PHẨM “THIẾT LỢI LA HAY XÁ LỢI”
Phần cuối quyển 430, Hội thứ II, ĐBN.
(Tương đương với Đoạn sáu, phẩm “So Lường Công Đức”,
phần sau Q.127 đến phần đầu Q.130, Hội thứ I, ĐBN)
Tóm
lược:
- Lại nữa, này Kiều Thi Ca! Giả sử Xá lợi của Phật đầy khắp
châu Thiệm bộ đây, chọn lấy một phần; biên chép Kinh Bát nhã Ba la mật thậm
thâm lại chọn lấy một phần. Trong hai phần đây, ngươi lấy phần nào?
Trời Đế Thích thưa:
- Bạch Thế Tôn! Chắc chắn con lấy Bát nhã Ba la mật thậm
thâm. Vì sao? Vì đối với Xá lợi của chư Phật, chẳng phải con không tín thọ,
chẳng phải con chẳng vui thích cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, nhưng
Kim thân và Xá lợi của chư Phật đều do Bát nhã Ba la mật như thế sanh ra, và
đều do công đức thế lực huân tu Bát nhã Ba la mật, nên mới được tất cả thế
gian, trời, người, A tu la… đem vô lượng phẩm vật thượng diệu như tràng hoa,
cho đến các ngọc diệu trân kỳ quý lạ… cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi
khen.
Khi ấy, Xá lợi Tử bảo trời Đế Thích:
- Này Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật thậm thâm vô sắc, vô
kiến, vô đối, nhất tướng, chỗ gọi là vô tướng. Pháp vô tướng đã chẳng thể thủ
được, vậy ông làm sao mà lấy? Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm không lấy không
bỏ, không thêm không bớt, không tụ không tan, không ích không tổn, không nhiễm
không tịnh; chẳng đồng với pháp chư Phật, chẳng đồng với pháp Độc giác, chẳng
đồng với pháp A la hán, chẳng đồng với pháp học, chẳng bỏ pháp dị sanh; chẳng
đồng với vô vi giới, chẳng bỏ hữu vi giới, chẳng đồng với nội không cho đến vô
tánh tự tánh không; chẳng đồng với bốn niệm trụ, cho đến Nhất thiết tướng trí,
chẳng bỏ pháp tạp nhiễm. (Q.430, ĐBN)
Trời Đế Thích bèn nói với cụ thọ Xá lợi Tử:
- Đúng vậy! Đúng như Đại đức đã nói. Bạch Đại đức! Nếu như
thật biết Bát nhã Ba la mật thậm thâm không lấy không bỏ, cho đến chẳng đồng
với Nhất thiết tướng trí, chẳng bỏ tạp nhiễm, đó là chơn Bát nhã Ba la mật,
cũng là chơn tu Bát nhã Ba la mật. Nhưng Bát nhã Ba la mật đây chẳng theo hai
hạnh, vì không hai tướng. Tĩnh lự cho đến bố thí Ba la mật cũng như vậy, chẳng
theo hai hạnh, vì không hai tướng.
Khi ấy, đức Phật khen trời Đế Thích rằng:
- Hay thay! Đúng như ông đã nói. Bát Nhã cho đến bố thí Ba la
mật thậm thâm đều chẳng theo hai hạnh. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì sáu
pháp Ba la mật như thế đều không hai tướng. Những người có ý muốn khiến Bát Nhã
cho đến bố thí Ba la mật có hai tướng, tức là muốn pháp giới, chơn như, pháp
tánh, thật tế, bất tư nghì giới cũng có hai tướng. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì Bát
Nhã cho đến bố thí Ba la mật thậm thâm cùng với pháp giới cho đến bất tư nghì
giới không hai, không hai phần.
Trời Đế Thích lại thưa:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, thế
gian, trời, người, A tu la… đều nên chí thành lễ bái, đi nhiễu, cúng dường cung
kính, tôn trọng ngợi khen. Vì sao? Vì tất cả Bồ tát đều nương vào Bát nhã Ba la
mật đây, tinh tấn siêng năng tu học, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bạch Thế Tôn! Như khi con ngồi trên tòa Thiên Đế, trong điện
Thiện pháp của cõi trời Ba mươi ba, vì các thiên chúng mà tuyên nói Chánh pháp
thì có vô lượng các thiên tử… đi đến chỗ con cúng dường cung kính, tôn trọng
ngợi khen, đi nhiễu lễ bái, rồi chắp tay lui về. Nhưng khi con chẳng ở trên
pháp tòa kia, các thiên tử… cũng đến chỗ ấy, dù chẳng thấy con ngồi trên pháp
tòa, họ vẫn cung kính cúng dường, nói rằng: Đây là chỗ ngồi của trời Đế Thích,
vì chư thiên… thuyết pháp, chúng ta nên xem như có thiên chủ ở đây mà cúng
dường, đi nhiễu, lễ bái.
Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như vậy, nếu nơi nào có người
biên chép, thọ trì đọc tụng, rộng vì hữu tình giảng nói lưu bố thì phải biết
rằng, chỗ ấy luôn có vô lượng vô số trời, rồng, Dược xoa, kiện đạt phược, A tu
la, yết lộ trà, khẩn nại lạc, mạc hô lạc già, nhơn phi nhơn… ở cõi đây và mười
phương vô biên thế giới khác, đều đến nhóm hội. Giả sử ở chỗ ấy không có người
thuyết pháp, vì kính trọng pháp, họ cũng cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi
khen, lễ bái rồi lui. Vì sao? Vì tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và
các chúng Đại Bồ tát, Độc giác, Thanh văn, tất cả hữu tình có được sự an vui là
đều nương vào Bát nhã Ba la mật mà được. Xá lợi của Phật được cúng dường cũng
do công đức huân tu Bát nhã Ba la mật mà được vậy.
Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật cùng với Bồ tát hạnh và chỗ
chứng được Nhất thiết tướng trí làm nhân, làm duyên, làm chỗ nương dựa, hay
khéo dẫn phát. Vậy nên con nói: Giả sử Xá lợi của Phật đầy khắp châu Thiệm bộ
đây, chọn lấy một phần; biên chép Kinh Bát nhã Ba la mật Thậm thâm như thế,
chọn lấy một phần. Trong hai phần đây, nhất định con lấy Bát nhã Ba la mật.
Bạch Thế Tôn! Do vậy, Bát nhã Ba la mật có thể thọ nhận vô
lượng phẩm vật thượng diệu như tràng hoa cho đến các ngọc diệu tân kỳ quý lạ
v.v… của trời, người, A tu la đem cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen.
Bạch Thế Tôn! Nếu ai đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm đây
chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh chuyên tu học, suy nghĩ đúng lý, rộng
vì hữu tình tuyên nói lưu bố, hoặc lại biên chép, trang hoàng bằng các thứ báu,
cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen thì quyết định chẳng đọa địa ngục,
bàng sanh, ngạ quỷ, hoặc bị đài nơi biên địa quê mùa; những người đó cũng chẳng
rơi vào hàng Thanh văn và Độc giác, nhất định huớng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề, thường thấy chư Phật, luôn nghe Chánh pháp, chẳng lìa bạn lành, nghiêm tịnh
cõi Phật, thành thục hữu tình; từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cúng dường
cung kính, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn và các chúng Đại Bồ tát. (Q.430, ĐBN)
Lại nữa, Bạch Thế Tôn! Giả sử Xá lợi của Phật đầy khắp Tam
thiên đại thiên thế giới đây, chọn lấy một phần; biên chép Kinh Bát nhã Ba la
mật thậm thâm, lại chọn lấy một phần. Trong hai phần này, nhất định con lấy Bát
nhã Ba la mật thậm thâm. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì tất cả các đức Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác và Xá lợi của Phật khắp Tam thiên đại thiên thế giới đều từ
Bát nhã Ba la mật đây sanh ra. Hơn nữa, Xá lợi của Phật là do thế lực công đức
huân tu từ Bát Nhã, nên được các trời, người, A tu la… cúng dường cung kính,
tôn trọng ngợi khen. Bởi nhân duyên đây, nên các thiện nam, thiện nữ nào cúng
dường cung kính, tôn trọng ngợi khen Xá lợi của Phật thì quyết định chẳng đọa
vào ba đường ác, thường sanh cõi trời người hưởng an vui phú quí, tùy theo sở
nguyện mà nương pháp Tam thừa hướng tới Niết bàn.
Bạch Thế Tôn! Hoặc thấy đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hoặc
thấy Bát nhã Ba la mật thậm thâm đã thư tả. Hai công đức đây bình đẳng không
khác nhau. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm cùng với các đức Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác bình đẳng không hai, không hai phần.
Bạch Thế Tôn! Nếu có đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nào trụ
ba phen chỉ dẫn, vì các hữu tình tuyên nói Chánh pháp, tức là Khế Kinh cho đến
Luận nghị(1); hoặc có thiện nam, thiện nữ nào đối với Bát nhã Ba la mật đây,
thọ trì đọc tụng, rộng vì người thuyết; thì hai công đức đây bình đẳng, không
khác nhau. Vì sao? Vì nếu đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hoặc ba phen chỉ dẫn,
hoặc tuyên thuyết mười hai phần giáo thì đều phải nương vào Bát nhã Ba la mật
mà sanh ra vậy.
Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác
nhiều như cát sông Hằng khắp mười phương cõi, trụ ba phen chỉ dẫn, vì các hữu
tình tuyên nói Chánh pháp, tức là Khế Kinh cho đến Luận nghị; hoặc có thiện
nam, thiện nữ nào đối với Bát nhã Ba la mật đây, thọ trì đọc tụng, rộng vì
người thuyết, thì hai công đức đây bình đẳng không khác nhau. Vì sao? Vì nếu
tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nhiều như cát sông Hằng khắp mười
phương cõi, hoặc ba phen chỉ dẫn, hoặc tuyên thuyết mười hai phần giáo thì đều
phải nương vào Bát nhã Ba la mật mà sanh ra vậy.
Bạch Thế Tôn! Nếu có thiện nam thiện nữ đem vô lượng phẩm vật
thượng diệu như tràng hoa cho đến các ngọc diệu trân kỳ quý lạ v.v… cúng dường
cung kính, tôn trọng ngợi khen tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như
cát sông Hằng khắp mười phương thế giới; hoặc có thiện nam, thiện nữ biên chép
Kinh Bát nhã Ba la mật, cũng dùng vô lượng phẩm vật thượng diệu cúng dường cung
kính, tôn trọng ngợi khen, thì hai công đức đây bình đẳng không khác nhau. Vì
sao? Vì các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác kia đều nương vào Bát nhã Ba la mật
mà sanh ra vậy.
Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ nào đối với Bát nhã Ba
la mật đây chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh tấn siêng năng tu học, suy
nghĩ đúng lý, rộng vì hữu tình tuyên nói lưu bố thì tương lai, vị ấy chẳng bị
đọa vào địa ngục, bàng sanh, ngạ quỉ; chẳng rơi vào hàng Thanh văn, Độc giác.
Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ này quyết định sẽ trụ bậc Bất thối chuyển, xa
lìa tất cả tai họa, tật dịch, khổ não.
Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ nào đối với Bát nhã Ba
la mật đây chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh chuyên tu học, suy nghĩ
đúng lý v.v… biên chép giải nói, truyền bá cùng khắp, lại dùng vô lượng phẩm
vật thượng diệu cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen thì nhất định các vị
ấy dứt hẳn tất cả sự sợ hãi. Như kẻ mắc nợ sợ hãi chủ nợ, bèn gần gũi phụng sự
quốc vương, nương thế lực nhà vua tránh được sợ hãi. Bạch Thế Tôn! Vua dụ cho Bát
nhã Ba la mật, kẻ mắc nợ người dụ cho thiện nam, thiện nữ nương vào Bát nhã Ba
la mật thoát khỏi sợ hãi.
Bạch Thế Tôn! Ví như có người nương dựa vua, nhờ vua bảo hộ
nên họ được mọi người cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Xá lợi của
Phật cũng lại như thế, do huân tu từ Bát nhã Ba la mật nên được các trời,
người, A tu la… cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Bạch Thế Tôn! Vua dụ
cho Bát nhã Ba la mật, Xá lợi của Phật dụ cho kẻ nương vua.
Bạch Thế Tôn! Chư Phật đạt được Nhất thiết tướng trí cũng là
nhờ nương vào Bát nhã Ba la mật mà được. Vậy nên con nói, giả sử Xá lợi của
Phật đầy khắp Tam thiên đại thiên thế giới, chọn lấy một phần; biên chép Kinh Bát
nhã Ba la mật lấy làm một phần. Trong hai phần đây, con nhất định lấy Bát
nhã Ba la mật thậm thâm. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì Xá lợi của Phật cứng chắc
hơn kim cương, đủ các màu sắc và ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi vẻ
đẹp trang nghiêm nơi thân, mười lực của Phật, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải,
đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cho đến Nhất thiết
tướng trí của Như Lai đều do Bát nhã Ba la mật mà thành tựu.
Bạch Thế Tôn! Do sức oai thần của Bát nhã Ba la mật đây nên
năm pháp: Bố thí, trì giới… cũng được gọi là Ba la mật. Vì sao? Bạch Thế Tôn!
Vì nếu không có Bát nhã Ba la mật thì bố thí, trì giới… chẳng thể đạt đến chỗ
rốt ráo được.
Lại nữa, Bạch Thế Tôn! Nếu trong vương quốc, Kinh đô, thành
ấp, xóm làng nào của Tam thiên đại thiên thế giới, hoặc các thế giới khác mà có
người thọ trì đọc tụng, biên chép giải nói, cúng dường cung kính tôn trọng,
ngợi khen Bát nhã Ba la mật như thế, thì hữu tình ở chỗ đó chẳng bị các loài
nhơn phi nhơn… làm não hại, chỉ trừ ác nghiệp đã chín mùi phải chịu. Hữu tình
trong đây lần lượt tu học chánh hạnh
Tam thừa, tùy theo sở nguyện mà sớm chứng được Niết bàn của Tam thừa.
Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế làm lợi ích lớn cho
cõi Tam thiên đại thiên thế giới. Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế đủ đại
thần lực, ở chỗ nào thì chỗ đó có Phật, làm các Phật sự, nghĩa là luôn làm lợi
ích an vui cho tất cả hữu tình.
Bạch Thế Tôn! Ví như thần châu đại bảo vô giá có đủ vô lượng
oai đức thắng diệu. Thần châu này ở chỗ nào thì chỗ đó, nhơn và phi nhơn không
có não hại. Giả sử có người nam hoặc người nữ nào bị quỷ bắt giữ, thân tâm khổ
não, nếu cầm thần châu đây đưa cho họ thấy thì do oai lực của thần châu, quỷ
liền bỏ chạy. Hoặc người bị bệnh nóng, bệnh gió, bệnh đàm, hoặc nóng gió đàm
tập hợp sanh bệnh, nếu buộc thần châu nơi thân thì các bệnh như thế đều lành.
Trong đêm tối, thần châu có thể soi sáng và khi nóng, làm cho mát, khi lạnh,
làm cho ấm. Bất cứ nơi đâu có thần châu thì thời tiết nơi đó điều hòa, chẳng
lạnh chẳng nóng. Nếu nơi nào có thần châu thì rắn độc, bọ cạp… không dám ở. Giả
sử có người nam hoặc người nữ nào bị trúng độc đau khổ mê man, nếu cầm thần
châu đưa cho họ thấy thì nhờ oai lực của thần châu độc liền tiêu mất. Nếu các
hữu tình thân bị tật hủi, ghẻ dữ, đầy thủng, nhặm mắt, mù loà, bệnh mắt, bệnh
tai, bệnh mũi, bệnh lưỡi, bệnh cổ, bệnh thân, bệnh khắp tứ chi, đeo thần châu
vào thân thì các bệnh đều lành. Nếu nước trong các ao hồ, suối, giếng… bị đục
uế, hoặc sắp cạn khô, đem thần châu bỏ vào trong ấy thì nước tràn đầy, thơm
sạch tinh khiết, đủ tám công đức. Nếu dùng tấm vải đủ các loại màu: Xanh, vàng,
đỏ, trắng, hồng tía, bích lục xen tạp nhau, gói thần châu lại rồi cho vào nước,
vải ngũ sắc kia có màu sắc như thế nào thì nước cũng có màu sắc như thế.
Viên thần châu đại bảo vô giá như vậy, oai đức vô biên, khen
chẳng thể hết. Nếu đựng trong rương thì rương kia cũng thành tựu đầy đủ vô biên
oai đức. Dù cho rương này hiện tại trống không, nhưng do trước đây từng đựng
thần châu, nên nó vẫn được nhiều người mến trọng.
Bấy giờ, Khánh Hỷ hỏi trời Đế Thích rằng:
- Thần châu như thế chỉ độc nhất chư thiên mới có hay loài
người cũng có?
Trời Đế Thích thưa:
- Bạch Đại đức! Trong cõi người và trên trời đều có châu này.
Nhưng ở trong cõi người thì châu này hình nhỏ mà nặng, còn ở trên trời thì châu
này lớn mà nhẹ. Thần châu này ở trong cõi người, tướng của nó chẳng đầy đủ,
nhưng ở trên cõi trời thì tướng của châu này tròn trịa. Thần châu trên cõi trời
oai đức thù thắng vô lượng bội phần hơn ở cõi người.
Khi ấy, trời Đế Thích lại thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật thậm thâm cũng lại như vậy,
làm gốc các đức, năng diệt vô lượng pháp ác bất thiện; ở bất cứ nơi đâu, nó
cũng khiến cho thân tâm khổ não của các hữu tình đều được trừ diệt; nhơn phi
nhơn… chẳng làm hại được.
Bạch Thế Tôn! Cái gọi là thần châu đại bảo vô giá, chẳng
những chỉ dụ cho Bát nhã Ba la mật thậm thâm, mà còn dụ cho Nhất thiết tướng
trí của Như Lai, cũng dụ cho tĩnh lự cho đến bố thí Ba la mật, cũng dụ cho nội
không cho đến vô tánh tự tánh không, cũng dụ cho bốn niệm trụ cho đến mười tám
pháp Phật bất cộng, cũng dụ cho pháp giới, pháp tánh, pháp trụ, pháp định, chơn
như, thật tế, bất tư nghì giới. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì công đức như thế đều
do đại oai thần lực của Bát nhã Ba la mật dẫn phát hiển bày. Công đức này sâu
rộng vô lượng vô biên. Xá lợi của Phật do các công đức đã huân tu, nên sau khi
Phật Niết bàn mới có thể kham nhận tất cả thế gian, trời, người, A tu la… cúng
dường cung kính, tôn trọng ngợi khen.
Lại nữa, Bạch Thế Tôn! Xá lợi của Phật là cực viên mãn tối
thắng thanh tịnh; do nương vào Bát nhã Ba la mật cho đến bố thí Ba la mật, nội
không cho đến vô tánh tự tánh không, bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật
bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, đại từ, đại bi,
đại hỷ, đại xả, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, dứt hẳn tập khí phiền
não nối nhau và nương vào vô lượng vô biên Phật pháp khác, nên sau khi Phật
Niết bàn mới có thể kham nhận tất cả thế gian, trời, người, A tu la… cúng dường
cung kính, tôn trọng ngợi khen.
Bạch Thế Tôn! Xá lợi của Phật là công đức trân bảo cực viên
mãn tối thắng thanh tịnh, do nương vào Bát nhã Ba la mật nên có thể kham nhận
tất cả thế gian, trời, người, A tu la… cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi
khen. Xá lợi của Phật là cực viên mãn tối thắng thanh tịnh, không nhiễm không
tịnh, không sanh không diệt, không vào không ra, không thêm không bớt, không
đến không đi, không động không ngừng, không đây không kia; do nương vào Ba la
mật nên sau khi Phật Niết bàn mới có thể kham nhận tất cả thế gian, trời,
người, A tu la… cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Xá lợi của Phật là
thật tánh của các pháp cực viên mãn tối thắng thanh tịnh, do nương vào Bát nhã
Ba la mật nên sau khi Phật Niết bàn mới có thể kham nhận tất cả thế gian, trời,
người, A tu la… cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen.
Lại nữa, Bạch Thế Tôn! Ngoài việc nói Xá lợi của Phật đầy Tam
thiên đại thiên thế giới, giả sử Xá lợi của Phật đầy khắp mười phương giới
nhiều như cát sông Hằng, chọn lấy một phần; biên chép Kinh Bát nhã Ba la mật
thậm thâm như thế, chọn lấy một phần. Trong hai phần đây, con nhất định chọn
lấy Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì Xá lợi của tất cả các đức
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều do Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế sanh ra,
đều do Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế huân tu, đều do Bát nhã Ba la mật
thậm thâm như thế làm chỗ nương tựa nên có thể kham nhận tất cả trời, rồng,
dược xoa, kiện đạt phược, A tu la, yết lộ trà, khẩn nại lạc, Mạc hô lạc già,
nhơn phi nhơn… cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen.
Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ nào cúng dường cung
kính, tôn trọng ngợi khen Xá lợi của Phật thì vị đó sẽ hưởng được các sự giàu
sang, an vui không cùng tận trong các cõi trời, người. Trong cõi người, đó là
đại tộc Sát đế lợi, đại tộc Bà la môn, Trưởng giả, Cư sĩ. Trên cõi trời, đó là
chúng trời Tứ đại vương cho đến trời Tha hóa tự tại. Tức do căn lành thù thắng
như thế nên đến thân cuối cùng dứt sạch các khổ.
Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ nào đối với Bát nhã Ba
la mật đây, chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, biên chép giải nói, suy nghĩ
đúng lý thì do Bát nhã Ba la mật đây mà mau được viên mãn. Do được viên mãn Bát
nhã Ba la mật như vậy, nên khiến cho tĩnh lự cho đến bố thí Ba la mật, bốn niệm
trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng được viên mãn. Do đây, nên giỏi
khéo vượt bậc Thanh văn và Độc giác, chứng nhập chánh tánh ly sanh của Bồ tát,
được thần thông thù thắng của Bồ tát. Hóa thần thông dạo các cõi Phật; từ cõi
Phật này đến cõi Phật khác, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen chư Phật
Thế Tôn, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, phát tư nguyện thù thắng,
thọ các loại thân, vì muốn làm lợi ích cho các loại hữu tình nên làm Chuyển
luân vương, hoặc làm các Tiểu vương, hoặc làm Sát đế lợi, hoặc làm Bà la môn,
hoặc làm Tỳ sa môn, hoặc làm Đế Thích, hoặc làm Phạm vương, hoặc làm các loài
khác lợi ích an vui cho vô lượng hữu tình.
Do vậy, bạch Thế Tôn! Đối với Xá lợi của chư Phật, con chẳng
phải không tín thọ, chẳng phải không vui mừng, cúng dường cung kính, tôn trọng
ngợi khen. Nhưng đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, con cúng dường
cung kính, tôn trọng ngợi khen, thì được công đức rất nhiều hơn kia. Do nhân
duyên đây, con quyết định chọn lấy Bát nhã Ba la mật thậm thâm.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ… cúng dường cung kính,
tôn trọng ngợi khen Bát nhã Ba la mật như thế thì làm tăng trưởng tất cả Phật
pháp, cũng là thu nhận sự giàu có, an vui tự tại của thế gian và xuất thế gian.
Như vậy là đã cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen Xá lợi của Phật.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu có ai muốn được thường thấy Sắc
thân, Pháp thân của tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khắp mười phương
ở vô lượng, vô số vô biên thế giới, nên đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm như
thế chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh tấn siêng năng tu học, suy nghĩ
đúng lý, biên chép giải nói, truyền bá cùng khắp thì vị ấy sẽ thấy được hai
thân (sắc thân và pháp thân) của tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác khắp mười phương vô lượng, vô số vô biên thế giới; rồi dần dần tu Bát nhã
Ba la mật khiến cho mau viên mãn. Khi ấy, nên dùng pháp tánh để tu quán Phật
tùy niệm.
Bạch Thế Tôn! Pháp tánh có hai: một là hữu vi, hai là vô vi.
Trong đây, cái gì gọi pháp tánh hữu vi? Đó là trí nội
không cho đến trí vô tánh tự tánh không, trí bốn niệm trụ cho đến trí tám chi
Thánh đạo, trí ba môn giải thoát, trí mười lực Phật cho đến trí mười tám pháp
Phật bất cộng, trí pháp thiện phi thiện, trí pháp hữu ký vô ký, trí pháp hữu
lậu vô lậu, trí pháp hữu vi vô vi, trí pháp thế gian xuất thế gian, trí pháp
tạp nhiễm thanh tịnh. Các trí môn nhiều vô lượng như thế đều được gọi là pháp
tánh hữu vi.
Trong đây, pháp tánh vô vi là gì? Đó là tất cả pháp
không sanh, không diệt, không trụ, không dị, không nhiễm, không tịnh, không
tăng, không giảm, không tướng, không tạo tác, không tánh tự tánh. Vì sao gọi là
không tánh tự tánh? Nghĩa là tất cả pháp lấy vô tánh làm tự tánh. Như vậy nói
tên vô vi pháp tánh.
Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:
- Này Kiều Thi Ca! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói. Chư Phật
quá khứ, vị lai, hiện tại đều nương vào Bát nhã Ba la mật mà đã chứng, sẽ
chứng, hiện chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đệ tử Thanh văn của chư Phật quá
khứ, vị lai, hiện tại đều nương vào Bát nhã Ba la mật thậm thâm mà đã được, sẽ
được, hiện được quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Các vị Độc giác quá
khứ, vị lai, hiện tại đều nương vào Bát nhã Ba la mật mà đã chứng, sẽ chứng,
hiện chứng quả Độc giác Bồ đề. Vì sao? Vì trong tạng bí mật của Bát nhã Ba la
mật như thế đã rộng nói pháp tương ưng với Tam thừa. Song những điều đã
nói ở đây đều lấy vô sở đắc làm phương tiện, không tánh không tướng làm phương
tiện, không sanh không diệt làm phương tiện, không nhiễm không tịnh làm phương
tiện, không tạo không tác làm phương tiện, không nhập không xuất làm phương
tiện, không tăng không giảm làm phương tiện, không thủ không xả làm phương
tiện. Những điều đã nói như thế đều là do thế tục mà nói, chẳng phải thắng
nghĩa. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật như thế, chẳng phải bờ đây, chẳng phải bờ
kia; chẳng phải ở hai bên, chẳng phải giữa dòng; chẳng cao, chẳng thấp; chẳng
bình đẳng, chẳng phải chẳng bình đẳng; chẳng phải có tướng, chẳng phải không
tướng; chẳng phải thế gian, chẳng phải xuất thế gian; chẳng phải hữu lậu, chẳng
phải vô lậu; chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi; chẳng phải thiện, chẳng phải
ác; chẳng phải hữu ký, chẳng phải vô ký; chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai,
chẳng phải hiện tại.
Này Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng đồng với
pháp Phật, chẳng đồng với pháp Bồ tát, chẳng đồng với pháp Độc giác, chẳng đồng
với pháp Thanh văn, cũng chẳng bỏ pháp dị sanh. (Q.430, ĐBN)
Trời Đế Thích lại thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế là Đại Ba la mật,
là Vô thượng Ba la mật, là Vô đẳng đẳng Ba la mật. Khi các Bồ tát tu hành Bát
nhã Ba la mật như thế, tuy biết tâm hành cảnh giới của tất cả hữu tình sai
khác, nhưng chẳng thủ đắc ngã; chẳng thủ đắc hữu tình cho đến chẳng thủ đắc tri
giả, kiến giả; chẳng thủ đắc sắc cho đến thức; chẳng thủ đắc nhãn cho đến ý;
chẳng thủ đắc sắc cho đến pháp; chẳng thủ đắc nhãn thức cho đến ý thức; chẳng
thủ đắc nhãn xúc cho đến ý xúc; chẳng thủ đắc nhãn xúc làm duyên sanh ra các
thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng thủ đắc bố thí Ba la mật cho
đến Bát nhã Ba la mật; chẳng thủ đắc nội không cho đến vô tánh tự tánh không;
chẳng thủ đắc bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng thủ đắc
Bồ đề; chẳng thủ đắc Niết bàn; chẳng thủ đắc chư Phật và pháp chư Phật. Vì sao?
Vì đối với tất cả pháp, chẳng phải Bát nhã Ba la mật đây nương sở đắc mà xuất
hiện. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm đều không có tự tánh, cũng không
có sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt. Năng đắc, sở đắc và hai chỗ nương tánh tướng
đều là không, không thể thủ đắc.
Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:
- Đúng vậy! Đúng như ông đã nói. Này Kiều thi ca! Các Đại Bồ
tát đã nhiều kiếp tu học Bát nhã Ba la mật thậm thâm, còn chẳng đắc Bồ đề,
huống là đắc pháp Bồ tát.
Trời Đế Thích thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ tát chỉ hành Bát nhã Ba la mật hay
cũng hành năm pháp Ba la mật kia?
Phật đáp:
- Này Kiều Thi Ca! Các Đại Bồ tát lấy vô sở đắc làm phương
tiện tu đủ sáu pháp Ba la mật. Nghĩa là các Đại Bồ tát khi tu hành bố thí Ba la
mật, chẳng thủ đắc bố thí Ba la mật, chẳng thủ đắc người thí và kẻ thọ thí. Khi
tu hành tịnh giới Ba la mật, chẳng thủ đắc tịnh giới Ba la mật, chẳng thủ đắc
người trì giới và kẻ phạm giới. Cho đến khi tu hành Bát nhã Ba la mật, chẳng
thủ đắc Bát nhã Ba la mật, chẳng thủ đắc người đầy đủ diệu tuệ và kẻ đầy ác
tuệ.
Lại nữa, này Kiều Thi Ca! Nếu lấy Bát nhã Ba la mật mà làm
tôn dẫn, thì các Đại Bồ tát tu hành tất cả Ba la mật mau được viên mãn. Khi Đại
Bồ tát này hành bố thí lấy Bát nhã Ba la mật làm tôn đạo, tu tập bố thí không
chấp trước thì mau được viên mãn. Cho đến khi hành Bát Nhã lấy Bát nhã Ba
la mật làm tôn dẫn, tu tập Bát Nhã không chấp trước thì mau được viên mãn.
Lại nữa, này Kiều Thi Ca! Đại Bồ tát này đối với tất cả pháp,
lấy không sở đắc làm phương tiện tu hành Bát Nhã nên không chấp trước,
khiến cho sự tu hành mau được viên mãn. Nghĩa là đối với sắc, lấy vô sở đắc làm
phương tiện, cho đến đối với Nhất thiết tướng trí, lấy vô sở đắc làm phương
tiện.
Này Kiều Thi Ca! Như các cây, nhánh, cọng, thân, hoa, lá,
quả, hạt ở châu Thiệm bộ, tuy có nhiều loại hình sắc khác nhau, nhưng bóng che
của nó đều không sai khác. Cũng vậy, năm pháp Ba la mật trước tuy có khác nhau,
song do Bát nhã Ba la mật thu nhiếp, hồi hướng Nhất thiết tướng trí, lấy vô sở
đắc làm phương tiện nên các tướng sai khác đều bất khả đắc.
Khi ấy, trời Đế Thích lại thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật thành tựu công đức
thù thắng rộng lớn, thành tựu công đức thù thắng viên mãn, thành
tựu công đức thù thắng vô lượng, vô biên, vô đẳng.
Bạch Thế Tôn! Nếu có các thiện nam, thiện nữ biên chép, thọ
trì Bát nhã Ba la mật sâu xa như thế, trang nghiêm bằng các báu, đem vô
lượng phẩm vật thượng diệu cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, y theo
Kinh đây giảng nói, suy nghĩ đúng lý. Lại có các thiện nam, thiện nữ khác biên
chép Kinh Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, bố thí cho người khác thọ
trì, truyền bá cùng khắp. Bạch đức Thế Tôn! Hai nhóm phước này nhóm nào
nhiều hơn?
Phật đáp:
- Này Kiều Thi Ca! Ta lại hỏi ông, tùy ý ông đáp. Nếu có các
thiện nam, thiện nữ thỉnh được Xá lợi của Phật rồi đựng trong hộp báu
đặt trên cao; lại dùng vô lượng phẩm vật thượng diệu như tràng hoa cho đến
các ngọc diệu trân kỳ quý lạ… cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Lại có
các thiện nam, thiện nữ cũng thỉnh được Xá lợi của Phật, rồi lại chia ra
nhiều phần nhỏ như hột cải đem cho người khác kính thọ, an trí như pháp,
dùng đủ loại phẩm vật thượng diệu như tràng hoa cho đến các ngọc diệu trân kỳ
quý lạ… cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Này Kiều Thi Ca! Ý ông nghĩ
sao? Hai nhóm phước đây nhóm nào nhiều hơn?
Trời Đế Thích thưa:
- Bạch Thế Tôn! Con hiểu nghĩa Phật nói, hai nhóm phước đây,
người sau nhiều hơn. Vì sao? Vì các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quán thấy
các loài hữu tình đối với Xá lợi của chư Phật mà cúng dường cung kính thì sẽ
được độ thoát. Nên khi sắp vào Niết bàn, các Ngài dùng lực Kim cương dụ Tam ma
địa đập nát thân Kim cương vụn như hạt cải, lại dùng thần lực đại bi sâu rộng
gia trì vào Xá lợi như thế, khiến cho hữu tình đối với Như Lai sau khi vào Niết
bàn, có được một lượng bằng hạt cải, cúng dường cung kính thì được phước vô
biên, ở trong trời người hưởng nhiều sự giàu sang an lạc, cho đến cuối cùng trừ
sạch các khổ. Vậy nên kẻ chia Xá lợi cho người, phước ấy thù thắng hơn.
Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:
- Hay thay! Đúng như ông đã nói. Này Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba
la mật này cũng lại như vậy. Nếu tự thọ trì (Bát Nhã), so với bố thí (Bát
Nhã) cho người khác, truyền bá cùng khắp thì hai nhóm phước đây, người sau
nhiều hơn. Vì sao? Vì người bố thí thường khiến cho vô lượng vô biên hữu tình
được pháp hỷ.
Lại nữa, này Kiều Thi Ca! Nếu có người nào đối với nghĩa thú
của thậm thâm đây đã nói, như thật vì người phân biệt giải nói, khiến cho họ
được hiểu chơn chánh thì vị ấy được nhóm phước thù thắng hơn công đức bố thí (pháp)
kia gấp trăm ngàn lần. Phải kính vị Pháp sư này như kính Phật, tôn trọng bậc
đại trí đồng phạm hạnh cũng như Phật. Vì sao?
Này Kiều Thi Ca! Phải biết rằng vì Bát nhã Ba la mật tức
là chư Phật, phải biết chư Phật tức là Bát nhã Ba la mật. Phải biết Bát nhã Ba
la mật chẳng khác chư Phật, phải biết chư Phật chẳng khác Bát nhã Ba la mật.
Vì sao? Vì ba đời chư Phật đều nương vào Bát nhã Ba la mật, tinh chuyên tu học,
mới chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Hoặc những người tu phạm hạnh theo
chủng tánh Thanh văn, Độc giác cũng nương vào Bát nhã Ba la mật, tinh chuyên tu
học mà được quả Thanh văn, Độc giác Bồ đề. Chúng sanh có chủng tánh Bồ tát cũng
nương vào Bát nhã Ba la mật, tinh tấn siêng năng tu học, vượt các bậc Thanh văn
và Độc giác, chứng vào chánh tánh ly sanh của Bồ tát, lần lượt tu hành Bồ tát
hạnh, được trụ bậc Bồ tát Bất thối chuyển.
Vì vậy, này Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ nào muốn
được hiện tiền cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn thì
nên biên chép Kinh Bát Nhã thậm thâm như thế, cúng dường cung kính, tôn trọng
ngợi khen.
Này Kiều Thi Ca! Khi mới thành Phật, Ta quán nghĩa này, suy
nghĩ: Ta nên nương trụ ai? Ai có thể nhận sự cúng dường cung kính của Ta? Khi
nghĩ như vậy, Ta đều chẳng thấy có các thiên, ma, Phạm và nhơn phi nhơn nào của
thế gian v.v… ngang hàng với Ta, huống nữa là hơn Ta. Ta lại suy nghĩ như vầy:
Ta đã nương pháp đây mà chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, pháp đây thậm
thâm mầu nhiệm vắng lặng, Ta phải nương lại pháp đây mà an trụ, cúng dường cung
kính. Đó chính là Bát nhã Ba la mật.
Này Kiều Thi Ca! Ta đã thành Phật, song vẫn phải nương vào Bát
nhã Ba la mật, cúng dường cung kính, huống nữa là các thiện nam, thiện nữ muốn
cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà lẽ nào chẳng nương Bát nhã Ba la mật thậm
đây, tinh tấn siêng năng tu học, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Vì
sao? Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm đây năng sanh ra Bồ tát. Từ Bồ tát đây lại
sanh ra Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nương vào các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác, Thanh văn, Độc giác mới được xuất sanh.
Do vậy, này Kiều Thi Ca! Hoặc Bồ tát thừa, hoặc Độc giác thừa,
hoặc Thanh văn thừa, hoặc các thiện nam, thiện nữ… đối với Bát nhã Ba la mật
đây đều nên chuyên cần tu học, dùng vô lượng phẩm vật thượng diệu như tràng hoa
cho đến các ngọc diệu tân kỳ quý lạ… mà cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi
khen.
Thích nghĩa:
(1). Trụ ba phen chỉ dẫn, vì các hữu tình tuyên nói Chánh
pháp, tức là Khế Kinh cho đến Luận nghị. Nguyên văn bằng chữ Hán là “住 trụ 三 tam 示 thị
導 đạo . 為 vi 諸 chư
有 hữu 情 tình 宣 tuyên 說 thuyết 正 Chánh 法 Pháp . 所 sở 謂 vị
契 Khế 經 Kinh 乃 nãi 至 chí 論 luận
議 nghị”: Ý muốn nói đến “Ba sự thị hiện, thuyết mười hai
bộ Kinh từ Tu Đa La đến Ưu Bà Đề Xá” hay còn gọi là “ba lần chuyển mười hai
hành pháp luân”, thuyết ở phẩm “So Lường Công Đức”, quyển 127, tập 06, Hội thứ
I, nguyên văn bằng chữ Hán cũng giống như trên: “若 nhược
三 tam 示 thị 導 đạo
. 若 nhược 所 sở 宣 tuyên
說 thuyết 十 thập 二 nhị 分 phần/phân 教 giáo ”. Nghĩa là: Ba sự thị hiện là ba thứ biến hóa của chư Phật hay Bồ tát dùng để
cứu độ chúng sanh. Kinh Đại Bát Nhã do Ngài Huyền Trang dịch, quyển thứ 469, phẩm “Nhiều Đức Tướng” có
nêu ba thứ chỉ dẫn gọi là “tam chủng thị đạo”: 1- Thần biến thị đạo, 2- Ký thuyết thị đạo và 3- Giáo giới
thị đạo. Tuyên nói Chánh pháp từ Khế Kinh cho đến Nghị luận tức thuyết
về 12 bộ Kinh từ Khế Kinh, Trùng tụng, Cô khởi, Thọ ký, Tự thuyết, Nhân duyên,
Thí dụ, Bổn sự, Bổn sanh, Phương quảng, Vị tằng hữu, Nghị luận.
Ý Kinh muốn nói đến “ba lần chuyển mười hai hành pháp luân”.
TB
Sơ
giải:
Đoạn kinh này thuyết quá rõ rồi, mục đích so sánh công đức
của người thọ trì Bát Nhã với người thờ cúng xá lợi Phật. Kiều Thi Ca khi được
hỏi như vậy liền bạch Phật trong hai phần: Một là lấy Bát nhã Ba la mật và hai
là lấy xá lợi Phật để thờ cúng, trong hai phần Thiên Đế Thích lấy Bát Nhã và
nói lý do: Vì nhờ Bát nhã Ba la mật mà Xá lợi Phật mới được tôn trọng, thờ
kính, cúng dường. Nên Phật bảo:
“Vì vậy, này Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ nào
muốn được hiện tiền cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn
thì nên biên chép Kinh Bát Nhã thậm thâm như thế, cúng dường cung kính, tôn
trọng ngợi khen.
Này Kiều Thi Ca! Khi mới thành Phật, Ta quán nghĩa này, suy
nghĩ: Ta nên nương trụ ai? Ai có thể nhận sự cúng dường cung kính của Ta? Khi
nghĩ như vậy, Ta đều chẳng thấy có các thiên, ma, Phạm và nhơn phi nhơn nào của
thế gian v.v… ngang hàng với Ta, huống nữa là hơn Ta. Ta lại suy nghĩ như vầy:
Ta đã nương pháp đây mà chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, pháp đây thậm
thâm mầu nhiệm vắng lặng, Ta phải nương lại pháp đây mà an trụ, cúng dường cung
kính. Đó chính là Bát nhã Ba la mật.
Này Kiều Thi Ca! Ta đã thành Phật, song vẫn phải nương vào Bát
nhã Ba la mật, cúng dường cung kính, huống nữa là các thiện nam, thiện nữ muốn
cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà lẽ nào chẳng nương Bát nhã Ba la mật thậm
đây, tinh tấn siêng năng tu học, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Vì
sao? Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm đây năng sanh ra Bồ tát. Từ Bồ tát đây lại
sanh ra Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nương vào các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác, Thanh văn, Độc giác mới được xuất sanh”.
Đoạn sáu, phẩm “So Lường Công Đức”, phần sau quyển 127 đến
phần đầu quyển 130, Hội thứ I, ĐBN đã thuyết giảng và chiết giải quá đầy đủ,
nên ở đây không cần nói thêm nữa. Xin Quý vị quay lại tụng đọc nếu muốn.
Câu cần nhớ trong phẩm này là: “Phải biết rằng vì Bát
nhã Ba la mật tức là chư Phật, phải biết chư Phật tức là Bát nhã Ba la mật.
Phải biết Bát nhã Ba la mật chẳng khác chư Phật, phải biết chư Phật chẳng khác Bát
nhã Ba la mật”.
Chẳng có ai ngang bằng Phật, nhưng Phật tức là Bát nhã Ba
la mật và Bát nhã Ba la mật tức chư Phật không khác. Nên nói Bát nhã Ba
la mật là thượng tôn chẳng có gì quá đáng. Vì vậy, Phật bảo: “Kiều Thi Ca!
Ta đã thành Phật, song vẫn phải nương vào Bát nhã Ba la mật, cúng dường cung
kính, huống nữa là các thiện nam, thiện nữ muốn cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề
mà lẽ nào chẳng nương Bát nhã Ba la mật thậm đây, tinh tấn siêng năng tu học,
cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen”.
---o0o---