PHẨM “NGUYỆN DỤ”
Phần sau quyển 341 đến phần đầu quyển 342, Hội thứ I, ĐBN.
(Phẩm nầy tương đương với phẩm “Tùy Hỷ” quyển thứ 21, MHBNBLMĐ)
Tóm
lược:
1. Tùy
hỉ công đức.
Khi ấy, trời Đế Thích nghĩ thế này: Nếu đại Bồ tát tu hành Bát
nhã Ba la mật, tu hành tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật,
còn vượt lên trên tất cả hữu tình, huống chi đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Nếu
đại Bồ tát an trụ pháp không nội, không ngoại cho đến pháp không không tánh tự
tánh, còn vượt lên trên tất cả hữu tình, huống chi đắc quả vị Giác ngộ tối cao.
Nếu đại Bồ tát an trụ chơn như, an trụ pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp
trụ, thật tế… còn vượt lên trên tất cả hữu tình, huống chi đắc quả vị Giác ngộ
tối cao. Nếu đại Bồ tát tu hành bốn tịnh lự, tu hành bốn vô lượng, bốn định vô
sắc, tu hành tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cho
đến tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại
hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, còn vượt lên trên tất cả hữu tình,
huống chi đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Nếu đại Bồ tát tu hành Nhất thiết trí,
Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, còn vượt lên trên tất cả hữu tình, huống
chi đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Nếu các hữu tình nghe nói danh tự Nhất thiết
trí trí, tâm sanh tin hiểu, còn đạt được lợi ích tốt đẹp trong cõi người và
được thọ mạng tối thắng trong thế gian, huống chi phát tâm cầu quả vị Giác ngộ
tối cao, hoặc thường nghe Kinh điển Bát nhã Ba la mật thẳm sâu như vậy. Nếu các
hữu tình thường phát tâm cầu quả vị Giác ngộ tối cao, lắng nghe Kinh điển Bát
nhã Ba la mật sâu xa, mà các hữu tình khác đều cũng ưa thích, thì công đức đạt
được trong thế gian trời, người, A tu la… chẳng thể sánh kịp.
Bấy giờ, Thế Tôn biết tâm niệm của trời Đế Thích, liền bảo:
- Này Kiều thi ca! Đúng vậy! Đúng như ông đã nghĩ.
Khi ấy, trời Đế Thích lòng rất vui mừng, liền lấy hoa hương
vi diệu cõi trời rải cúng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng đại Bồ tát.
Rải hoa xong rồi, phát lời nguyện: Nếu thiện nam, thiện nữ trụ Bồ tát thừa, cầu
hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao, thì con sẽ đem thiện căn công đức của con có
được, khiến cho sở cầu Phật pháp vô thượng của vị ấy, mau được viên mãn, khiến
cho sở cầu Nhất thiết trí trí của vị ấy mau được viên mãn, khiến cho tất cả
pháp mà vị ấy muốn nghe mau được viên mãn.
Bạch Thế Tôn! Nếu các chúng đại Bồ tát đối với quả vị Giác
ngộ tối cao tâm đã sanh ưa thích, thì con nguyện cho tâm ấy càng thêm tăng
tiến, mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao. Nguyện cho chúng đại Bồ tát ấy, thấy
đủ các nỗi khổ trong sanh tử rồi, vì muốn lợi lạc cho trời, người, A tu la v.v…
trong thế gian, phát khởi các loại đại nguyện kiên cố: Ta đã vượt qua biển lớn
sanh tử, cũng sẽ tinh cần độ những chúng sanh chưa vượt. Ta đã tự giải thoát
buộc ràng sanh tử, cũng sẽ tinh cần giải thoát cho chúng sanh chưa giải thoát.
Đối với các sợ hãi sanh tử, ta đã tự an ổn, cũng sẽ tinh cần làm cho chúng sanh
chưa an ổn, được an ổn. Ta đã tự chứng Niết bàn rốt ráo, cũng sẽ tinh cần làm
cho chúng sanh chưa chứng đều được chứng.
Bạch đức Thế Tôn! Đối với Bồ Tát mới phát tâm, thiện nam,
thiện nữ có tâm tùy hỷ công đức thì được bao nhiêu phước đức? Đối với Bồ Tát
phát tâm từ lâu, thì sự tùy hỷ được bao nhiêu phước đức? Đối với bậc Bồ tát
Nhất sanh bổ xứ, thì sự tùy hỷ này được bao nhiêu phước đức?
Phật bảo: Tâm tùy hỷ như thế thì không có gì có thể sánh
bằng, phước đức tùy hỉ cũng như vậy. Nếu phước đức ấy có hình tướng thì tam
thiên đại thiên cũng không thể dung chứa hết. Vì sao? Vì phước đức tùy hỷ của
các thiện nam thiện nữ ấy không ngằn mé, không giới biên.
“Nếu thiện nam thiện nữ nào, đối với thiện căn công đức của
các Bồ tát, phát sanh tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Bồ đề thì thiện nam thiện nữ
ấy mau chứng quả vị Giác ngộ, mau viên mãn Bồ tát đạo, mau cúng dường tất cả
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, thường gặp thiện hữu, thường nghe Kinh điển Bát
Nhã thậm thâm; thiện nam thiện nữ ấy thành tựu thiện căn công đức như thế, tùy
theo chỗ thọ sanh, thường được tất cả trời, người, A tu la v.v... trong thế
gian cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, chẳng thấy sắc xấu, chẳng nghe
tiếng ác, chẳng ngửi mùi hôi, chẳng nếm vị đắng, chẳng xúc chạm điều khó chịu,
thường chẳng suy nghĩ pháp chẳng như lý, chẳng bao giờ xa lìa chư Phật Thế Tôn,
từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, gần gũi chư Phật, trồng các thiện căn, thành
thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Vì sao? Vì thiện nam thiện nữ ấy đối với
vô lượng, vô số, vô biên thiện căn công đức của Bồ tát sơ phát tâm, Bồ tát phát
tâm từ lâu, Bồ tát Bất thối, Bồ tát Nhất sanh bổ xứ, phát sanh tùy hỷ sâu xa,
hồi hướng Vô Thượng Giác ngộ. Do nhân duyên này, thiện nam thiện nữ ấy, thiện
căn tăng trưởng, mau gần Nhất thiết trí; chóng chứng đắc quả vị Giác ngộ tối
cao. Khi được chứng đắc rồi thì độ vô lượng, vô số, vô biên các loại hữu tình
được nhập cảnh giới Niết bàn tuyệt đối. Vì vậy, các thiện nam thiện nữ đối với
thiện căn công đức của Bồ tát sơ phát tâm, Bồ tát phát tâm đã lâu, Bồ tát Bất
thối, Bồ tát Nhất sanh bổ xứ, nên sanh tùy hỷ hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao.
Khi hồi hướng, chẳng nên chấp trước tức tâm, lìa tâm; cũng chẳng nên chấp
trước tức tâm tu hành, lìa tâm tu hành. Nếu thường không có chấp trước như thế,
tùy hỷ hồi hướng thì mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao, độ các trời, người, A
tu la v.v... khiến thoát sanh tử, được vui Niết bàn. (Q.341, ĐBN)
2. Tâm
như huyễn làm sao chứng đắc Vô Thượng Giác ngộ?
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
“Rồi Tu Bồ Đề hỏi: Bạch Thế Tôn! Tâm như huyễn làm sao có thể
chứng đắc Vô thượng Giác ngộ?
“Phật nói: Tu Bồ Đề! Theo ý ông, ông thấy có tâm như huyễn
chăng?
“Tu Bồ Đề thưa: Bạch, không thấy có.
“Phật nói: Ông thấy có huyễn chăng?
“Tu Bồ Đề: Không thấy có.
“Phật: Khi ông không thấy có huyễn, không thấy có tâm như
huyễn, theo ý ông, có pháp nào ngoài huyễn tâm và huyễn tướng mà chứng đắc Vô
Thượng Giác ngộ chăng?
“Tu Bồ Đề: Thưa không. Không thấy có pháp nào như vậy. Nếu có
pháp nào ngoài tâm như huyễn, pháp ấy cũng không thể nói là hữu hay là vô. Tất
cả là tất cánh viễn ly (atantavivikta), và trong tất cánh viễn ly(1) đó không
có pháp nào có thể nói là hữu hay là vô; không có pháp nào gọi là phải tu,
không có pháp nào gọi là phải chứng. Vì lý do đó, Bát nhã Ba la mật là tất cánh
viễn ly. Vô thượng giác ngộ cũng vậy. Giữa hai tất cánh viễn ly không thể có
liên hệ nào; chúng ta không thể nói cái này như là phương tiện để chứng đắc cái
kia; cũng không phải cái kia như là cái sở đắc. Bồ tát mà chứng đắc Vô Thượng
Giác ngộ là do bởi Bát nhã Ba la mật. Nhưng Bồ tát cũng là pháp (dharma) tất
cánh viễn ly, và chúng ta không thể dựng lên một khẳng định nào cho sự chứng
đắc đó, ngay cả giác ngộ.
“Phật: Hay thay, Tu Bồ Đề. Đúng như lời ông nói. Tất cánh
viễn ly là hết thảy các pháp (dharma) - Bồ tát, Bát Nhã và Vô Thượng Giác ngộ.
Nhưng Bồ tát ở trong pháp tất cánh viễn ly đó mà như thật biết rõ Bát nhã Ba la
mật và đạt tới tri kiến rằng Bát nhã Ba la mật là tất cánh viễn ly, cho nên Bát
nhã Ba la mật tức phi Bát nhã Ba la mật. Quả thực Bồ tát do Bát nhã Ba la mật
mà chứng đắc Vô thượng giác ngộ nhưng ở trong đó không pháp nào là khả thủ, là
khả đắc; do không thủ, không đắc, nên Bồ tát tuy chứng đắc Vô Thượng Giác ngộ
mà không phải là do viễn ly chứng đắc viễn ly”.(2)
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!
Nếu pháp rốt ráo lìa, pháp này chẳng nên tu, cũng chẳng nên hoại, cũng chẳng
nên dẫn. Bát nhã Ba la mật thẳm sâu rốt ráo lìa, nên chẳng nên năng dẫn. Bạch
Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật thẳm sâu đã rốt ráo lìa, làm sao nói được đại Bồ tát
nương Bát nhã Ba la mật thẳm sâu chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Bạch
Thế Tôn! Chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng rốt ráo lìa, tại sao pháp lìa
năng chứng pháp lìa? Vậy nên Bát nhã Ba la mật lẽ chẳng nên nói chứng được Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật nói: Thiện Hiện! Hay thay! Như vậy! Như ngươi vừa nói.
Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật rốt ráo lìa. Tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn,
tịnh giới, bố thí Ba la mật-đa cũng rốt ráo lìa. Nội
ngọai không cho tới không tánh tự tánh rốt ráo lìa. Chơn như, pháp giới, pháp
tánh… tự tánh rốt ráo lìa. Nói rộng ra cho đến Nhất thiết trí trí, quả Phật Vô
Thượng Chánh Đẳng Vô thượng Bồ đề cũng rốt ráo lìa. Vì tất cả pháp cũng rốt ráo
lìa nên Bồ Tát có thể chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu tất cả pháp
rốt ráo chẳng lìa, thì chẳng phải là tất cả pháp. Vì tất cả pháp lìa, nên gọi
tên tất cả pháp.
Này Thiện Hiện! Vì vậy, đại Bồ tát chẳng phải chẳng nương
vào Bát nhã Ba la mật mà có thể chứng quả vị Giác ngộ tối cao. Tuy chẳng phải
pháp lìa chứng pháp lìa nhưng nếu chẳng nương vào Bát nhã Ba la mật thẳm sâu
thì chẳng thể chứng. Cho nên, chúng đại Bồ tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ
tối cao, phải siêng năng tu học Bát nhã Ba la mật thẳm sâu.
3. Phân
biệt và vô phân biệt:
(Phần đầu quyển 342, phẩm “Nguyện Dụ”, Hội thứ I, ĐBN)
Vì tất cả pháp đều lìa, đều không thể nắm bắt được, Bát Nhã
cũng vậy, vô sở hữu, bất khả đắc, không năng sở: Không người chứng, không pháp
để chứng, không xứ chứng, không thời chứng… tất cả đều không thể nắm bắt được.
Các Bồ tát quán biết tất cả pháp chẳng thể nắm bắt được, thì
có pháp nghĩa nào có thể làm sở chứng? Có Bát nhã Ba la mật nào có thể làm năng
chứng? Có những pháp nào để có thể thi thiết pháp chứng, người chứng, xứ chứng,
thời chứng? Đã vậy thì tại sao có thể chấp do đây mà chứng đắc quả vị Giác ngộ
tối cao? Quả vị bậc Thanh văn, Độc giác còn chẳng thể chứng, huống là chứng
được Giác ngộ tối cao của chư Phật? Đó gọi là hạnh vô sở đắc của Bồ tát.
Nếu Bồ tát có khả năng tu hành hạnh vô sở đắc như thế, thì đối với tất cả pháp
không bị ám chướng.
Nếu Bồ tát nghe lời nói ấy, tâm chẳng chìm đắm, chẳng kinh,
chẳng sợ, cũng chẳng lo buồn hối tiếc là hành Bát nhã Ba la mật. Các Bồ tát ấy,
khi tu hành như thế, chẳng thấy các tướng, chẳng thấy mình tu hành, chẳng thấy
chẳng tu hành, chẳng thấy Bát nhã Ba la mật là sở hành, chẳng thấy quả vị Giác
ngộ tối cao là sở chứng, lại cũng chẳng thấy xứ chứng, thời chứng v.v…
Nên khi hành Bát nhã Ba la mật, các Bồ Tát chẳng nghĩ rằng:
Thanh Văn, Bích Chi Phật cách xa tôi, Nhất thiết chủng trí gần tôi. Như hư
không kia chẳng nghĩ rằng có pháp cách xa nó hay gần nó, vì hư không vô phân
biệt. Cũng vậy, các Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật chẳng nghĩ rằng: Bậc Thanh
Văn, Bích Chi Phật cách tôi xa, Nhất thiết chủng trí gần tôi. Vì Bát nhã Ba
la mật là vô phân biệt.
Như người huyễn chẳng nghĩ huyễn sư cách tôi gần, khán giả
cách tôi xa. Vì người huyễn vô phân biệt. Cũng vậy, đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba
la mật chẳng nghĩ là gần là xa, vì vô phân biệt vậy.
Như bóng trong gương chẳng nghĩ hình vật sở nhơn gần mình,
thứ khác thì xa. Vì bóng không thể phân biệt. Cũng vậy, đại Bồ Tát hành Bát nhã
Ba la mật chẳng nghĩ là gần, là xa, vì vô phân biệt vậy.
Như đức Phật không thương cũng không ghét. Đại Bồ Tát hành
Bát nhã Ba la mật cũng không thương, không ghét. Vì Bát nhã Ba la mật vô phân biêt.
Như đức Phật, tất cả phân biệt, tưởng niệm đã dứt mất. Đại Bồ Tát hành Bát nhã
Ba la mật tất cả phân biệt, tưởng niệm cũng đều dứt sạch. Vì rốt ráo không vậy.
Như chư Như Lai muốn làm việc gì, hóa ra “hóa thân”(hay
hóa Phật) để làm việc đó, nhưng hóa thân đó chẳng nghĩ thế này: Ta có thể
tạo nên việc làm như thế. Vì sao? Vì các hóa thân ấy không phân biệt. Bát nhã
Ba la mật sâu xa cũng như thế, vì có việc làm nên tinh cần tu tập, đã tu tập
rồi, tuy có thể hoàn thành công việc, nhưng đối với việc làm ấy, hoàn toàn
không phân biệt. Vì sao? Vì Bát Nhã không phân biệt.
Thí như người thợ mộc hay học trò của ông ta, có thể tạo ra
các cơ quan hoặc nam hay nữ, hoặc voi ngựa v.v… Các cơ quan này tuy có thể hoàn
thành công việc nhưng đối với việc làm ấy hoàn toàn không phân biệt. Vì sao? Vì
các cơ quan không phân biệt. Bát nhã Ba la mật thẳm sâu cũng giống như thế, vì
có việc phải làm nên làm. Tuy có thể làm xong các việc, nhưng đối với việc đã
làm hoàn toàn không phân biệt. Vì sao? Vì Bát Nhã đối với tất cả pháp, không
phân biệt.
Bấy giờ, cụ thọ Xá lợi Tử hỏi Tu Bồ đề:
- Thưa Tôn giả Thiện Hiện! Có phải chỉ có Bát nhã Ba la mật
không phân biệt, hay tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí cũng không
phân biệt?
Thiện Hiện đáp:
- Thưa Tôn giả! Chẳng phải chỉ có Bát nhã Ba la mật không
phân biệt mà tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí cũng không phân
biệt.
Cụ thọ Xá lợi Tử lại hỏi Thiện Hiện:
- Thưa Tôn giả! Có phải sắc cũng không phân biệt, thọ, tưởng,
hành, thức cũng không phân biệt chăng? Có phải mười hai xứ, mười tám giới cũng
không phân biệt? Có phải tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp
bất cộng… cho đến Nhất thiết trí cũng không phân biệt? Có phải Bồ tát hạnh cũng
không phân biệt, quả vị Giác ngộ tối cao cũng không phân biệt? Kể cả cảnh giới
hữu vi, cảnh giới vô vi cũng không phân biệt chăng?
Thiện Hiện đáp:
- Thưa Tôn giả Xá lợi Tử! Tất cả pháp kể cả cảnh giới hữu vi,
cảnh giới vô vi cũng không phân biệt.
Xá lợi Tử lại hỏi:
- Này Tôn giả Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp đều không phân biệt,
thì tại sao có năm cõi sai khác là địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, người, trời?
Tại sao lại có các bậc tu hành khác nhau như Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la
hán, Độc giác, Bồ tát, Phật?
Thiện Hiện đáp:
- Thưa Tôn giả Xá lợi Tử! Bởi vì, hữu tình điên đảo, phiền
não tạo tác đủ các loại nghiệp thân, ngữ, ý; do đó chiêu cảm nghiệp quả dị thục
do dục làm căn bản, nương vào đó mà tạo ra năm thứ sai khác là địa ngục, bàng
sanh, quỷ giới, người, trời. Còn tại sao nói có các bậc tu hành lại có quả vị
sai khác như Dự lưu, Nhất lai v.v… thì thưa Tôn giả Xá lợi Tử! Vì không phân
biệt nên có tu Dự lưu và quả Dự lưu, vì không phân biệt nên có tu Nhất lai và
quả Nhất lai v.v…, vì không phân biệt nên có tu Bồ tát và Bồ tát đạo, vì không
phân biệt nên có tu Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và quả vị Giác ngộ tối cao.
Thưa Tôn giả! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ do không
phân biệt, vì dứt phân biệt nên mới khá an lập. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vị
lai cũng không phân biệt, vì dứt phân biệt nên mới khá an lập. Mười phương chư
Phật thế giới, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện tại đang thuyết cũng
không phân biệt, vì dứt phân biệt nên mới khá an lập.
Thưa Tôn giả! Do nhân duyên đây mới biết tất cả pháp đều
không phân biệt. Đem không phân biệt chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế
làm định lượng(3) vậy. Bồ Tát nên hành tướng không phân biệt Bát nhã Ba la mật
thẳm sâu như thế. Nếu hành tướng không phân biệt như thế, bèn năng chứng được
tướng không phân biệt sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. (Q. 342, ĐBN)
Thích nghĩa:
(1). Tất cánh viễn ly: Tất cánh có nghĩa là rốt ráo, viễn
ly là xa lìa. Rốt ráo CÓ KHÔNG đều xa lìa nghĩa là tuyệt đối xa lìa nhị biên
đối đãi. Có xa lìa thì không bị hệ lụy bởi nó, không bị nó chi phối, ràng buộc
bởi nó.
(2). Đoạn Kinh nầy dịch quá hay nên chúng tôi trích dẫn
lại từ Thiền luận quyển hạ của Thiền sư D.T. Suzuki (trong mục Triết học và Tôn
giáo trong Bát nhã Ba la mật-đa, tiểu mục II, nói về Vô sở đắc và Vô thủ trước,
do Tuệ Sĩ dịch). Nội dung của nó không khác với phẩm “Nguyện Dụ”, quyển 342,
Hội thứ I; phẩm “Vô phân Biệt”, quyển 456, Hội thứ II hoặc phẩm “Gốc
Chồi”, quyển 564, Hội thứ V, ĐBN do Ngài Huyền Trang dịch hay phẩm “Tùy
Hỉ” thuộc quyển thứ 21, MHBNBLMĐ do Ngài La Thập dịch.
(3). Định lượng: Số lượng đã định, không thể thay đổi như
cân lường (trọng lượng) người Anh dùng pound, người Pháp dùng kilogram. Ở đây
có thể coi là “tiêu chuẩn”.
Lược
giải:
1. Tùy
hỷ công đức:
(Xem lại phẩm “Tùy Hỷ Hồi Hướng” quyển 169, Hội thứ I, ĐBN trở đi)
Có những người hoặc mới phát tâm, những người phát tâm đã
lâu, hoặc Bồ tát Bất thối chuyển hoặc các Bồ tát Nhất sanh bổ xứ làm các việc
công đức độ sanh, chúng sanh nhờ đó mà được lợi vui. Rồi các vị ấy đem công đức
mà mình gặt hái được, ban cho tất cả chúng sanh rồi hồi hướng Vô Thượng Bồ đề.
Công đức đó không có ngần mé, không có giới biên. Còn những người khác không có
điều kiện làm được như vậy nhưng có lòng tùy hỷ, nghĩa là vui theo cái vui của những vị
đã làm các công đức đó, thì công đức của người tùy hỷ cũng ngang đồng với công đức của các vị
nói trên. Nhưng Kinh nhắc nhở rằng “khi hồi hướng, chẳng nên chấp trước
tức tâm, lìa tâm; cũng chẳng nên chấp trước tức tâm tu hành, lìa tâm tu hành.
Nếu thường không có chấp trước như thế, tùy hỷ hồi hướng thì mau chứng quả vị Giác
ngộ tối cao”. Tất cả Như lai, trời, người, A tu la… đồng tán thán và
cùng hộ niệm.
2. Tâm
như huyễn làm sao chứng đắc giác ngộ?
Khi nói huyễn hay như huyễn tức nói về cái không, cái rỗng
không, chẳng có gì cả giống như ảnh trong gương, như trăng đáy nước, như cảnh
mộng, như thành tầm hương... Nếu vạn hữu là thật có dầu chỉ bằng mảy lông, sợi
tóc thì không phải là huyễn, là như huyễn. Huyễn chỉ là huyễn, khi nó được đồng
hóa với không, tánh không. Huyễn tức là không, không tức là huyễn, không hai
không khác. Nói huyễn đây là thấy nó không thật có, nói như huyễn là so sánh nó
như trò ảo thuật, như mộng đêm qua…
Quyển 49, phẩm “Áo Giáp Đại Thừa”, Hội thứ I, ĐBN, Phật
bảo: “Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật hoặc đệ tử của y, ở trước đại chúng, nơi
ngã tư đường, biến hóa thành các loại hữu tình nghèo khổ, cô độc, tật nguyền,
bệnh hoạn; tùy theo sự nhu cầu của họ, đều biến hóa ra mà cho. Thiện Hiện! Theo
ý ông việc biến hóa như vậy là có thật chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!
Phật bảo: Thiện Hiện! Đại Bồ tát an trú bố thí Ba la mật, hoặc
biến thế giới thành như ngọc Phệ lưu ly, hoặc tự thân hóa làm Chuyển Luân vương
v.v... tùy theo nhu cầu của loài hữu tình mà cho và vì họ mà tuyên nói pháp
tương ưng sáu pháp Ba la mật cũng lại như vậy, tuy có làm nhưng không thật có.
Vì sao? Thiện Hiện! Vì các pháp, tánh không, đều như huyễn hóa”.
Quyển 522, phẩm “Thấy Bất Động”, Hội thứ III, ĐBN. Phật
bảo Thị giả của Ngài:
“A Nan phải biết: Pháp chẳng hành pháp, pháp chẳng thấy pháp,
pháp chẳng biết pháp, pháp chẳng chứng pháp. A Nan phải biết: Tất cả pháp tánh
không kẻ năng hành, không kẻ năng thấy, không kẻ năng biết, không kẻ năng
chứng, không động không tác. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không tác dụng, năng
lấy sở lấy, tánh xa lìa vậy. Vì tất cả pháp chẳng thể nghĩ bàn, năng sở nghĩ
bàn tánh xa lìa vậy. Vì tất cả pháp như việc huyễn, các duyên hòa hợp tương tự
có vậy. Vì tất cả pháp không kẻ tác thọ, vọng hiện giống như có, không bền chắc
vậy.
A Nan phải biết: Nếu đại Bồ tát năng hành như thế, năng thấy
như thế, năng biết như thế, năng chứng như thế là hành Bát nhã Ba la mật, cũng
chẳng chấp trước tướng các pháp này. A Nan phải biết: Nếu đại Bồ tát khi học
như thế là học Bát nhã Ba la mật”.
Pháp chẳng thấy pháp, pháp chẳng biết pháp, pháp chẳng
hành pháp, pháp chẳng chứng pháp. Chỉ có con người mới thấy pháp, rồi cho như
thế nọ thế kia. Nhưng không biết rằng các pháp là duyên hợp mà có, duyên tan
thì diệt, không có gì vững bền. Nói như vậy có vẻ công thức, khuôn xáo lắm phải không? Tánh
không hay như huyễn, không có nghĩa là phủ nhận thế giới hiện hữu này mà chỉ
phủ nhận cái nhìn ngây ngô hời hợt trên muôn sự muôn vật mà gây tổn hại thân
tâm.
Các pháp bản tính tự nhiên là trơ lì ra đó, nên gọi là trì
độn. Bởi vì nó như vậy là như vậy. Đừng có thêm bớt bất cứ một thứ tình cảm nào
vào cái thấy trên muôn vật, thì muôn vật sẽ tịch lặng thôi.
Thiền sư D.T. Suzuki Trong Thiền Luận III,
nói về “Bát Nhã và như Huyễn”, luận rằng:
“Dân Ấn lừng danh về tài huyễn thuật, đương nhiên các triết
gia đạo Phật muốn vẽ ra bản chất mong manh của đời sống cũng dùng các lối huyễn
thuật. Nhưng đừng hiểu lối
nói của họ qua nghĩa đen. Chúng ta phải cố đạt tới ý nghĩa trung thực của nó.
Như đã nhắc nhở nhiều lần, sức mạnh luận chứng mà Kinh Bát Nhã chọn nhằm đối
trị mê lầm căn để trong cái nhìn của chúng ta thường ném vào thế giới thông tục
cái nhìn duy thực ngây ngô. Khuôn mặt thực của thứ duy thực đó là coi
thế giới như một thực tại thường trụ vĩnh viễn và nằm trơ ra đó ngược với những
gì được nhận như là thế giới nội tại của tư tưởng, tình cảm và cảm giác, một
thế giới được điều động bởi ngã linh hồn cô lập với những cái khác và tranh
sống với chúng. Một trong những khí giới tuyệt hảo để hủy diệt sức mạnh của óc
duy thực ngây thơ là tuyên bố rằng tất cả như Huyễn, và rằng không có trật tự
vĩnh viễn cố định trong thế gian, rằng khái niệm phân đôi về hiện hữu nội tại
và ngoại tại, hữu thể và vô thể v.v... là ảo tưởng, và rằng muốn đạt tới căn cơ
chân thực của hiện hữu thì phải thức tỉnh Trí Bát Nhã nắm được cái bất khả đắc.
Bởi vì chỉ bằng vào Trí Bát Nhã mới có thể điều chỉnh tất cả mọi thứ chấp thủ,
dù tri thức hay tình cảm; và cũng nhờ đó mới có thể nhận chân như tính của hiện
hữu và hành động theo đó. Kinh Bát nhã Ba la mật luôn luôn nhắm tới công dụng
này cho nên triết lý của nó bất chấp tưởng tượng bốc cao, bất chấp bí nhiệm như
sương mù.
Đạo Phật mà có ý nhận một nền triết lý nào đó, chỉ vì để bứng
gốc rễ của phiền não (klesa) đã từng chôn chặt hoạt dụng thong dong vô ngại của
Trí Bát Nhã. Phiền não bao giờ cũng nghiêng lệch, và tạo ra mọi hình thái chấp
trước, rồi do phiền não và chấp trước mới tạo ra các hành vi tội lỗi qua ba ngã
đường thân, miệng và ý, rồi chúng lại dẫn tới những tội diễn ra bất tận y như
thế. Cho nên, chúng ta biết rằng những khoái lạc và đau khổ đang phải hứng chịu
đây, chẳng có bản tính thường hằng nào cả; các đối tượng của khoái lạc và đau
khổ cũng vậy, chúng giả tạm và biến thiên như huyễn. Hoàn toàn không có thực
tại bất biến. Chúng chỉ là những giả tưởng, và phải thấy chúng là giả tướng chứ
không có giá trị nào nữa. Đối với các giả tướng, chúng đang ở đó, và sự kiện đó
đừng bao giờ quên lãng. Nhưng bám vào chúng lấy làm những cùng đích, người trí
biết rõ lắm, vì con mắt Bát Nhã của họ đã mở rồi, rọi thẳng vào hang sâu của
thực tại. Theo Ngài Long Thọ (Nagarjuna), trẻ thơ thấy mặt trăng trong nước, trong
lòng nổi dậy ước muốn vớt trăng lên, rồi duỗi tay vào nước. Nhưng nào có nắm
được nó đâu, nên quá đỗi phiền muộn. Bấy giờ người khôn mới dạy cho rằng cái
thấy trong nước đó không thể nắm đuợc. Cũng vậy, không phải phủ nhận thế giới
của những giả tướng; chỉ phủ nhận tính chất khả thủ khả đắc của nó. Thế
giới sai biệt có đó, trước mặt kẻ trí cũng như người ngu; khác nhau chăng ở
chỗ, trí thấy nó mà tâm không ôm cứng lấy, còn ngu thì dời xa một chút không
nổi để vào cảnh giới của Tánh Không. Bồ tát đã nhận ra bức màn Như Huyễn như
thế; chỉ những ai đang còn trong vòng trói buộc mới cho nó là có thực.
Vì vậy, phải tựa trên hậu cứ của Tánh Không hay Chân như mà
hiểu thuyết Như Huyễn. Nếu không, Huyễn vẫn y nhiên là Huyễn, và những người
theo đạo Phật sẽ không bao giờ biết đặt chân vào đâu, mặc dù không ai dám nói
đặt chân vào cõi phân biệt. Nếu không giảng luận ra như thế, Như huyễn sẽ hoàn
toàn vô nghĩa trong giáo pháp của Bát nhã Ba la mật-đa. Câu nói: Cho đến Niết
bàn cũng như huyễn như mộng, sẽ không hơn một câu trào lộng. Như huyễn là một
chỉ điểm viên. Ai theo nó một cách thông minh sẽ thấy đằng sau màn bạc có một
thế giới của những huyền diệu không thể tả và những thực tại “bất khả đắc”.
3. Phân
biệt và vô phân biệt:
Bồ tát sở dĩ đạt đạo và được vô ngại trí, vô phân biệt
trí, vì Bồ tát thấu rõ thế gian nầy có vô vàn hình thái sai biệt, sai biệt về
cái thấy cái biết, sai biệt về nguyện vọng, sai biệt về tâm hành… Rồi Bồ tát
với tâm bình đẳng, vô phân biệt mới thực thi các chương trình cứu rỗi chúng sanh.
Bồ tát như vậy, sống trong sai biệt mà không phân biệt, mới làm được những việc khó làm, mang nhiều phúc lợi cho chúng sanh.
Đó chính là cái khó, cái sâu sắc của Bồ tát hạnh: Sống trong sai biệt mà vô
phân biệt mới thật khó!
Sống giữa thiên sai vạn biệt của cuộc đời thường mà không
có phân biệt hay có phân biệt mà không thấy sai biệt. Đó mới là khó, đó là chỗ thâm áo của của hành
giả Bát Nhã. Chỉ bằng
trí Bát Nhã, Bồ tát mới đạt được chỗ thậm diệu này.
Kết
luận:
Ta có thể lấy đoạn Kinh trong phần “Na Già Thật Lợi” quyển
576, Hội thứ VIII, ĐBN làm kết luận cho phẩm này:
Bồ tát Na Già Thất Lợi (còn gọi là Long Cát Tường) nói với
Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi là muốn chứng Vô Thượng Bồ đề, Mạn Thù Thất Lợi bảo:
“Pháp Vô thượng Bồ đề chẳng thể chứng. Ngài muốn chứng pháp
ấy tức là hành hý luận. Vì sao? Vì Vô thượng Bồ đề lìa tướng, tịch diệt. Vậy
Ngài muốn trở thành người nắm giữ lấy hý luận hay sao? Ví như có người nói như
vầy: “Tôi khiến huyễn sĩ ngồi tòa Bồ đề, chứng huyễn Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.
Lời nói như thế quá ư hý luận. Vì các huyễn sĩ còn bất khả đắc, huống nữa là
khiến cho chứng được huyễn đại Bồ đề!
Huyễn đối với pháp huyễn chẳng hợp chẳng tan, chẳng lấy
chẳng bỏ, tự tánh đều Không. Chư Phật Thế Tôn nói tất cả pháp chẳng thể phân
biệt, đều như huyễn mộng. Nay Ngài muốn chứng Vô thượng Bồ đề, há chẳng phải
thành người phân biệt huyễn pháp! Nhưng tất cả pháp đều chẳng thể lấy, cũng
chẳng thể bỏ, không thành không hoại, chẳng phải pháp đối với pháp có tạo tác
và có diệt hoại. Không có pháp nào đối với pháp nào mà có hòa hiệp, có chia
lìa. Vì sao? Vì tất cả pháp chẳng hợp chẳng tan, tự tánh đều không, lìa ngã,
ngã sở, đồng cõi hư không, không nói, không chỉ, không khen, không chê, không
cao, không thấp, không tổn, không ích, chẳng thể tưởng tượng, chẳng thể hý
luận, bản tánh hư tịch, đều rốt ráo không, như huyễn như mộng, vô đối, vô tỉ,
sao có thể khởi tâm phân biệt nó được”.
Tới đây chúng ta còn có ý kiến gì không? Tất cả pháp rốt
ráo đều không, như huyễn như mộng, vô đối, vô tỉ, sao có thể khởi tâm phân biệt
chúng được? Thấy như huyễn không có nghĩa là phân biệt các pháp là thật hay
không thật mà xuyên qua cái thấy này tri giác rằng các pháp không phải trường
tồn hay bất biến mà nương vịn vào đó để phải chịu khổ lụy thân tâm. Bản chất
các pháp là không, không có tự tánh nên gọi là không. Nó trơ lì ra đó, nó là
trì độn, bất động. Chỉ có con người lúc nào cũng dán cái thức vào nhãn quang
nên mới thấy muôn sự muôn vật tụ tán đổi dời sanh diệt. Nếu thấy muôn sự muôn
vật tịch lặng thì được tâm giải thoát, huệ giải thoát thì chứng được Niết Bàn.
Vì Niết bàn là vắng lặng, là tịch tĩnh, là giải thoát!
---o0o---