lo buồn, ăn
năn.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Lại do nhân duyên
nào, các đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã, đối với tất cả pháp tâm không chìm
đắm, cũng chẳng lo buồn, ăn năn?
Phật bảo:
Này Thiện Hiện! Các Bồ tát khi tu
hành Bát Nhã, đối với tất cả tâm, tâm sở đều không được, không thấy. Do đó, đối
với tất cả pháp, tâm không chìm đắm, cũng chẳng lo buồn, ăn năn.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa:
- Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát khi tu
hành Bát Nhã, do nguyên nhân nào mà đối với tất cả pháp, tâm không kinh, không
hãi, không e ngại?
Phật bảo:
Này Thiện Hiện! Các Bồ tát khi tu
hành Bát Nhã, đối với tất cả ý và ý giới đều không được, không thấy. Như
vậy, này Thiện Hiện! Các Bồ tát khi tu hành Bát Nhã, đối với tất cả pháp, tâm
không kinh, không hãi, không e ngại.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại
Bồ tát đối với tất cả pháp đều vô sở đắc, nên hành Bát Nhã như vậy.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Bồ
tát khi tu hành Bát Nhã, đối với tất cả chỗ và tất cả thời, đều không thấy đắc Bát
Nhã, không thấy đắc danh Bát Nhã, không thấy đắc Bồ tát, không thấy đắc danh Bồ
tát, cũng không thấy đắc Bồ đề tâm.
Này Thiện Hiện! Nên dạy bảo truyền
trao cho các Bồ tát, làm cho họ được thành tựu Bát nhã Ba la mật.
Thích nghĩa:
Xin đọc thích nghĩa ở phẩm “Dạy Bảo
Trao Truyền”, quyển 11 đến phần đầu quyển 36, tập 01 và 02, Hội thứ I.
(1). Sắc thảy pháp: Nguyên văn chữ
Hán là “色 sắc 等 đẳng 法 pháp”.
(2). Sắc như hoặc chơn như của sắc
hoặc tướng như, chơn như tướng hoặc như như tướng của sắc, tất cả diễn tả trạng
thái “như” có nghĩa nó như vậy là như vậy, chẳng lúc chẳng như, đã thuyết trong
phẩm “Chơn Như”, từ quyển 318 trở đi, thuộc Hội thứ I, ĐBN.
Sơ giản:
Xin đọc lại phẩm “Dạy Bảo Trao
Truyền” quyển 11 đến đầu quyển 36, Hội thứ I, ĐBN. Ở đây chúng tôi chỉ tóm tắt
các giáo pháp chính của phẩm này để quý vị nắm vững phẩm “Dạy Bảo Trao Truyền”
của Hội thứ I mà thôi:
1. Các pháp chỉ là danh giả, pháp
giả:
Hoặc đại Bồ tát, hoặc Bát Nhã, nếu
hai tên này đều là giả pháp; giả pháp như thế thì không sanh, không diệt, chỉ
là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.
- Thí như trong thân có đầu, cổ,
vai, bắp tay, cánh tay, bụng, lưng, ngực, hông, eo, xương sống, đùi, đầu gối,
bắp chân, ống chân, da, thịt, xương, tủy… chỉ có giả danh; giả danh như thế
không sanh, không diệt chỉ giả lập mà gọi là đầu, cổ, cánh tay...
- Ví như các vật ngoài thân như: Cỏ
cây, gốc, cành, lá, v.v... chỉ có giả danh; giả danh như thế không sanh, không
diệt, chỉ giả lập mà gọi là các vật bên ngoài như cỏ, cây, gốc, v.v
Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các
giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.
Cũng như vậy, hoặc Bồ tát, hoặc Bát nhã Ba la mật, hoặc tất cả pháp, tất cả
pháp như thế đều là giả danh; giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ là
giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc. Tại
sao vậy? Vì tất cả đều không có tánh. Kinh nói nếu tất cả pháp không có tự
tánh thì đều lấy vô tánh làm tự tánh. Nhưng chẳng có gì là tự tánh trong tự
tánh cả, nên nói là không. Nên, Phật bảo:
“Này Thiện Hiện! Hoặc Bồ đề, hoặc
Tát đỏa, hoặc sắc thảy pháp đều bất khả đắc nên các Bồ tát cũng bất khả đắc. Vì
các Bồ tát bất khả đắc nên việc tu hành Bát Nhã cũng bất khả đắc”.
Các đại Bồ tát tu hành Bát Nhã hiểu
biết như thật danh giả, pháp giả đều bất khả đắc nên không phân biệt, nếu không
phân biệt thì không chấp trước.
2. Pháp
không thấy pháp:
Chỉ có con người mới thấy pháp nọ
pháp kia, còn pháp không thấy pháp. Phật bảo:“Các pháp
không thấy các pháp. Các pháp không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy các
pháp. Pháp giới không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy sắc giới; sắc giới
không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy thọ, tưởng, hành, thức giới; thọ,
tưởng, hành, thức giới không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy mười hai xứ,
mười tám giới; mười hai xứ, mười tám giới không thấy pháp giới. Pháp giới không
thấy vô minh; vô minh không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy hành, thức,
danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử; hành cho đến lão tử
không thấy pháp giới. Giới hữu vi không thấy giới vô vi; giới vô vi không thấy
giới hữu vi”. (Q. 408, ĐBN)
Nếu đối với tất cả pháp đều không
thấy không chấp thì các đại Bồ tát đối với tất cả pháp đều vô sở đắc, nên
Phật bảo:.
“Các đại Bồ tát khi tu hành Bát
Nhã như vậy, đối với tất cả chỗ và tất cả thời, đều không thấy đắc Bát Nhã,
không thấy đắc danh Bát Nhã, không thấy đắc Bồ tát, không thấy đắc danh Bồ tát,
cũng không thấy đắc Bồ đề tâm.
Nên dạy bảo truyền trao cho các Bồ
tát, làm cho họ được thành tựu Bát nhã Ba la mật như vậy!
---o0o---