Thứ Sáu, 11 tháng 6, 2021

Hội thứ II - 37. Phẩm "Tùy Hỷ Hồi Hướng"

 

PHẨM "TÙY HỶ(1) HỒI HƯỚNG(2)"

 

Phần sau quyển 432 đến hết quyển 433, Hội thứ II. ĐBN.

(Tương đương phẩm “Tùy Hỷ Hồi Hương”, phần sau Q.168 cho đến

phần đầu Q.172, Hội thứ I, ĐBN)

 

Gợi ý:

Đại Bồ tát đem tất cả căn lành của mình đã vun trồng hiện tiền tùy hỷ hồi hướng đến tất cả chư Như Lai, Bồ tát, Độc giác, Thanh văn và các chúng đệ tử hiện trụ tại thế hay đã Niết bàn khắp mười phương thế giới hay đem sự tùy hỷ hồi hướng như vậy, tạo các phước nghiệp sự ban cho tất cả hữu tình, rồi bình đẳng hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nhưng phải nghĩ sự tùy hỷ hồi hướng đó là vô sở hữu, bất khả đắc, thì sự tùy hỷ hồi hướng mới được coi là cao quý, vi diệu, vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng so với tất cả các sự tùy hỷ khác. Tùy hỷ vô sở hữu, bất khả đắc, tức không nắm lấy sở duyên, chẳng nắm lấy tướng. Một khi có nắm bắt là có chấp thủ, có chấp thủ thì rơi vào nhị nguyên nên không tránh khỏi tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo!

 

Tóm lược:

 

(…) Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện liền hỏi Bồ tát Từ Thị:

- Bạch Đại Sĩ! Sở duyên thật vô sở hữu, tâm tùy hỷ hồi hướng cũng như thế, các căn lành v.v… cũng như thế, Vô thượng Bồ đề cũng như thế; bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật cũng như thế, nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng như thế. Vậy thế nào là sở duyên? Thế nào là phước nghiệp sự? Thế nào là tâm tùy hỷ hồi hướng? Thế nào là các thiện căn…? Thế nào là Vô thượng Bồ đề? Thế nào là sáu pháp Ba la mật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mà Bồ tát ấy nương vịn(3), rồi khởi tâm tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Đại Bồ tát Từ Thị đáp:

- Này Đại đức! Nếu Bồ tát tu học sâu xa sáu pháp Ba la mật, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, từ lâu đã phát đại nguyện, trồng các căn lành, được các thiện hữu nhiếp thọ, khéo học nghĩa tự tướng không của tất cả pháp thì Bồ tát ấy có khả năng đối với sở duyên, đều không chấp thủ tướng, vẫn có thể phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Khởi tâm tùy hỷ hồi hướng, lấy vô nhị, chẳng vô nhị làm phương tiện, chẳng hữu tướng, chẳng vô tướng làm phương tiện, chẳng hữu sở đắc, chẳng vô sở đắc làm phương tiện, chẳng nhiễm chẳng tịnh làm phương tiện, chẳng sanh chẳng diệt làm phương tiện. Đối với việc sở duyên cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đều không chấp thủ tướng. Do không chấp thủ tướng nên chẳng bị điên đảo thu nhiếp.

Nếu Bồ tát chưa tu học kỹ sáu pháp Ba la mật, chưa từng cúng dường vô lượng chư Phật, trồng thiện căn chưa sâu, phát đại nguyện chưa bền, chưa được nhiều thiện hữu nhiếp thọ, chưa khéo học tự tướng không của tất cả pháp thì vị Bồ tát này đối với sở duyên, khởi tâm tùy hỷ hồi hướng còn nắm giữ tướng. Khởi tâm tùy hỷ hồi hướng như vậy, vì nắm giữ tướng nên bị điên đảo nhiếp thủ, chẳng phải chơn thật tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại nữa Đại đức! Chẳng nên ở trước các vị Bồ tát tân học Đại thừa mà tuyên nói Bát nhã Ba la mật cho đến bố thí Ba la mật, nội không cho đến vô tánh tự tánh không, bốn niệm trụ nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng và nghĩa tự tướng không của tất cả pháp. Vì sao? Vì đối với pháp như vậy, các Bồ tát tân học Đại thừa tuy có phần ít kính tin ưa thích, song họ nghe rồi lại thường quên mất, hoặc kinh sợ, hay nghi hoặc sanh ra hủy báng.

Nếu các Bồ tát Bất thối chuyển, từng cúng dường vô lượng chư Phật, trồng căn lành sâu xa, phát đại nguyện kiên cố, được nhiều thiện hữu nhiếp thọ thì nên đối trước họ mà rộng nói, phân biệt chỉ bày Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật, nội không cho đến vô tánh tự tánh không, bốn niệm trụ nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng và nghĩa tự tướng không của tất cả pháp. Vì sao? Vì các Bồ tát Bất thối chuyển ấy từng cúng dường vô lượng chư Phật, trồng căn lành sâu xa, phát đại nguyện kiên cố, đã được nhiều thiện hữu nhiếp thọ, nếu nghe pháp này thì họ đều có thể thọ trì trọn đời không quên mất, cũng không kinh sợ, nghi hoặc, hủy báng.

Này Đại đức! Các Bồ tát nên lấy sự tùy hỷ cùng làm các phước nghiệp sự như vậy, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Di Lặc Bồ Tát rằng:

- Thưa Đại sĩ! Bồ Tát nên đem tùy hỷ làm các phước nghiệp sự như thế, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nghĩa là lấy các phước nghiệp sự hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề làm chỗ dụng tâm để tùy hỷ. Chỗ dụng tâm này là diệt tận ly biến(4). Trong đây những gì là sở dụng tâm, những gì làm sở duyên và các thiện căn mà nói tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Tâm này đối tâm lẽ ra chẳng có tùy hỷ hồi hướng, vì không có hai tâm đồng khởi cùng lúc. Tâm cũng chẳng khá tùy hỷ hồi hướng tự tánh của tâm. Khi Bồ tát tu hành Bát Nhã, mà biết như vầy: Tất cả Bát nhã Ba la mật cho đến bố thí Ba la mật vô sở hữu; sắc vô sở hữu, thọ, tưởng, hành, thức vô sở hữu, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng vô sở hữu thì Bồ tát này biết tất cả pháp đều vô sở hữu, nhưng lại có thể tùy hỷ làm các phước nghiệp s, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Tâm tùy hỷ hồi hướng như vậy chẳng bị điên đảo thu nhiếp. Vì lấy vô sở đắc làm phương tiện vậy.

Khi ấy, trời Đế Thích thưa với Cụ Thọ Thiện Hiện:

- Thưa Đại đức! Các Bồ tát tân học Đại thừa nghe pháp như vậy, tâm họ há không kinh sợ, nghi hoặc chăng? Các Bồ tát tân học Đại thừa tu tập thiện căn như thế nào để hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Các Bồ tát tân học Đại thừa nhiếp thọ tùy hỷ, làm các phước nghiệp snhư thế nào để hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Cụ Thọ Thiện Hiện nương thần lực của Đại Bồ tát Từ Thị, bảo trời Đế Thích:

- Này Kiều Thi Ca! Các Bồ tát tân học Đại thừa, nếu tu Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật, lấy vô sở đắc làm phương tiện, vô tướng làm phương tiện, nhiếp thọ Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật, thì Bồ tát ấy do nhân duyên đây sẽ tin hiểu thâm sâu nội không cho đến vô tánh tự tánh không, tin hiểu thâm sâu bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, thường được thiện hữu nhiếp thọ. Những thiện hữu này lấy vô lượng môn văn nghĩa vi diệu, vì Bồ tát ấy mà rộng nói pháp tương ưng với Bát Nhã, tĩnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật. Truyền trao chỉ dạy những pháp như vậy, khiến cho Bồ tát ấy nhập vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh, nếu chưa vào được Chánh tánh ly sanh thì ít nhất cũng chẳng lìa bỏ pháp tu tập Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật, nội không cho đến vô tánh tự tánh không, bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng lấy những pháp này truyền trao chỉ dạy, khiến cho Bồ tát ấy nhập được Bồ tát Chánh tánh ly sanh, thường không lìa chư Phật. Ở chỗ chư Phật, trồng các căn lành. Lại nhờ các căn lành nhiếp thọ nên thường sanh vào gia tộc của Đại Bồ tát cho đến khi đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thường không lìa bỏ các căn lành.

Này Kiều Thi Ca! Các Bồ tát tân học Đại thừa, nếu có thể lấy vô sở đắc làm phương tiện, vô tướng làm phương tiện, nhiếp thọ các công đức, tin hiểu sâu xa các công đức, thường được thiện hữu nhiếp thọ, nghe pháp như vậy thì tâm không kinh, không sợ, cũng không nghi hoặc.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các Bồ tát tân học Đại thừa tùy thuận tu tập bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, tùy thuận an trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không, tùy thuận tu tập bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng và vô lượng vô biên Phật pháp khác đều phải lấy vô sở đắc làm phương tiện, vô tướng làm phương tiện, ban cho các hữu tình cùng bình đẳng hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các Bồ tát tân học Đại thừa đối khắp mười phương vô số vô lượng vô biên thế giới tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, dứt đọa các cõi, tuyệt đường lý luận, bỏ các gánh nặng, bẻ gãy gai gốc tụ lạc, dứt sạch các kiết sử, đầy đủ chánh trí, tâm khéo giải thoát, là kẻ khéo thuyết pháp và chúng đệ tử Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác kia sở thành nhóm giới, nhóm định, nhóm huệ, nhóm giải thoát, nhóm giải thoát tri kiến và đã làm các thứ công đức khác. Cùng đại tộc Sát đế lợi, đại tộc Bà la môn, đại tộc Trưởng giả, đại tộc Cư sĩ v.v… ở chỗ đây trồng các căn lành; hoặc trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Tha hóa tự tại chỗ trồng căn lành; hoặc trời Phạm chúng cho đến trời Sắc cứu cánh v.v… chỗ trồng căn lành. Như vậy tất cả nhóm hợp cân lường hiện tiền phát khởi, so căn lành tâm tùy hỷ khác là tối là thắng, là tôn là cao, là diệu là vi diệu, là thượng là vô thượng, vô đẳng vô đẳng đẳng. Lại dùng sự tùy hỷ như thế làm các phước nghiệp sự, cùng với tất cả hữu tình, bình đẳng cùng chung hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Bấy giời, Đại Bồ tát Từ Thị hỏi Cụ Thọ Thiện Hiện:

- Đại đức! Các Bồ tát tân học Đại thừa nếu niệm công đức của chư Phật và của chúng đệ tử, cùng với căn lành của trời người v.v… đã gieo trồng; tập hợp tất cả lượng công đức như vậy, hiện tiền phát khởi. Lại đem tâm tùy hỷ ấy, tùy hỷ các căn lành như vậy ban cho các hữu tình, cùng bình đẳng hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vậy Bồ tát này làm thế nào để khỏi rơi vào tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo?

Cụ Thọ Thiện Hiện đáp:

- Thưa Đại sĩ! Nếu Bồ tát đối với việc niệm công đức của chư Phật và của chúng đệ tử mà không khởi tưởng đây là công đức của chư Phật và của chúng đệ tử; đối với việc niệm căn lành của trời người v.v… đã gieo trồng, không khởi tưởng căn lành của trời người v.v…; đối với việc phát tâm tùy hỷ hồi hướng Vô thượng Bồ đề, cũng không khởi tưởng tâm tùy hỷ hồi hướng Vô thượng Bồ đề thì việc khởi tâm tùy hỷ hồi hướng của Bồ tát này không rơi vào tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo.

Ngược lại, nếu Bồ tát đối với việc niệm công đức của chư Phật và của chúng đệ tử mà khởi tưởng đây là công đức của chư Phật và của chúng đệ tử; đối với việc niệm căn lành của trời người v.v…đã gieo trồng, mà khởi tưởng căn lành của trời người v.v…; đối với việc phát tâm tùy hỷ hồi hướng Vô thượng Bồ đề, cũng khởi tưởng tâm tùy hỷ hồi hướng Vô thượng Bồ đề thì việc khởi tâm tùy hỷ hồi hướng của Bồ tát này sẽ rơi vào tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo.

Lại nữa, Đại Sĩ! Nếu Bồ tát đem tâm tùy hỷ như thế, nhớ nghĩ tất cả công đức căn lành Phật và chúng đệ tử, chính biết tâm đây diệt tận ly biến, chẳng phải năng tùy hỷ; chính biết pháp kia tánh nó cũng vậy, chẳng phải sở tùy hỷ. Lại chính thấu rõ tâm năng hồi hướng pháp tánh cũng vậy, chẳng phải năng hồi hướng; và chính thấy rõ pháp sở hồi hướng tánh nó cũng vậy, chẳng phải sở hồi hướng. Nếu y theo lời dạy như thế tùy hỷ hồi hướng là chơn chánh. Các Bồ tát đều nên tùy hỷ hồi hướng như vậy. (Q. 432, ĐBN)

Lại nữa Đại sĩ! Nếu Bồ tát đối với hết thảy các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ, vị lai, hiện tại, từ lúc mới phát tâm cho đến lúc đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, mãi cho đến lúc pháp diệt, trong khoảng giữa ấy có các công đức như: Các vị Độc giác và đệ tử Phật dựa vào pháp Phật ấy mà phát khởi thiện căn; hoặc các Dị sanh nghe pháp ấy mà trồng các căn lành; hoặc rồng, dược xoa, kiền đạt phược, A tu la, yết lộ trà, khẩn nại lạc, mạt hô lạc già, nhơn phi nhơn… nghe pháp ấy mà trồng các căn lành; hoặc đại tộc Sát đế lợi, đại tộc Bà la môn, Trưởng giả, Cư sĩ nghe pháp ấy mà trồng các căn lành; hoặc chúng trời Tứ đại vương cho đến trời Sắc cứu cánh nghe pháp ấy mà trồng các căn lành; hoặc các thiện nam, thiện nữ v.v… nghe pháp ấy mà phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng giác, chuyên cần tu Bồ tát hạnh. Tập hợp hết thảy các lượng công đức như vậy, hiện tiền phát khởi. Lại đem tâm tùy hỷ các căn lành như vậy ban cho các hữu tình cùng bình đẳng hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Khi ấy, nếu chơn chánh hiểu rỏ các pháp năng tùy hỷ hồi hướng là diệt tận ly biến, tự tánh đều không, tuy biết như vậy nhưng vẫn tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Lại khi ấy, nếu chơn chánh rõ biết các pháp đều không thì mới có thể tùy hỷ hồi hướng đối với tất cả pháp. Vì sao? Vì tất cả pháp, tự tánh đều không. Trong không đều không có pháp năng sở tùy hỷ hồi hướng vậy. Dù biết như vậy mà vẫn năng tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Các Bồ tát ấy nếu có thể tùy hỷ hồi hướng như vậy, tu hành Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật thì không rơi vào tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo. Vì sao? Vì Bồ tát ấy đối với tâm tùy hỷ không chấp thủ, cũng không chấp thủ chỗ tùy hỷ công đức thiện căn, đối với tâm hồi hướng không sanh chấp thủ, cũng không chấp thủ chỗ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Do không chấp thủ nên không rơi vào điên đảo. Bồ tát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng như vậy, gọi là vô thượng, vì xa lìa tất cả vọng tưởng phân biệt. (Q.432, ĐBN)

- Lại nữa, Đại sĩ! Đối với sự tu tạo các phước nghiệp s, nếu Bồ tát như thật biết rõ xa lìa uẩn xứ giới thì cũng xa lìa Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật, cũng xa lìa nội không cho đến vô tánh tự tánh không, cũng xa lìa bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Sau khi đã như thật biết sự tu tạo các phước nghiệp snhư thế, Bồ tát này có thể tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Đại sĩ! Nếu Bồ tát như thật biết rõ sự tùy hỷ cùng làm các phước nghiệp s, xa lìa tự tánh sự tùy hỷ cùng làm các phước nghiệp snhư vậy; như thật biết rõ chư Phật Thế Tôn, xa lìa tự tánh chư Phật Thế Tôn như vậy; như thật biết rõ công đức căn lành, xa lìa tự tánh công đức căn lành như vậy; như thật biết rõ Thanh văn, Độc giác và các Dị sanh, xa lìa tự tánh Thanh văn, Độc giác và các Dị sanh như vậy; như thật biết rõ tâm tùy hỷ hồi hướng Đại Bồ đề, xa lìa tự tánh tâm tùy hỷ hồi hướng Đại Bồ đề như vậy. Như thật biết rõ Bồ tát, xa lìa tự tánh Bồ tát như vậy; như thật biết rõ Bát nhã Ba la mật, xa lìa tự tánh Bát nhã Ba la mật, cho đến như thật biết rõ bố thí Ba la mật, xa lìa tự tánh bố thí Ba la mật; như thật biết rõ nội không, xa lìa tự tánh nội không, cho đến như thật biết rõ vô tánh tự tánh không, xa lìa tự tánh vô tánh không; như thật biết rõ bốn niệm trụ, xa lìa tự tánh bốn niệm trụ, cho đến như thật biết rõ mười tám pháp Phật bất cộng, xa lìa tự tánh mười tám pháp Phật bất cộng; như thật biết rõ Bồ tát hạnh, xa lìa tự tánh Bồ tát hạnh; như thật biết rõ chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, xa lìa tự tánh chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Bồ tát này tu hành xa lìa tự tánh các pháp như thế, tức là tu hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, chơn chánh tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Đại sĩ! Đối với công đức căn lành của các đệ tử và của tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và của các đệ tử đã diệt độ, các Bồ tát nếu muốn phát tâm tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì nên khởi tâm tùy hỷ hồi hướng, nên nghĩ như vầy: Các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử đều đã diệt độ, tự tánh chẳng có, công đức căn lành cũng lại như thế. Ta phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và chỗ hồi hướng Vô thượng Bồ đề, tánh ấy cũng như vậy. Biết như thế, nên đối với các căn lành phát khởi tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không rơi vào tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo.

Nếu Bồ tát lấy tướng làm phương tiện, tu hành Bát nhã Ba la mật, đối với công đức căn lành của tất cả đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và của các đệ tử đã diệt độ, chấp giữ tướng tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì chẳng phải là khéo tùy hỷ hồi hướng. Vì công đức căn lành của chư Phật quá khứ và của các đệ tử là phi tướng, tức vô tướng, chẳng phải cảnh giới có thể nắm giữ. Vì Bồ tát này nắm giữ chấp trước tướng mà phát tâm tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nên chẳng phải là khéo tùy hỷ hồi hướng. Do nhân duyên đây nên rơi vào tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo.

Nếu Bồ tát chẳng lấy tướng làm phương tiện, tu hành Bát Nhã, đối với công đức căn lành của tất cả chư Phật và chúng đệ tử, lìa chấp giữ tướng tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì đó gọi là khéo tùy hỷ hồi hướng. Do nhân duyên đây, nên Bồ tát này tùy hỷ hồi hướng không rơi vào tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo.

Bấy giờ, Đại Bồ tát Từ Thị hỏi cụ thọ Thiện Hiện rằng:

- Đại Đức! Đối với công đức căn lành của các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và của chúng đệ tử, nếu Bồ tát tùy hỷ cùng làm các phước nghiệp s… đều chẳng nắm giữ tướng, vậy làm sao có thể tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Thiện Hiện đáp:

- Bạch Đại sĩ! Phải biết Bát nhã Ba la mật mà các Bồ tát học có những phương tiện khéo léo (thiện xảo) như vầy: Tuy chẳng nắm giữ tướng nhưng vẫn thành tựu sở tác, chẳng lìa Bát nhã Ba la mật mà có thể chơn chánh phát khởi tùy hỷ cùng làm các phước nghiệp s hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Cho nên, chúng Bồ tát muốn thành tựu sở tác thì phải học Bát nhã Ba la mật.

Đại Bồ tát Từ Thị nói:

- Đại đức! Đại đức chớ nói lời ấy. Vì sao? Vì đối với Bát nhã Ba la mật, công đức căn lành mà chư Phật Thế Tôn và chúng đệ tử thành tựu đều vô sở hữu, bất khả đắc. Sự tạo tác tùy hỷ các việc phước nghiệp cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Sự phát tâm hồi hướng Vô thượng Bồ đề cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Trong đây, khi Bồ tát tu hành Bát Nhã, nên quán như vầy: Tánh công đức căn lành của của chư Phật và chúng đệ tử quá khứ đều đã diệt. Sự tạo tác tùy hỷ các phước nghiệp s, sự phát tâm hồi hướng Vô thượng Bồ đề, tánh nó đều tịch diệt. Nếu ta đối với công đức căn lành của tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và của chúng đệ tử kia, mà lấy tướng phân biệt; đối với sự tạo tác tùy hỷ cùng làm các phước nghiệp sự, phát tâm hồi hướng Vô thượng Bồ đề mà lấy tướng phân biệt, do lấy tướng phân biệt ấy làm phương tiện phát khởi tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nên chư Phật Thế Tôn đều quở chẳng cho, cũng chẳng tùy hỷ. Vì sao? Vì đối với chư Phật Thế Tôn và các đệ tử… đã diệt độ mà lấy tướng phân biệt tùy hỷ hồi hướng Vô thượng Bồ đề, thì đây gọi là “đại hữu sở đắc”. Cho nên, đối với công đức căn lành của chư Phật và của chúng đệ tử, Bồ tát muốn chơn chánh phát khởi tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì chẳng nên ở trong ấy, phát khởi thủ đắc, lấy tướng phân biệt tùy hỷ hồi hướng. Nếu ở trong ấy, phát khởi thủ đắc, lấy tướng phân biệt tùy hỷ hồi hướng thì Phật nói người đó chẳng có lợi lớn. Vì sao? Vì tâm tùy hỷ hồi hướng như thế là hư vọng phân biệt, là tạp độc vậy. Ví như có loại thức ăn, tuy đầy đủ sắc hương mỹ vị thượng diệu nhưng hòa với độc dược, người ngu trí cạn tham lấy ăn nuốt. Tuy ban đầu thích ý vui sướng khoái lạc, song sau khi thức ăn tiêu hóa thì phải chịu đủ các khổ, thậm chí mất mạng. Hạng Bổ đặc già la như vậy, chẳng khéo thọ trì, chẳng khéo quán sát văn cú nghĩa lý Bát nhã Ba la mật thậm thâm, chẳng khéo đọc tụng, chẳng khéo thông đạt nghĩa lý sâu xa, mà bảo kẻ chủng tánh Đại thừa rằng: “Lại đây thiện nam tử! Ngươi đối với tất cả đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ, vị lai, hiện tại, từ sơ phát tâm cho đến khi được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển bánh xe diệu pháp độ vô lượng chúng, vào cõi Vô dư y Bát Niết bàn, mãi đến lúc pháp diệt. Trong thời gian giữa, ngươi tu Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật, căn lành đã nhóm, sẽ nhóm, hiện nhóm; hoặc trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không, căn lành đã nhóm, sẽ nhóm, hiện nhóm; hoặc tu bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; như vậy cho đến hoặc tu Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, căn lành đã nhóm, sẽ nhóm, hiện nhóm; hoặc nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình; hoặc tu giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát trí kiến uẩn của các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác; hoặc tu Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; hoặc tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả và vô số vô lượng vô biên các pháp công đức thù thắng khác; hoặc tu tất cả căn lành hữu lậu, vô lậu của đệ tử Phật; hoặc tu công đức của các trời, người, Độc giác Bồ đề… đã đang và sẽ được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thọ ký; hoặc tu căn lành của các trời, rồng, dược xoa, kiện đạt phược, A tu la, yết lộ trà, khẩn nại lạc, mạc hô lạc già, nhơn phi nhơn…; hoặc tu căn lành của các thiện nam, thiện nữ đối với các công đức, phát khởi tùy hỷ hồi hướng. Tập hợp hết thảy lượng căn lành như vậy, hiện tiền tùy hỷ ban cho các hữu tình bình đẳng, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.

Tùy hỷ hồi hướng theo chỗ thuyết như thế, lấy hữu sở đắc, lấy tướng phân biệt làm phương tiện, thì kẻ ấy như ăn tạp độc, trước lợi sau tổn. Đây chẳng phải khéo tùy hỷ hồi hướng. Vì sao? Vì sự phát tâm tùy hỷ hồi hướng ấy lấy hữu sở đắc, lấy tướng phân biệt, có nhân có duyên, có tác ý, có hý luận, có chướng ngại, có lầm lỗi, chẳng hợp với Bát nhã Ba la mật. Ấy là kẻ tạp độc, là hủy báng Phật, nói chẳng hợp lời Phật, nói chẳng đúng Pháp, nói chẳng hợp lý. Bồ tát chủng tánh chẳng nên học theo chỗ thuyết ấy.

Vì vậy, Đại đức! Nên tôi mới hỏi các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ tát thừa đối với công đức căn lành của tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ, vị lai, hiện tại, và của chúng đệ tử… nên tùy hỷ hồi hướng như thế nào? Nghĩa là chư Phật kia từ sơ phát tâm cho đến khi được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển bánh xe diệu pháp, độ vô lượng chúng vào cõi Vô dư y Bát Niết bàn, cho đến lúc pháp diệt. Trong thời gian giữa, Đại Bồ tát tu Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật, nhóm các căn lành, nói rộng cho đến hoặc tu căn lành của các thiện nam, thiện nữ… đối với các công đức, phát khởi tùy hỷ hồi hướng. Các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ tát thừa, đối với công đức căn lành kia, phát khởi tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như thế nào?

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Đại sĩ! Các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ tát thừa tu hành Bát Nhã, nếu muốn phát tâm tùy hỷ hồi hướng mà không rơi vào lỗi hủy báng chư Phật Thế Tôn thì nên nghĩ như vầy: Các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Phật trí vô thượng thấu rõ, biết khắp công đức căn lành có tánh như thế, có tướng như thế, có pháp như thế, có thể tùy hỷ. Ta nay cũng nên tùy hỷ như vậy. Như các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Phật trí vô thượng thấu rõ, biết khắp, nên đem các phước nghiệp s như thế hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Ta nay cũng nên hồi hướng như vậy. Các thiện nam, thiện nữ... trụ Bồ tát thừa đối với công đức căn lành của các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và của các đệ tử…, nên tùy hỷ hồi hướng như thế. Nếu khởi tùy hỷ hồi hướng như thế thì chẳng hủy báng Phật, dạy đúng lời Phật, nói hợp với pháp, nói đúng với lý. Bồ tát ấy, tâm tùy hỷ hồi hướng như thế chẳng lẫn lộn thuốc độc, quyết đến cam lồ Đại Bát Niết bàn.

Lại nữa, Đại sĩ! Các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ tát thừa tu hành Bát Nhã, đối với công đức căn lành của các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và của các đệ tử…, nên khởi tùy hỷ hồi hướng như vầy: Sắc cho đến thức chẳng đọa cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc. Nếu chẳng đọa ba cõi thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại. Nhãn xứ cho đến ý xứ chẳng đọa cõi Dục, cõi Sắc, Vô sắc. Nếu chẳng đọa ba cõi thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại. Sắc xứ cho đến pháp xứ chẳng đọa cõi Dục, cõi Sắc, Vô sắc. Nếu chẳng đọa ba cõi thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại. Nhãn giới cho đến ý giới chẳng đọa cõi Dục, cõi Sắc, Vô sắc. Nếu chẳng đọa ba cõi thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại. Sắc giới cho đến pháp giới chẳng đọa cõi Dục, cõi Sắc, Vô sắc. Nếu chẳng đọa ba cõi thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới chẳng đọa cõi Dục, cõi Sắc, Vô sắc. Nếu chẳng đọa ba cõi thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại. Nhãn xúc cho đến ý xúc chẳng đọa cõi Dục, cõi Sắc, Vô sắc. Nếu chẳng đọa ba cõi thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng đọa cõi Dục, cõi Sắc, Vô sắc. Nếu chẳng đọa ba cõi thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại. Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật chẳng đọa cõi Dục, cõi Sắc, Vô sắc. Nếu chẳng đọa ba cõi thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không, bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, Như lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng đọa cõi Dục, cõi Sắc, Vô sắc; Chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế, pháp định, pháp trụ, bất tư nghì giới chẳng đọa cõi Dục, cõi Sắc, Vô sắc; Giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát trí kiến uẩn chẳng đọa cõi Dục, cõi Sắc, Vô sắc; Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chẳng đọa cõi Dục, cõi Sắc, Vô sắc; Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả chẳng đọa cõi Dục, cõi Sắc, Vô sắc. Nếu chẳng đọa ba cõi thì chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại.

Tùy hỷ hồi hướng cũng phải như thế. Vì sao? Vì tự tánh của các pháp ấy là không, nên chẳng đọa ba cõi, chẳng nhiếp ba đời. Tùy hỷ hồi hướng cũng lại như thế. Nghĩa là tự tánh của các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là không, nên chẳng đọa ba cõi, chẳng nhiếp ba đời. Tự tánh công đức của chư Phật là không, nên chẳng đọa ba cõi, chẳng nhiếp ba đời. Tự tánh của Thanh văn, Độc giác và trời, người… là không, nên chẳng đọa ba cõi, chẳng nhiếp ba đời. Tự tánh của các căn lành ấy là không, nên chẳng đọa ba cõi, chẳng nhiếp ba đời. Tự tánh tùy hỷ ấy là không, nên chẳng đọa ba cõi, chẳng nhiếp ba đời. Tự tánh của pháp hồi hướng là không, nên chẳng đọa ba cõi, chẳng nhiếp ba đời. Tự tánh của kẻ hay hồi hướng là không, nên chẳng đọa ba cõi, chẳng nhiếp ba đời.

Nếu khi Bồ tát tu hành Bát Nhã, như thật biết sắc cho đến thức chẳng đọa ba cõi, chẳng nhiếp ba đời; nếu chẳng đọa ba cõi chẳng nhiếp ba đời thì chẳng thể lấy có tướng kia làm phương tiện, có sở đắc làm phương tiện mà phát sanh tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì tự tánh của pháp sắc, thọ, tưởng v.v... chẳng sanh. Nếu pháp chẳng sanh thì vô sở hữu, chẳng thể đem pháp vô sở hữu ấy tùy hỷ hồi hướng vô sở hữu. Do vậy, như thật biết nhãn xứ cho đến ý xứ cũng như thế. Như thật biết sắc xứ cho đến pháp xứ cũng như thế. Như thật biết nhãn giới cho đến ý giới cũng như thế. Như thật biết sắc giới cho đến pháp giới cũng như thế. Như thật biết nhãn thức giới cho đến ý thức giới cũng như thế. Như thật biết nhãn xúc cho đến ý xúc cũng như thế. Như thật biết nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng như thế. Như thật biết tất cả pháp Phật cũng như thế. Nếu biết tất cả pháp Phật như thế chẳng đọa ba cõi, chẳng nhiếp ba đời, thì chẳng thể lấy có tướng làm phương tiện, lấy hữu sở đắc làm phương tiện, phát sanh tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp chẳng sanh. Nếu pháp chẳng sanh thì vô sở hữu, chẳng thể lấy pháp vô sở hữu ấy tùy hỷ hồi hướng vô sở hữu. Bồ tát này tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như thế là chẳng lẫn lộn thuốc độc, quyết đến cam lồ Đại Bát Niết bàn. Các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ tát thừa, nếu lấy có tướng làm phương tiện, hoặc hữu sở đắc làm phương tiện, đối với công đức căn lành của các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử…, phát tâm tùy hỷ hồi hướng thì phải biết đây là tà tùy hỷ hồi hướng. Tà tâm tùy hỷ hồi hướng này chẳng được chư Phật Thế Tôn khen ngợi.

Tâm tùy hỷ hồi hướng như thế chẳng được Phật Thế Tôn khen ngợi, nên chẳng thể viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật; cũng chẳng thể viên mãn nội không cho đến vô tánh tự tánh không; cũng chẳng thể viên mãn bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Như vậy, cho đến cũng chẳng thể viên mãn Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; cũng chẳng thể viên mãn Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; cũng chẳng thể viên mãn pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Bởi chẳng thể viên mãn các công đức, nên chẳng thể nghiêm tịnh cõi Phật và thành thục hữu tình. Do chẳng thể nghiêm tịnh cõi Phật và thành thục hữu tình nên chẳng thể chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì Bồ tát ấy phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng có tướng, có đắc, bị lẫn độc dược vậy.

Lại nữa, Đại sĩ! Khi các Bồ tát tu hành Bát Nhã, nên nghĩ như vầy: Tất cả đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mười phương thế giới, như thật thông đạt công đức căn lành có pháp như thế, có thể nương pháp ấy phát sanh tùy hỷ hồi hướng không trái. Ta nay cũng nên nương pháp như thế, phát sanh tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đó là chơn chánh phát khởi tùy hỷ hồi hướng. Do đây quyết định chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Bấy giờ, đức Thế Tôn khen cụ thọ Thiện Hiện:

- Hay thay! Này Thiện Hiện! Ngươi nay đã vì tất cả các Bồ tát mà làm Phật s. Nghĩa là vì các Bồ tát, khéo nói tùy hỷ hồi hướng không trái ngược. Nói những lời tùy hỷ hồi hướng như thế, lấy vô tướng làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, không sanh không diệt làm phương tiện, không nhiễm không tịnh làm phương tiện, không tánh tự tánh làm phương tiện, tự tướng không làm phương tiện, tự tánh không làm phương tiện, pháp giới làm phương tiện, chơn như làm phương tiện, pháp tánh làm phương tiện, tánh chẳng hư vọng làm phương tiện, thật tế làm phương tiện, bất tư nghì giới làm phương tiện. (Q. 433, ĐBN)

Này Thiện Hiện! Giả sử tất cả hữu tình Tam thiên đại thiên thế giới đều thành tựu mười thiện nghiệp đạo, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông, ý ông nghĩ sao? Công đức của các hữu tình này nhiều chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch đức Thiện Thệ! Rất nhiều!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu thiện nam, thiện nữ nào đối với công đức căn lành của các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và của các đệ tử…, khởi tâm tùy hỷ hồi hướng mà không nhiễm đắm thì công đức có được rất nhiều hơn trước, chẳng thể kể lường. Các thiện nam, thiện nữ này khởi tùy hỷ hồi hướng như thế so với các căn lành khác là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Giả sử tất cả hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới đều được quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề; nếu có thiện nam, thiện nữ nào đối với các vị Dự lưu cho đến các vị Độc giác Bồ đề ấy, trọn đời đem vô lượng y phục, các thức ăn uống, đồ nằm, thuốc men và những vật cần dùng khác mà dâng thí, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, thì ý ông nghĩ sao? Các thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên đây được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch đức Thiện Thệ! Rất nhiều!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu thiện nam, thiện nữ nào đối với công đức căn lành của các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và của các đệ tử…, khởi tâm tùy hỷ hồi hướng mà không nhiễm đắm thì công đức có được rất nhiều hơn trước. Các thiện nam, thiện nữ này khởi tùy hỷ hồi hướng như thế so với các căn lành khác là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Giả sử tất cả hữu tình Tam thiên đại thiên thế giới đều hướng tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nếu có tất cả hữu tình mười phương thế giới như cát sông Hằng…, mỗi mỗi đều ở chỗ của các Đại Bồ tát phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề ấy, đem vô lượng y phục, thức ăn thức uống, đồ nằm, thuốc men và các vật cần dùng thượng diệu khác, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen như thế trải qua đại kiếp như số cát sông Hằng, thì ý ông nghĩ sao? Các hữu tình này do nhân duyên đây được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch đức Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước tụ như thế vô số, vô lượng vô biên vô hạn, tính đếm, thí dụ khó đo lường được. Bạch Thế Tôn! Nếu phước ấy có hình sắc thì mười phương thế giới như cát sông Hằng chẳng dung nạp hết được.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Hay thay! Lượng phước đức kia đúng như ngươi đã nói. Này Thiện Hiện! Nếu thiện nam, thiện nữ nào đối với công đức căn lành của các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và của các đệ tử…, khởi tâm tùy hỷ hồi hướng mà không nhiễm đắm thì phước tụ được nhiều hơn trước. Các thiện nam, thiện nữ này khởi tâm tùy hỷ hồi hướng như thế, so với các căn lành khác là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng. Nếu đem phước trước so với phước này thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, cho đến cực số phần cũng chẳng bằng một. Vì sao? Vì các hữu tình tu mười thiện nghiệp đạo, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông kia đều lấy tưởng có tướng, có sở đắc làm phương tiện. Các thiện nam, thiện nữ kia đem vô lượng y phục, thức ăn thức uống, đồ nằm, thuốc men và những vật cần dùng khác dâng cúng cho quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán và các vị Độc giác; trọn đời cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, song chỗ được phước ấy đều lấy tưởng có tướng, có sở đắc làm phương tiện. Các hữu tình kia đem vô lượng y phục, đồ ăn thức uống, đồ nằm, thuốc men và các vật dụng cần dùng thượng diệu khác, dâng cúng cho các chúng Bồ tát hướng tới Vô thượng Bồ đề, trải qua đại kiếp như cát sông Hằng, đều cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen như thế, song chỗ được phước, đều lấy tưởng có tướng, có sở đắc làm phương tiện.

Bấy giờ, bốn Đại thiên vương cùng với hai vạn thiên tử quyến thuộc đảnh lễ chân Phật, chắp tay thưa:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát ấy mới có khả năng phát khởi tùy hỷ hồi hướng rộng lớn như thế. Nghĩa là bằng phương tiện khéo léo, các Bồ tát ấy lấy vô tướng làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, vô nhiễm trước làm phương tiện, vô tự tác làm phương tiện, đối với công đức căn lành của các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và của các đệ tử…, phát tâm chơn chánh tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Khởi tâm tùy hỷ hồi hướng như thế chẳng rơi vào hai pháp, chẳng ở trong hai pháp, không nhiễm, không đắm.

Khi ấy, trời Đế Thích cũng cùng vô lượng trăm ngàn thiên tử mang đủ các loại tràng hoa, hương xoa, hương bột, y phục, chuỗi anh lạc, cờ phướn, lọng báu, các trân châu quí hiếm thượng diệu của chư thiên, và tấu nhạc trời cúng dường Phật, đảnh lễ chân Ngài, và chấp tay thưa rằng:

- Bạch đức Thế Tôn! Các Bồ tát ấy mới có khả năng phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng rộng lớn như thế. Nghĩa là bằng phương tiện khéo léo, Bồ tát ấy lấy vô tướng làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, vô nhiễm trước làm phương tiện, vô tư tác làm phương tiện, đối với công đức căn lành của các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và của các đệ tử…, chơn chánh phát tâm tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Khởi tâm tùy hỷ hồi hướng như thế chẳng rơi vào hai pháp, chẳng ở trong hai pháp, không nhiễm, không đắm.

Khi ấy, thiên tử Tô dạ ma, thiên tử San đổ sử đa, thiên tử Thiện biến hoá, thiên tử Tối tự tại và cùng với ngàn thiên tử quyến thuộc đều mang đủ các loại tràng hoa, hương xoa, hương bột, y phục, chuỗi anh lạc, cờ phướn, lọng báu, các trân châu quí hiếm thượng diệu của chư thiên, và tấu nhạc trời cúng dường Phật, đảnh lễ chân Ngài, và chấp tay thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát ấy mới có khả năng phát tâm tùy hỷ hồi hướng rộng lớn như thế. Nghĩa là bằng phương tiện khéo léo, Bồ tát lấy vô tướng làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, vô nhiễm trước làm phương tiện, vô tư tác làm phương tiện, đối với công đức căn lành của các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và của các đệ tử…, chơn chánh phát tâm tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Khởi tâm tùy hỷ hồi hướng như thế chẳng rơi vào hai pháp, chẳng ở trong hai pháp, vô nhiễm, vô đắm.

Khi ấy, Đại Phạm thiên vương cùng với vô lượng trăm ngàn muôn ức các chúng Phạm thiên, đến trước chỗ Phật đảnh lễ chân Ngài, chắp tay cung kính, đồng xướng lên rằng:

- Đức Thế Tôn thật hiếm có! Các Bồ tát ấy được phương tiện khéo léo của Bát nhã Ba la mật nhiếp hộ, nên vượt hẳn các thiện nam, thiện nữ… tu căn lành ở trước không có phương tiện khéo léo, vì có tướng, có sở đắc.

Khi ấy, trời Cực quang tịnh cho đến trời Sắc cứu cánh cùng với vô lượng trăm ngàn ức thiên chúng của mình đến trước chỗ Phật đảnh lễ chân Ngài, chp tay cung kính, đồng xướng lên rằng:

- Đức Thế Tôn thật hiếm có! Các Bồ tát ấy được phương tiện khéo léo của Bát nhã Ba la mật nhiếp hộ, nên vượt thắng các thiện nam, thiện nữ… tu căn lành ở trước không có phương tiện khéo léo, vì có tướng, có sở đắc.

Bấy giờ, Phật bảo chúng trời Tứ đại vương cho đến trời Sắc cứu cánh… rằng:

- Giả sử tất cả hữu tình Tam thiên đại thiên thế giới đều phát tâm Vô thượng Chánh Đẳng Giác, đối với khắp tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ, vị lai, hiện tại mười phương thế giới, từ sơ phát tâm đến được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển bánh xe diệu pháp độ vô lượng chúng, vào cõi Vô dư y Bát Niết bàn, cho đến lúc pháp diệt. Trong thời gian giữa, tu tập bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật tương ưng với căn lành; hoặc trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không tương ưng với căn lành; hoặc tu bốn niệm trụ nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng tương ưng với căn lành; hoặc tu vô lượng vô biên Phật pháp tương ưng với căn lành; hoặc tu căn lành của các đệ tử; hoặc tu giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát trí kiến uẩn và vô lượng vô biên Phật pháp của các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác; hoặc nói chánh pháp của các Như Lai; hoặc nương vào pháp ấy mà tu tập ba phước nghiệp sthí tánh, giới tánh, tu tánh; hoặc nương vào pháp ấy, tinh tấn siêng năng tu học được quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, nhập vào Chánh tánh ly sanh của Bồ tát; hoặc tu căn lành dẫn phát của các hữu tình như tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát Nhã. Tập hợp hết thảy lượng căn lành như vậy, lấy có tướng làm phương tiện, có sở đắc làm phương tiện, có nhiễm đắm làm phương tiện, có tư tác làm phương tiện, có hai không hai làm phương tiện, hiện tiền tùy hỷ. Đã tùy hỷ rồi, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại có các thiện nam thiện nữ phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đối với khắp tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ, vị lai, hiện tại mười phương thế giới, từ sơ phát tâm đến khi được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển bánh xe diệu pháp, độ vô lượng chúng, vào cõi Vô dư y Bát Niết bàn, cho đến lúc pháp diệt. Trong thời gian giữa, tu tập bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật tương ưng với căn lành, cho đến tu căn lành dẫn phát của các hữu tình như bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát Nhã. Tập hợp hết thảy lượng căn lành như vậy, lấy vô tướng làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, vô nhiễm đắm làm phương tiện, vô tư tác làm phương tiện, vô nhị chẳng vô nhị làm phương tiện, hiện tiền tùy hỷ. Đã tùy hỷ rồi, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Các thiện nam, thiện nữ này tùy hỷ hồi hướng, so với căn lành khác là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng; so với hữu tình trước tùy hỷ hồi hướng thì hơn gấp trăm lần, ngàn lần, trăm ngàn lần, cho đến hơn cực số lần.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Như Phật đã nói, các thiện nam, thiện nữ này tùy hỷ hồi hướng so với căn lành khác là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng. Tại sao là cùng tùy hỷ hồi hướng như nhau, song so với căn lành khác lại là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vì các thiện nam, thiện nữ này, đối với căn lành của tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khắp mười phương thế giới, quá khứ, vị lai, hiện tại, Thanh văn, Độc giác, Bồ tát và tất cả hữu tình khác…, chẳng thủ chẳng xả, chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng có sở đắc, chẳng không sở đắc, thấu đạt tất cả pháp không sanh không diệt, không nhiễm không tịnh, không tăng không giảm, không đến không đi, không hợp không tán, không vào không ra. Lại nghĩ như vầy: Các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại kia; chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, pháp định, pháp trụ; ta đối với các thiện pháp cũng như thế, lấy vô sở đắc làm phương tiện, chơn chánh phát khởi tùy hỷ. Đã tùy hỷ rồi, đem căn lành ấy ban cho các hữu tình cùng có, bình đẳng hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì thế, Thiện Hiện! Các Bồ tát ấy tuy cùng khởi tùy hỷ hồi hướng, song Ta nói so với căn lành khác là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng. Này Thiện Hiện! Sự tùy hỷ hồi hướng như vậy thù thắng hơn sự tùy hỷ hồi hướng khác trăm lần, ngàn lần cho đến hơn cực số lần. Do đó, Ta nói sự tùy hỷ hồi hướng như thế so với căn lành khác là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Thiện nam, thiện nữ nào trụ Bồ tát thừa, đối với tất cả đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mười phương thế giới quá khứ, vị lai, hiện tại, từ sơ phát tâm cho đến khi được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển bánh xe diệu pháp, độ vô lượng chúng, vào cõi Vô dư y Bát Niết bàn, cho đến lúc pháp diệt. Trong thời gian giữa ấy, tu tập bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật tương ưng với căn lành, cho đến tu vô lượng vô biên Phật pháp khác; hoặc tu công đức căn lành của các Thanh văn, Độc giác, Bồ tát; hoặc tu ba phước nghiệp sự: Thí tánh, giới tánh, tu tánh của hữu tình khác và tu căn lành khác. Tập hợp tất cả lượng căn lành như vậy, muốn hiện tiền phát tâm tùy hỷ hồi hướng không trái ngược thì nên nghĩ như vầy: Sắc cho đến thức cùng với giải thoát bình đẳng như nhau. Nhãn xứ cho đến ý xứ cùng với giải thoát bình đẳng như nhau. Sắc xứ cho đến pháp xứ cùng với giải thoát bình đẳng như nhau. Nhãn giới cho đến ý giới cùng với giải thoát bình đẳng như nhau. Sắc giới cho đến pháp giới cùng với giải thoát bình đẳng như nhau. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới cùng với giải thoát bình đẳng như nhau. Nhãn xúc cho đến ý xúc cùng với giải thoát bình đẳng như nhau. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cùng với giải thoát bình đẳng như nhau. Bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật cùng với giải thoát bình đẳng như nhau. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không cùng với giải thoát bình đẳng như nhau. Bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo cùng với giải thoát bình đẳng như nhau. Như vậy, cho đến Như Lai mười lực, mười tám pháp Phật bất cộng cùng với giải thoát bình đẳng như nhau. Giới uẩn cho đến giải thoát trí kiến uẩn cùng với giải thoát bình đẳng như nhau. Đối với tất cả pháp, khởi lên thắng giải cùng với giải thoát bình đẳng như nhau. Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại cùng với giải thoát bình đẳng như nhau. Các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại cùng với giải thoát bình đẳng như nhau. Tất cả tùy hỷ cùng với giải thoát bình đẳng như nhau. Tất cả hồi hướng cùng với giải thoát bình đẳng như nhau. Niết bàn mà chư Phật Thế Tôn và các đệ tử đạt được cùng với giải thoát bình đẳng như nhau. Chư Phật Thế Tôn, Thanh văn, Độc giác, các pháp, pháp tánh cùng với giải thoát bình đẳng như nhau. Tất cả hữu tình, tất cả pháp và pháp tánh kia cùng với giải thoát bình đẳng như nhau.

Pháp tánh không buộc không mở, không nhiễm không tịnh, không khởi không tận, không sanh không diệt, không lấy không bỏ; ta đối với công đức căn lành như thế, hiện tiền tùy hỷ, đem căn lành đây cho các hữu tình, bình đẳng hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Tùy hỷ như thế, chẳng có năng tùy hỷ, cũng không có sở tùy hỷ. Hồi hướng như thế, chẳng có năng hồi hướng, cũng không có sở hồi hướng. Sự phát khởi tùy hỷ hồi hướng như thế, chẳng phải chuyển, chẳng phải diệt, vì không sanh diệt vậy.

Này Thiện Hiện! Sự tùy hỷ hồi hướng của Bồ tát này so với sự phát khởi tùy hỷ hồi hướng khác là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng.

Này Thiện Hiện! Nếu Bồ tát thành tựu sự tùy hỷ hồi hướng như vậy thì mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các thiện nam, thiện nữ… hướng tới Đại thừa, giả sử đối với tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và chúng đệ tử khắp mười phương thế giới hiện tại như cát sông Hằng, lấy hữu tướng làm phương tiện, hữu sở đắc làm phương tiện, trọn đời thường dùng các thứ y phục, thức ăn thức uống, thuốc men, giường nằm, và các vật dụng cần dùng thượng diệu khác, mà cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Sau khi các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng đệ tử ấy vào Niết bàn, người ấy thâu Xá lợi, xây các bảo tháp cao rộng trang nghiêm bằng bảy báu thượng diệu, ngày đêm tinh tấn siêng năng kính lễ, nhiễu tháp; lại đem nhiều phẩm vật thượng diệu như: tràng hoa, hương xoa, hương bột, y phục, chuỗi anh lạc, cờ phướn, lọng báu, các trân châu vi diệu v.v… cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen; lại lấy hữu tướng và hữu sở đắc làm phương tiện, tinh tấn siêng năng tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát Nhã và các căn lành khác.

Lại có các thiện nam, thiện nữ phát tâm hướng tới Đại thừa, lấy vô tướng và vô sở đắc làm phương tiện, tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật tương ưng với căn lành; phương tiện khéo léo, đối với tất cả công đức căn lành khác, phát khởi tùy hỷ chân chánh, đem căn lành ấy ban cho các hữu tình, bình đẳng hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Các thiện nam, thiện nữ này do nương vào phương tiện khéo léo của Bát nhã Ba la mật, tùy hỷ hồi hướng nên thù thắng hơn công đức sở tạo của các thiện nam, thiện nữ phát tâm hướng tới Đại thừa đã nói trước đây là trăm lần, ngàn lần cho đến cực số lần. Cho nên nói tùy hỷ hồi hướng như thế, so với căn lành khác là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng.

Vậy nên, Thiện Hiện! Các Bồ tát phát tâm hướng tới Đại thừa, nên lấy vô tướng và vô sở đắc làm phương tiện, tinh cần tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật tương ưng với căn lành và nương vào phương tiện khéo léo của Bát nhã Ba la mật, phát tâm tùy hỷ chân chánh đối với công đức căn lành của các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và của các đệ tử. Đã tùy hỷ rồi, đem căn lành này ban cho các hữu tình bình đẳng cùng có, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Này Thiện Hiện! Nếu Bồ tát lấy vô tướng và vô sở đắc làm phương tiện, phát khởi tùy hỷ hồi hướng như thế, thì Bồ tát này mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển bánh xe diệu pháp làm lợi lạc cho tất cả hữu tình.

 

Thích nghĩa:

(1). Tùy hỷ: Vui theo điều thiện. Vui theo cái vui của người (thấy người làm việc thiện, lòng mình hoan hỷ vui sướng theo)—To rejoyce in all good—To rejoice in the welfare of others, or to do that which one enjoys, or to follow one's inclination (Từ điển Phật học Việt Anh - Đồng Loại).

(2). Hồi hướng: (回向) I. Hồi Hướng. Phạm: Parìịàma. Cũng gọi Chuyển hướng, Thí hướng. Đem công đức thiện căn do chính mình tu được chuyển lại cho chúng sinh để cùng được lợi ích như mình, gọi là hồi hướng. Trong các Kinh luận có nhiều thuyết nói về hồi hướng. 1. Theo thuyết Tính không của hệ tư tưởng Bát Nhã, nếu hồi hướng mà không thấy có người hồi hướng, có pháp để hồi hướng, có nơi chốn để hồi hướng, thì mới được gọi là Hồi hướng chân thực. Phẩm Hồi hướng trong Kinh Tiểu phẩm Bát Nhã do Ngài Cưu ma la thập dịch (Đại 8, 548 trung), nói: Không có một pháp nào có thể gọi là pháp hồi hướng, mới được gọi là chính hồi hướng A nậu đa la tam miệu tam bồ đề (…) Vì chư Phật dạy hồi hướng không được chấp tướng, (...), nếu hồi hướng mà còn chấp tướng thì gọi là Tạp độc 2. Đại thừa nghĩa chương quyển 9 của Ngài Tuệ viễn chia hồi hướng làm 3 loại: a. Bồ đề hồi hướng: Đem tất cả thiện pháp mà mình tu hành để hướng cầu Bồ đề. b. Chúng sinh hồi hướng: Vì thương chúng sinh nên nguyện đem tất cả pháp lành mà mình tu được để ban cho họ. c. Thực tế hồi hướng: Đem thiện căn của mình hồi hướng để cầu pháp tính bình đẳng như thực. 3. Trong Hoa nghiêm Kinh sớ quyển 26, Ngài Trừng quán nêu ra 10 loại hồi hướng, nhưng thâu tóm lại còn 3 loại: a. Bồ đề hồi hướng: Xoay nhân hướng tới quả, xoay kém hướng hơn, xoay tỉ hướng chứng. b. Chúng sinh hồi hướng: Xoay mình hướng tới người, xoay ít hướng nhiều, xoay nhân hạnh của mình hướng tới nhân hạnh của người. c. Thực tế hồi hướng: Xoay sự hướng lý, xoay hạnh sai biệt hướng hạnh viên dung. Ngoài 8 loại hồi hướng trên đây, 2 loại còn lại là: Xoay thế (việc thế tục) hướng xuất thế (cầu Phật đạo) và Xoay thuận lý sự hạnh hướng lý sở thành sự. Hai loại Hồi hướng này thông cả quả Bồ đề hồi hướng và Thực tế hồi hướng. 4. Theo thuyết của tông Tịnh độ thì có 2 loại Hồi hướng: a. Vãng tướng hồi hướng: Đem công đức của mình ở đời quá khứ và đời hiện tại hồi hướng cho chúng sinh, nguyện cùng được sinh về Tịnh độ phương Tây. b. Hoàn tướng hồi hướng: Sau khi đã vãng sinh Tịnh độ, phát tâm đại bi trở lại cõi Sa bà, giáo hóa chúng sinh, cùng hướng về Phật đạo. 5. Trong An lạc tập quyển hạ, Ngài Đạo xước nêu ra 6 loại hồi hướng: a. Đem các công đức do mình tu được hồi hướng đức Phật A di đà cầu sinh về Tịnh độ, để sau khi được 6 thần thông, trở lại thế gian cứu độ chúng sinh. b. Hồi nhân hướng quả. c. Hồi hạ hướng thượng. d. Hồi chậm hướng nhanh. e. Hồi hướng cho chúng sinh bi niệm hướng thiện. g. Hồi hướng dứt hết tâm phân biệt. [X. Kinh Vô lượng thọ Q.hạ; Vãng sinh luận chú Q.hạ; Hoa nghiêm Kinh thám huyền ký Q.8]. II. Hồi Hướng. Cũng gọi Thập hồi hướng vị. Mười giai vị tu hành của Bồ tát. (xt. Bồ Tát Giai Vị)- Phật Quang tự điển.

Cụm từ “Tùy h hồi hướng”: Nói nôm na là thấy người khác làm việc thiện, làm việc có công đức, đem công đức ấy chia sẻ cho tất cả chúng sanh khác rồi hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu mình không đủ sức, không đủ phương tiện để làm như vậy, nhưng lại rất vui mừng hoan hỷ tán thán công đức của những người đã làm được như vậy, thì tùy hỷ cũng ngang đồng với công đức của người bố thí!

(3). Phan duyên: Nương theo, vịn theo các duyên. Ví như nhân một chuyện này mà nghĩ đến các chuyện khác, lại đến các chuyện khác nữa, như cây leo bò vịn vào rào dậu leo mãi không ngừng, gọi là phan duyên. Tâm ý nương theo sáu trần làm duyên, nảy sanh những ý tưởng suy xét, mưu tính mãi mãi không dừng, gọi là phan duyên.

(4). Tâm“diệt tận ly biến”: Bản gốc bằng chữ Hán đăng trong hoavouu.com ghi bằng chữ Hán có phụ âm là tâm tận diệt ly biến”. Nếu dùng lối chiết tự để giải thích riêng rẽ bốn từ này: Tận() là hết, không còn gì; Diệt() là tan mất; Ly() là chia ly; Biến(): là biến mất.

- Phẩm “Tùy Hỷ Hồi Hướng”, quyển 432, Hội thứ II, ĐBN dịch “tâm tận diệt ly biến” là “diệt tận ly biến”, dịch như không dịch.

- Phẩm “Tùy H Hồi Hướng” Hội thứ III, ĐBN dịch là “tâm hết diệt lìa biến”. Dịch như vậy xác nghĩa nhưng rất khó hiểu, nhưng rất phù hợp với Kinh văn.

- Phẩm 6: “Tùy Hỷ Hồi Hướng”, Kinh “Phật Mẫu Bát Nhã”, do Ngài Thí Hộ dịch từ Tạng sang Hán và Thầy Thích Từ Chiếu dịch từ Hán sang Việt, dịch tận diệt ly biến là tận, diệt, ly trong câu Kinh như sau: “Lại nữa, nếu các Bồ tát Ma ha tát lấy tâm có sở đắc mà hồi hướng, thì tâm này chính là tận, chính là diệt, chính là ly. Tâm tận, diệt đó không thể hồi hướng”.

Tâm “tận diệt lìa biến” tức tâm còn sở đắc là “hết thuốc chữa” nên không thể hồi hướng. Tâm hồi hướng phải là tâm không còn năng sở, nắm bắt, không còn phân biệt chấp đắm thì mới có thể gọi là chân hồi hướng.

 

Lược giải:

 

Tùy hỷ công đức là siêng tu cội phước, tích tụ căn lành, thực thi các hạnh nguyện làm những việc khó làm, cốt hoàn tất địa nghiệp của mình, xong đem các thiện nghiệp sự lớn nhỏ đã làm được ban cho tất mọi chúng sanh cùng hồi hướng quả vị Vô Thương Chánh Đẳng Bồ đề để mọi người đều được lợi ích như nhau. Nhưng sự tùy hỷ hồi hướng đó chỉ được xem là chân thật nếu chẳng thủ chẳng xả, chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng có sở đắc, chẳng không sở đắc, thấu đạt tất cả pháp không sanh không diệt, không nhiễm không tịnh, không tăng không giảm, không đến không đi, không hợp không tán, không vào không ra làm các phước nghiệp sự, không đếm xỉa năng sở, chủ khách. Nhưng phải nghĩ rằng tất cả tùy hỷ tùy hồi hướng cùng với giải thoát bình đẳng như nhau. Nên kinh nói:

“…thiện nữ phát tâm hướng tới Đại thừa, lấy vô tướng và vô sở đắc làm phương tiện, tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật tương ưng với căn lành; phương tiện khéo léo, đối với tất cả công đức căn lành khác, phát khởi tùy hỷ chân chánh, đem căn lành ấy ban cho các hữu tình, bình đẳng hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Các thiện nam, thiện nữ này do nương vào phương tiện khéo léo của Bát nhã Ba la mật, tùy hỷ hồi hướng nên thù thắng hơn hết… Cho nên nói tùy hỷ hồi hướng như thế, so với căn lành khác là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng”.

 

(Xem phần lược giải phẩm “Tùy Hỷ Hồi Hướng”, phần cuối quyển 168 cho đến

phần đầu quyển 172, Hội thứ I, ĐBN).

 

---o0o---