Nguồn: https://quangduc.com/
PHẨM “KHUYẾN
HỌC”
Phần giữa
quyển 36, tập 02, Hội thứ I, ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Khuyến Học” quyển thứ 03, MHBNBLMĐ
Tóm lược:
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát muốn hoàn thành sáu pháp Ba la mật thì phải
học Bát Nhã, Đại Bồ tát muốn biết khắp sắc, muốn biết khắp thọ, tưởng, hành,
thức, nên học Bát Nhã. Đại Bồ tát muốn biết khắp 12 xứ, 18 giới thì phải học Bát
Nhã. Đại Bồ tát muốn biết rõ 4 Thánh đế, 12 nhân duyên nên học Bát Nhã. Đại Bồ
tát muốn đoạn trừ vĩnh viễn tham, sân, si, nên học Bát Nhã. Đại Bồ tát muốn
đoạn trừ vĩnh viễn mạn, nghi, thân kiến(1), biên kiến(2), giới cấm thủ(3), tà
kiến nên học Bát Nhã. Đại Bồ tát muốn đoạn trừ vĩnh viễn vô minh, trạo cử(4),
sân nhuế(5), tất cả triền kiết(6), tùy miên(7) nên học Bát Nhã. Đại Bồ tát muốn
xa lìa mười nghiệp đạo bất thiện, lại muốn tu hành mười thiện nghiệp đạo, nên
học Bát Nhã. Đại Bồ tát muốn tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, 37
pháp trợ đạo thì nên học Bát Nhã. Đại Bồ tát muốn chứng đắc mười lực của Phật,
nên học Bát Nhã. Đại Bồ tát muốn chứng đắc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết
thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất
thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, nên học Bát Nhã. Đại Bồ tát
muốn chứng đắc sáu phép thần thông và vô lượng trăm ngàn môn tam muội, thì nên
học Bát nhã Ba la mật.
Đại Bồ tát muốn đáp ứng đầy đủ tâm nguyện của tất cả hữu tình, nên học Bát
Nhã. Đại Bồ tát muốn hoàn thành thiện căn thù thắng như vậy, do thiện căn này,
vĩnh viễn chẳng đọa vào đường ác, chẳng sanh vào nhà bần tiện, chẳng rơi vào
bậc Thanh văn và Độc giác, ở bậc cao nhất của Bồ tát, vĩnh viễn chẳng thối đọa,
nên học Bát nhã Ba la mật.
Bấy giờ, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Tôn giả! Thế nào gọi là Bồ tát Đỉnh đọa(8)?
Thiện Hiện đáp:
- Nếu các Bồ tát không có phương tiện thiện xảo mà hành sáu pháp Ba la
mật, không có phương tiện thiện xảo mà trụ ba pháp môn giải thoát, thì rơi vào
bậc Thanh văn hoặc Độc giác, chẳng nhập Bồ tát Bất sanh. Như vậy, gọi là Bồ tát
Đỉnh đọa. Chính sự Đỉnh đọa này cũng gọi là Sanh.
Khi ấy, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Tôn giả! Vì duyên gì Bồ tát Đỉnh đọa gọi là Sanh?
Thiện Hiện đáp:
- Sanh có nghĩa là pháp ái. Nếu các Bồ tát thuận theo đạo pháp ái thì
gọi là Sanh.
Xá lợi Tử hỏi:
- Tôn giả! Vì sao gọi là Bồ tát thuận theo đạo pháp ái?
Thiện Hiện đáp:
- Bồ tát biết tất cả pháp là không, là vô tướng, là vô tác, là tịch
diệt, là vô thường, là khổ, là vô ngã…An trụ ở trong ấy mà khởi tưởng chấp
trước và nếu Bồ Tát nắm giữ ghi nhớ: Đây là khổ phải biết, đây là tập phải
dứt, đây là diệt phải chứng, đây là đạo phải tu…; đây là Bồ Tát đạo, đây chẳng
phải Bồ Tát đạo, đây là chỗ học của Bồ Tát, đây chẳng phải chỗ học của Bồ Tát,
đây là sáu pháp đáo bỉ ngạn, đây chẳng phải sáu pháp đáo bỉ ngạn v.v… Khi thực
hành Bát Nhã, an trụ các pháp như vậy mà sanh tưởng đắm, thì đó là Bồ tát thuận
theo đạo pháp ái. Pháp ái như vậy gọi là Sanh(9).
Lúc bấy giờ, cụ thọ Xá lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hiện:
- Tôn giả! Thế nào gọi là Bồ tát Bất sanh(10) hay còn gọi là
Bồ tát Chánh tánh Ly sanh?
Thiện Hiện đáp:
- Đại Bồ Tát lúc thực hành Bát nhã Ba la mật, trong nội không chẳng thấy
ngoại không, trong ngoại không chẳng thấy nội không, trong ngoại không chẳng
thấy nội ngoại không, trong nội ngoại không chẳng thấy ngoại không, trong nội
ngoại không chẳng thấy không không, trong không không chẳng thấy nội ngoại
không, trong đại không chẳng thấy không không, trong đại không chẳng thấy đệ
nhứt nghĩa không, cứ như thế mà quán tất cả 18 pháp không.
Quán được như vây thì gọi là Bồ Tát Bất sanh hay Bồ tát Chánh
Tánh Ly Sanh.
Các đại Bồ tát, khi tu hành Bát Nhã, nên học như thế này: Sắc nên
biết, chẳng nên đắm; thọ, tưởng, hành, thức nên biết, chẳng nên đắm. Cái danh
của sắc nên biết, chẳng nên đắm; cái danh thọ, tưởng, hành, thức nên biết,
chẳng nên đắm. Mười hai xứ, 18 giới nên biết, chẳng nên đắm. Cái
danh 12 xứ, 18 giới nên biết, chẳng nên đắm. Tất cả pháp Phật nên biết, chẳng
nên đắm. Cái danh của tất cả pháp Phật cũng nên biết, chẳng nên đắm.
Các đại Bồ tát, khi tu hành Bát Nhã, nên học như thế nầy: Tâm Bồ đề nên
biết, chẳng nên đắm; cái danh tâm Bồ đề nên biết, chẳng nên đắm. Tâm Vô thượng
nên biết, chẳng nên đắm; cái danh tâm Vô thượng nên biết, chẳng nên đắm. Tâm
rộng lớn nên biết, chẳng nên đắm; cái danh tâm rộng lớn nên biết, chẳng nên
đắm. Vì sao? Vì tâm ấy là phi tâm, vì bản tánh thanh tịnh.
Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện(13):
- Vì sao tâm ấy bản tánh thanh tịnh?
Thiện Hiện đáp:
- Bản tánh tâm này chẳng tương ưng với tham, cũng chẳng phải chẳng tương
ưng. Chẳng tương ưng với sân, chẳng phải chẳng tương ưng. Chẳng tương ưng với
si, chẳng phải chẳng tương ưng. Chẳng tương ưng với triền kiết, tùy miên, chẳng
phải chẳng tương ưng. Chẳng tương ưng với các kiến, thú, lậu, bộc lưu(11) ách
thủ(12), mà chẳng phải chẳng tương ưng. Chẳng tương ưng các tâm Thanh văn, Độc
giác, mà chẳng phải chẳng tương ưng. Xá Lợi Tử! Tâm này bản tánh thanh tịnh như
thế!
“Xá Lợi Tử:
- Tâm ấy, bản tánh là tâm hay phi tâm tánh?
Thiện Hiện hỏi lại:
- Trong phi tâm hữu tánh, vô tánh là khả đắc chăng?
Xá Lợi tử đáp:
- Không! Thưa Ngài Thiện Hiện.
Thiện Hiện hỏi lại:
- Trong phi tâm, hữu tánh vô tánh đã chẳng khá được, làm sao nói được
tâm này là hữu hay vô?
Xá Lợi Tử hỏi:
- Những gì gọi là tâm phi tâm tánh?
Thiện Hiện đáp:
- Đối tất cả pháp không biến khác, không phân biệt, đấy gọi tâm phi tâm
tánh”(13).
Xá Lợi Tử hỏi rằng:
- Như tâm không biến khác, không phân biệt; sắc cũng không biến khác,
không phân biệt ư?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Như thế.
Xá Lợi Tử lại hỏi:
- Tâm không biến khác, không phân biệt; sắc thọ tưởng hành thức cũng
không biến khác, không phân biệt sao? Tâm không biến khác, không phân biệt,
mười hai xứ, mười tám giới cũng không
biến khác, không phân biệt? Tâm không đổi khác, không phân biệt, bốn thánh đế,
mười hai nhân duyên, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng không đổi
khác, không phân biệt? Tâm không đổi khác, không phân biệt, năm loại mắt, sáu
phép thần thông, lục Ba la mật, ba mươi bảy pháp trợ đạo cũng không đổi khác,
không phân biệt?
Thiện Hiện đáp:
- Đúng vậy!
- Tâm không đổi khác, không phân biệt, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu
biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng
cho đến quả vị Giác ngộ cao tột cũng không đổi khác, không phân biệt sao?
- Đúng vậy!
Khi ấy, Xá Lợi Tử khen Thiện Hiện:
- Hay thay! Hay thay! Thật đúng như đã nói, Ngài là chơn Phật tử, từ tâm
Phật sanh, từ miệng Phật sanh, từ pháp Phật sanh, từ pháp hóa sanh, nhận phần
pháp Phật, chẳng nhận phần của cải. Ở trong các pháp, thân tự tác chứng, do tuệ
nhãn hiện thấy, nên mới có thể nói lên như vậy. Thế Tôn khen Ngài, ở trong
chúng Thanh văn, là người đệ nhất an trú trong định Vô tránh(14). Như lời Phật
dạy, thật đúng, không sai.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát, đối với Bát nhã Ba la mật, nên học như vậy.
Nếu đại Bồ tát, đối với Bát nhã Ba la mật thường học như vậy, thì nên
biết đã an trú bậc Bất thối chuyển, chẳng rời Bát nhã Ba la mật.
Này Thiện Hiện! Người muốn học bậc Thanh văn, đối với Bát nhã Ba la mật
nên siêng năng lắng nghe, tu tập, đọc tụng, thọ trì, như lý tư duy, khiến được
rốt ráo. Người muốn học bậc Độc giác, đối với Bát nhã Ba la mật, nên siêng năng
lắng nghe, tu tập, đọc tụng, thọ trì, như lý tư duy, khiến được rốt ráo. Người
muốn học bậc Bồ tát, đối với Bát nhã Ba la mật, cũng nên siêng năng lắng nghe,
tu tập, đọc tụng, thọ trì như vậy. Người muốn học bậc Như Lai, đối với Bát nhã
Ba la mật, nên siêng năng lắng nghe, tu tập… cũng như vậy. Vì sao? Vì trong Bát
nhã Ba la mật, đã rộng nói, khai thị pháp Ba thừa. Nếu đại Bồ tát học Bát nhã
Ba la mật, tức là đã học khắp cả Ba thừa, và đối với pháp của Ba thừa đều được
thấu suốt.
Thích nghĩa:
(1). Thân kiến: Ảo tưởng cho rằng thân mình là có thật, một trong ngũ
kiến. Ý tưởng về một cái ngã, một trong tam kết. Có hai cách mà người ta đi đến
quan niệm cho rằng có sự hiện hữu thực sự của một cái ngã: 1- là sự tưởng tượng
chủ quan, 2- là quan niệm khách quan về thực tính. Tưởng rằng cái ngã của chính
mình là lớn nhất và là tài sản quí báu nhất: Tin rằng cái ta là lớn nhất và vĩ
đại nhất, người khác không đáng kể.
(2). Biên kiến: Chấp vào một bên hay cực đoan như chấp có, chấp không,
chấp thường, chấp đoạn v.v... đều gọi là biên kiến. Một trong Thập sử.
(3). Giới cấm thủ: Chấp chặc vào giới cấm tà vạy, không chân chánh. Nói
rộng là chấp theo những tục lệ không hay.
(4). Trạo cử: Lao chao, xao động làm tâm không được an định. Tánh của
tâm sở này làm cho thân tâm chao động không yên tịnh. Nghiệp dụng của nó là làm
chướng ngại Định và Hành xả.
(5). Sân nhuế: Giận dữ, nổi cơn thịnh nộ. Một trong tam độc.
(6). Triền kiết: Triền trong nghĩa triền phược, là trói buộc, phiền não.
Theo Kinh Chúng Tập trong Trường A hàm quyển 8, thì có 4 thứ phiền não trói
buộc thân tâm của chúng sinh là: Tham dục, sân khuể, giới đạo và ngã kiến. Kiết
hay kết trong nghĩa Kiết sử hay kết sử: Trói buộc, cũng chỉ cho phiền não. Vì
phiền não trói buộc chúng sanh vào cảnh mê, khiến cho không thể thoát khỏi cái
khổ sanh tử, nên gọi là kiết hay kết (trói buộc). Kinh Tăng nhất A hàm quyển 20
nêu 4 loại Kiết: Dục kiết, Sân kiết, Si kiết và Lợi dưỡng kiết. Ghép hai từ kép
triền phược và kiết sử thì có từ “triền kiết” hay “triền kết”.
Trong văn chương Phật giáo
thường nói đến triền phược và kiết sử cùng chỉ cho phiền não. Cởi bỏ, gột sạch
được tất cả phiền não thì được coi là giải thoát. Phiền não là những nguyên
nhân chính đưa con người đến chỗ trầm luân. Phiền não càng nhiều thì trầm luân
càng sâu. Tất cả những từ lậu, hoặc, triền, kết, phược v.v…đều dẫn xuất từ
phiền não. Nghiên cứu tam phược, tứ điên đảo, ngũ kết là nghiên cứu về ngọn, cái
gốc chính là phiền não. Tất nhiên, đốn được gốc là giải thoát. Vậy, tu thân
chẳng qua chỉ là gội sạch tất cả phiền não chớ không có cái gì khác!
Hiểu rõ phiền não thì có thể trừ được nó. Phiền não
(Phạm: Kleza. Pàli:Kilesa. Hán âm: Cát lệ xá): Cũng gọi là Hoặc. Gọi chung là
những tác dụng tinh thần làm cho tâm hữu tình điên loạn, khổ não. Để đạt mục
đích tham muốn, thỏa mãn những dục vọng “cái của ta” mà con người có ý thức
hoặc vô ý thức thường đắm chìm trong cảnh buồn vui nên bị phiền não trói buộc.
Trong tất cả các loại tác dụng đối với tâm: Giác ngộ là mục đích cao nhất trong
Phật giáo, cho nên bất luận tác dụng tinh thần nào làm trở ngại sự thực hiện
giác ngộ đều được gọi là phiền não. Phiền não tùy theo tính chất có nhiều
tên gọi như: Tùy miên (Phạm: Anuzaya), Triền (Phạm:Paryavasthàna), Cái (Phạm:
Nivaraịa), Kiết (Phạm:Saôyojana), Phược (Phạm: Bandhana), Lậu (Phạm: Àsrava),
Thủ (Phạm: Upàdàna), Hệ (Phạm: Grantha), Sử, Cấu, Bạo lưu, Ách, Trần cấu, Khách
trần... Nếu phân loại thêm nữa thì rất phức tạp, nhưng thông thường cho Tham,
Sân, Si là nguồn gốc của tất cả phiền não và chia làm 2 loại là Căn bản phiền
não (phiền não gốc) và Chi mạt phiền não (phiền não ngọn). Căn bản phiền não có
6: Tham, Sân, Si (Vô minh), Mạn, Nghi và Kiến (Ác kiến); trong đó, Kiến lại
được chia làm 5 thứ: Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ, Giới cấm thủ và tà kiến,
gọi chung là Thập phiền não (còn gọi là Thập sử vì nó sai sử con người). Chi
mạt phiền não thì tùy thuộc vào Căn bản phiền não mà sanh khởi, theo luận Câu
xá thì có 19 thứ gồm: Phóng dật, giải đãi..., còn theo luận Duy thức thì có 20
thứ gồm: Phẫn, Hận, Phú, Não, Tật, San, Cuống, Siểm, Hại, Kiêu, Vô tàm, Vô quý,
Trạo cử, Hôn trầm, Bất tín, Giải đãi, Phóng dật, Thất niệm, Tán loạn, Bất chính
tri. Ngoài ra còn có các phương pháp phân loại như: Tam lậu, Tam kết, Tứ bạo
lưu, Tứ thủ, Ngũ cái, Ngũ kết, Lục cấu, Thất lưu, Thập triền..., hoặc gọi là
Bát bách phiền não (108 phiền não), hoặc vì cách tính toán khác nhau, nên có
các thuyết bất đồng như Bát vạn tứ thiên phiền não (84.000 phiền não). (Xem
luận Nhập A tì đạt ma Quyển thượng; luận Đại tì bà sa, Quyển 43,
46, 60; Luận Câu xá, Quyển 20, 21; Luận Phật tính, Quyển 3;
Luận Thành duy thức, Quyển 6) - phỏng theo Từ điển Phật Quang.
(7). Tùy miên: Trạng thái mơ hồ, thuộc bất định tâm sở. Miên có nghĩa là
ngủ. Tánh của tâm sở này làm cho tâm mờ mịt, thân không được tự tại. Nghiệp
dụng của nó làm chướng ngại quán tưởng.
(8). Bồ tát đỉnh đọa: Kinh MHBNBLMĐ gọi là Bồ tát Đảnh. Kinh đã giải
thích ở trên nên không cần lập lại.
(9). Sanh: Ở đây không có nghĩa là từ sanh tử. Sanh ở đây có nghĩa sanh
khởi (tâm sanh diệt). Khi nắm giữ một pháp và cho đó là pháp mang lại nhiều
công đức nhất, tức là chấp thủ pháp, nên sanh tâm “yêu pháp” gọi là “thuận đạo
pháp ái”, thì tâm không còn tự tại nữa. Bồ tát ái pháp và chấp thủ như vậy, gọi
là Bồ tát sanh. Bát Nhã “Khuyến học” nhưng không “khuyến ái”, nghĩa là không
đắm trước hay gắn bó với bất cứ giáo pháp nào.
(10). Bất sanh: Trái với nghĩa sanh ở trên là không sanh khởi: Biết mà
không đắm nhiễm nên không sanh tâm, tức không tạo tác. Kinh MHBNBLMĐ gọi là Bồ
tát không sanh tâm là Bồ tát bất thối chuyển (hay Vô sanh pháp
nhẫn), kinh ĐBN gọi là Bồ tát không sanh tâm là Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Bồ tát bất thối chuyển, Bồ tát Vô sanh pháp nhẫn hay Bồ tát
Chánh tánh ly sanh, được kinh Đại Bát Nhã, phẩm “Tướng Bất Thối” quyển 514,
Hội thứ III định nghĩa như sau:
“Bồ tát Bất
thối chuyển dùng tự tướng không quán tất cả pháp, rồi vào Bồ tát Chánh tánh ly
sanh cho đến chẳng thấy chút pháp khá được. Vì chẳng khá được nên không sở tạo
tác. Vì không tạo tác nên gọi rốt ráo chẳng sanh. Vì rốt ráo chẳng sanh nên gọi
Vô sanh pháp nhẫn. Bởi vì được Vô sanh pháp nhẫn như thế nên gọi Bồ tát Bất
thối chuyển. Nếu Bồ tát Ma ha tát trọn nên các hành tướng trạng như thế, biết đấy
là Bồ tát Bất thối chuyển”. Bồ tát bất thối chuyển được thích nghĩa trong
phẩm “Chuyển Sanh” phần sau quyển 7 cho đến hết quyển 9; Bồ tát Vô sanh nhẫn
được thích nghĩa trong phẩm “Khen Ngợi Thắng Đức” đầu quyển 10; Bồ tát Chánh
tánh Ly sanh được nói rất nhiều trong ĐBN, nhưng so sánh tổng hợp ở phẩm “Tướng
Bất Thối” quyển 514, Hội thứ III, ĐBN vừa trích dẫn trên, thì định nghĩa sau
cùng, phân biệt rõ ràng nhất. Vì quá nhiều danh vị khác nhau, nên có thể gây
lẫn lộn. Mong rằng các phẩm sau sẽ bổ khuyết thêm.
(11). Bộc lưu: Dòng thác (cuồng lưu thác lũ) chỉ cho dục vọng và phiền
não như dòng thác hay cuồng lưu.
(12). Ách thủ: Nắm giữ triền phược.
(13). Đây là đoạn kinh có thể làm chúng ta lúng túng. Bản Việt dịch của
đoạn kinh này trong phẩm “Khuyến Học” quyển 36, Hội thứ I, ĐBN ghi như sau:
“Xá Lợi Tử:
- Tâm ấy, bản tánh là tâm hay phi tâm tánh?
Thiện Hiện hỏi lại:
- Trong phi tâm tánh hữu tánh, vô tánh là khả đắc chăng?
Xá Lợi tử đáp:
- Không! Thưa Ngài Thiện Hiện.
Thiện Hiện hỏi lại:
- Trong phi tâm, hữu tánh vô tánh đã chẳng khá được, làm sao nói được
tâm này là hữu hay vô?
Xá Lợi Tử hỏi:
- Những gì gọi là tâm phi tâm tánh?
Thiện Hiện đáp:
- Đối tất cả pháp không biến khác, không phân biệt, đấy gọi tâm phi tâm
tánh”.
Nguyên văn bằng chữ Hán, Ngài Huyền Trang dịch, là:
“舍Xá
利Lợi
子Tử
言ngôn:
是thị
心tâm
為vi
有hữu
心tâm
非phi
心tâm
性tánh
不phủ.
善thiện
現hiện
答đáp
言ngôn:
非phi
心tâm
性tánh
中trung.
有hữu
性tánh.
無vô
性tánh
為vi
可khả
得đắc
不phủ.
舍Xá
利Lợi
子Tử
言ngôn.
不phủ
也dã.
善thiện
現hiện.
善thiện
現hiện
答đáp
言ngôn.
非phi
心tâm
性tánh
中trung.
有hữu
性tánh
無vô
性tánh
既ký
不bất
可khả
得đắc.
如như
何hà
可khả
問vấn.
是thị
心tâm
為vi
有hữu
心tâm
非phi
心tâm
性tánh
不phủ.
舍Xá
利Lợi
子Tử
言ngôn:
何hà
等đẳng
名danh
為vi
心tâm
非phi
心tâm
性tánh.
善thiện
現hiện
答đáp
言ngôn:
於ư
一nhất
切thiết
法pháp
無vô
變biến
異dị
.
無vô
分phân
別biệt
。 是thị
名danh
心tâm
非phi
心tâm
性tánh”.
Chìa khóa để hiểu đoạn kinh này cũng như những đoạn kinh tương tự của
tất cả năm Hội, từ Hội thứ I trở đi là các từ: Tâm(心), Tánh(性) Tâm
tánh(心性) và Phi
tâm tánh(非心性).
Tâm(心): Nguồn
gốc của mọi ý thức, suy tưởng, cảm thọ có thể là vọng hay chân.
Tánh(性): Trong nghĩa bản tánh là cái thường
trụ, chẳng đổi dời, nhiễm tịnh.
Tâm là tâm, tánh là tánh, ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Bây giờ, ghép hai
chữ Tâm
(心) và Tánh(性) với
nhau để có từ kép là Tâm tánh(心性) thì rất khó giải thích. Nếu nói bản tánh
hay bổn tánh của tâm thì có thể hiểu là cái bất biến dịch, bất hoại, vô
nhiễm... vốn tịch tịnh, chân thật nên gọi là chân tâm. Ai cũng có tâm này,
nhưng tùy theo điều kiện chung quanh mà sanh ra nhiễm tịnh nên mới có phàm
thánh.
Phi tâm tánh(非心性) hay nói gọn là phi tâm tức “Tâm không”
nghĩa là đối với trần cảnh mà tâm không sanh diệt, đổi dời thì
gọi là tâm không hay vô niệm, vô tâm.
Vì vậy, chúng ta mới có thể hiểu được câu hỏi của Thiện Hiện: “Trong phi
tâm, hữu tánh vô tánh đã chẳng khá được, làm sao nói được tâm này là hữu hay
vô?”. Tâm
phi tâm tánh này chính là tâm không (phi tâm) hay còn gọi là vô niệm, vô tâm.
Chúng tôi thích nghĩa những đoạn kinh tương tự như thế trong phẩm “Vào
Ly Sanh” quyển 408, Hội thứ II. Phẩm “Thiện Hiện” quyển 484, Hội thứ III. Phẩm “Diệu
Hạnh” quyển 538, Hội thứ IV. Phẩm “Thiện Hiện” quyển 556, Hội thứ V. Giáo nghĩa
của các đoạn kinh này trong năm Hội không có gì khác nhau, chỉ có cách diễn đạt
và chuyển ngữ hơi khác. Nếu không hiểu đoạn kinh của phẩm này, quý vị có thể
tham khảo các Hội kế tiếp mà chúng tôi đã liệt kê ở trên.
Lưu ý: Kinh Phật Mẫu Phát Sanh Tam Pháp
Tạng Bát Nhã Ba La Mật Đa (gọi tắt là Phật Mẫu Bát Nhã Kinh) do Thí Hộ dịch từ
Tạng sang Hán và Ngài Thích Từ Chiếu dịch từ Hán sang Việt, phần trên phẩm 01, “Biết
Rõ Các Hành Tướng” có đoạn kinh tương tự như đoạn kinh này, dịch như sau:
(…) “Lại nữa, Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát lúc hành Bát nhã Ba la mật quán
tưởng Bát Nhã như thế, nên học như thế (học và an trú trong Bát Nhã) nhưng
không sanh tâm mình học như thế. Vì sao? Vì cái tâm không phải tâm kia, tánh nó
thanh tịnh.
Bấy giờ, Tôn giả Xá Lợi Tử hỏi Tu Bồ Đề:
- Thế nào Tu Bồ Đề! Ngài có cái tâm không phải tâm đó không?
Tu Bồ Đề:
- Xá Lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Nếu cái tâm không phải tâm, dù có, dù
không, thì có thể chứng đắc hay không?
Xá Lợi Tử nói:
- Không thể! Tu Bồ Đề!
Bấy giờ, Tu Bồ Đề bảo Xá Lợi Tử:
- Nếu cái tâm không phải tâm, dù có, dù không, mà không thể chứng đắc,
tại sao nay ông lại hỏi, có cái tâm không phải tâm?
Xá Lợi Tử hỏi:
- Tánh của cái không phải tâm gọi là gì?
Tu Bồ Đề nói:
- Tất cả không hoại, xa lìa phân biệt, chính là cái tâm không phải tâm”.
“Tâm không phải tâm” hay “tâm phi tâm” hoặc “tâm phi tâm
tánh” có thể giải thích chính là “tâm không hay vô niệm vô tâm”. Vì vô tâm,
nên không phân biệt, không chấp. Nếu không chấp thì không chướng ngại. Vì không
chướng ngại nên mới nói là thanh tịnh. Tâm thanh tịnh đó không dung chứa bất cứ
thứ gì, rỗng rang trong suốt nên nói là vô niệm, vô tâm.
Vì vậy, phần dưới của phẩm 01, “Biết Rõ Các Hành Tướng” nói trên, diễn
tả “Vô tâm” như sau:
“Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Tu Bồ Đề:
- Tại sao tâm đó không ngăn ngại, không chấp trước?
Tu Bồ Đề đáp:
- Vì vô tâm nên không có tâm chướng ngại, cũng không có tâm chấp
trước.
Xá Lợi Tử hỏi Tu Bồ Đề:
- Nghĩa của tâm đó là gì?
Tu Bồ Đề hỏi lại Xá Lợi Tử:
- Nếu tâm sanh ở hữu ở vô thì tâm ấy có thể đắc không?
Xá Lợi Tử đáp:
- Này Tu Bồ Đề! Không thể!
Tu Bồ Đề trả lời:
- Nếu tâm không sanh ở hữu cũng không ở vô thì cũng bất khả đắc. Vậy tại
sao ông lại hỏi đến tâm ấy làm gì?”
Kinh Lăng nghiêm gọi tâm bất biến, không đổi dời, không nhiễm tịnh... là
chân tâm. Trong khi Tam Luận Tông hay Tánh Không Tông, các kinh thuộc hệ Bát
Nhã gọi tâm này là tâm không, vô niệm, vô tâm.
Tất cả luận giải trên mặc dù có khảo cứu so chiếu, tuy nhiên chưa chắc
đúng. Bởi vì, chuyển ngữ lúc nào cũng gây nhiều rối rắm. Tu là tu ở tâm mà
không hiểu tâm thì tu cái gì? Đừng quá bi quan, rồi một ngày nào đó, thấy cái
tâm gọi là tâm không hay vô niệm, vô tâm thì chứng tánh. Chúng ta
biết rằng phàm có ngôn ngữ danh tự ắt kẹt giữa giới hạn, huống chi là chuyển
ngữ. “Xí xô xí xào” không hiểu nhau thì bể đầu sứt tai thôi!
(14). Định vô tránh (hay vô tánh tam muội): Vô tránh hay vô tranh
là một trong năm trí, tam muội là định. Theo Niết bàn kinh sớ giải dẫn
Thành luận quyển 6, phẩm Ngũ trí, thì Ngũ trí này gồm: 1- Pháp trụ trí: Rõ biết
sự sanh khởi của tất cả các pháp; 2- Nê hoàn trí: Rõ biết sự diệt mất của tất
cả các pháp; 3- Vô tranh trí: Rõ biết lẽ chân thật không còn phải tranh cãi,
biện luận với bất cứ ai; 4- Nguyện trí: Đối với tất cả các pháp không còn
có sự chướng ngại; 5- Biên tế trí: Đạt được trí tuệ tối thượng, đối với tất cả
các pháp thiền định đều có thể tu tập tăng trưởng, được sức tự tại. Chứng đắc
năm trí này tức là chứng quả Tam muội, nên gọi là Ngũ trí Tam muội. (Phỏng theo
chú giải cúa Nhóm “Mở rộng tâm hồn”).
Kinh nói Tu Bồ đề là người đạt được tam muội nầy, vì Ngài thích nơi vắng
lặng tịch mịch, không thích nơi ồn náo, không thích tranh cãi hơn thua.
Lược giải:
1. “Khuyến học” nhưng không “khuyến ái”:
Bồ tát muốn thỏa mãn nguyện vọng của tất cả chúng sanh, muốn được đầy đủ
những thiện căn công đức, thường chẳng đọa vào ác đạo, chẳng sanh nhà ti tiện,
chẳng ở trong hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, chẳng sa vào Bồ Tát đỉnh đọa, thời
phải học tất cả thiện pháp nhất là lục Ba la mật, các tam muội v.v…Bát Nhã
“khuyến học” nhưng không “khuyến ái”, nghĩa là dầu thấy các giáo pháp đầy thắng
diệu hay mang lại nhiều công đức cũng không đắm trước hay nắm bắt đối với bất cứ
giáo pháp nào.
Bồ tát biết tất cả pháp là không, là vô tướng, là vô tác, là tịch diệt,
là vô thường, là khổ, là vô ngã… Nếu Bồ Tát nắm giữ ghi nhớ: “Đây là khổ phải
biết, đây là tập phải dứt, đây là diệt phải chứng, đây là đạo phải tu, đây là
Bồ Tát đạo, đây chẳng phải Bồ Tát đạo, đây là chỗ học của Bồ Tát, đây chẳng
phải chỗ học của Bồ Tát, đây là sáu pháp đáo bỉ ngạn, đây chẳng phải sáu pháp
đáo bỉ ngạn, đây là phương tiện của Bồ Tát v.v...”, khi thực hành Bát nhã Ba la
mật như vậy thời gọi là thuận đạo pháp ái. Đó là điều mà kinh khuyên
chẳng nên học, chẳng nên hành. Kinh Tứ Thập Nhị chương nói học coi như chẳng
học, hành coi như vô sự mới được gọi là học, là hành.
Người làm được như vậy là Tu Bồ Đề: Muốn học Bát Nhã phải như Tu Bồ Đề
mà học, là học không; muốn hành Bát Nhã phải như Tu Bồ Đề mà hành, là hành
không. Vì vậy, Tu Bồ Đề mới được coi là chơn Phật tử từ tâm Phật sanh, từ
miệng Phật sanh, từ pháp Phật sanh, từ pháp hóa sanh.
Trong nhà Thiền có câu chuyện:
Thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn trong lịch sử thiền là vị cần tu khổ học
thiết tha nhất. Sư thường mang theo cái vá múc canh trên bước đường hành cước
cầu đạo. Hạnh nguyện của sư là phục vụ đại chúng, trong Thiền viện ở chỗ nào
thấp kém và vất vả nhất. Đó là nhà bếp, cái vá múc canh là hình ảnh đặc trưng
của Sư. Sau khi nối pháp Đức Sơn Tuyên Giám, có vị Tăng đến hỏi Sư:
- Ở nơi Đức Sơn, Hòa thượng được cái gì liền thôi?
Sư đáp:
- Ta đi tay không, về tay không.
Nếu Tuyết Phong không học nơi Đức Sơn thì làm sao ngộ
đạo. Nhưng học mà coi như không học, mới chính là học. Câu trả lời trên hàm ngụ
y chỉ nầy.
2. Tâm phi tâm tánh (nói theo
ĐBN) hay Tâm Vô tướng (nói theo MHBNBLMĐ):
Nói hữu nói vô, nói thường nói đoạn, nói uế nói tịnh… là nói về cái tâm
sanh diệt. Phật có một tâm và chúng sanh cũng có một tâm, không hai không khác.
Tâm đó ở Thánh giả không tăng, ở phàm phu cũng không giảm. Tâm đó là Phật,
ngoài tâm không có Phật. Tâm không có hai tướng, tánh thường vắng lặng nhiệm
mầu. Nên kinh ĐBN nói: “Đối tất cả pháp không biến khác, không phân biệt, đấy
gọi tâm phi tâm tánh”. Kinh MHBNBLMĐ nói: “Với các pháp, chẳng hư hoại, chẳng phân
biệt, đây gọi là tâm vô tướng”.
Sau đây là 2 câu chuyện Thiền nói về TÂM rất thú vị,
tôi trích ra đây để quý vị thưởng thức:
1- Tâm vô tâm tánh hay tâm vô tướng
là cách nói khác của Bát Nhã về “tâm không” hay còn gọi là “vô niệm,
vô tâm”.
Hà Đông Bùi Hưu, là liêm sứ
ở Chung lăng và Uyển lăng, là một Phật tử thuần thục, tu Phật và rất ham mộ
Thiền. Ngài thường tham bái với các Tổ sư Thiền và may mắn được Tổ Hoàng Bá Hy
Vận (pháp tự của Bách Trượng Hoàng Hải) truyền tâm ấn, viết bài pháp có đoạn
như sau:
(…) “Chư Phật và tất cả chúng sanh, duy chỉ một tâm, chớ không có pháp
nào khác. Tâm này từ vô thỉ đến nay, không từng sanh, không từng diệt, không
xanh không vàng, không hình không tướng, không thuộc Có Không, không kể mới cũ,
không dài không ngắn, không lớn không nhỏ, vượt qua mọi dấu tích đối đãi về hạn
lượng, danh xưng, ngôn ngữ, dấu vết. Đương thể là đúng, động niệm tức sai.
Giống như hư không chẳng có ngần mé, không thể đo lường. Duy chỉ tâm ấy là
Phật. Phật cùng chúng sanh, chẳng có gì sai khác. Nhưng bởi chúng sanh trước
tướng, tìm cầu bên ngoài nên thất bại, cõng Phật tìm Phật, đem tâm nắm
bắt tâm, hết kiếp trọn hình, rốt ráo chẳng được gì cả. Chẳng biết dứt niệm quên
lự, Phật liền hiện tiền. Tâm ấy là Phật. Phật là chúng sanh. Chúng sanh tức
Phật. Phật là tâm ấy. Khi là chúng sanh, tâm ấy chẳng giảm. Lúc làm chư Phật,
tâm ấy không tăng. Cho đến lục độ vạn hạnh, hà sa công đức, vốn tự đầy đủ,
không cần tu thêm. Gặp duyên thì thi thố, duyên dừng thì tịch diệt. Nếu không
quyết định như thế, mà muốn trước tướng tu hành để cầu công dụng, đều là vọng
tưởng cùng đạo trái nghịch. Tâm ấy là Phật, mà cũng không có Phật nào khác. Tâm
ấy tịnh minh, giống như hư không, chẳng có một điểm tướng mạo. Cử tâm động niệm
tức trái nghịch với pháp thể, ấy là trước tướng. Từ vô thỉ đến nay, chẳng có
Phật trước tướng. Tu lục độ vạn hạnh mong cầu thành Phật, ấy là hạng thứ. Từ vô
thỉ đến nay chẳng có Phật hạng thứ. Chỉ cần ngộ nhất tâm, chứ không có pháp nào
để đắc. Đó là chân Phật. Phật với chúng sanh, một tâm không khác …”
(…) “Người vô tâm là người không có bất cứ một tâm nào, thể như như,
trong ngoài như cây đá, không động không chuyển, như hư không, không ngăn không
trái, không năng không sở, không phương xứ, không tướng mạo, không được mất.
Thức giả không dám vào pháp ấy sợ rơi vào không, chẳng chỗ nương đậu, cho nên
hướng bờ mé mà lui. Văn Thù đương lý, Phổ Hiền đương hạnh. Lý là lý chân không
vô ngại. Hạnh là hạnh rời tướng không cùng. Quán Âm đương đại từ. Thế Chí đương
đại trí. Duy Ma là Tịnh Danh. Tịnh ấy là tánh. Danh ấy là tướng. Tánh tướng
không khác, gọi là Tịnh Danh.
“Biểu hiện của chư đại Bồ tát, mọi người đều có cả. Không rời một tâm,
ngộ ấy là phải. Người học đạo ngày nay không hướng về tự tâm để ngộ mà tìm
ngoài tâm, trước tướng thủ cảnh, đều trái với đạo. Số cát sông Hằng, Phật
thuyết là cát. Chư Phật, Bồ tát, Thích Phạm, chư Thiên đi bộ mà qua, cát cũng
không vui. Bò dê, sâu kiến giẫm đạp, cát cũng chẳng giận. Châu báu, hương thơm,
cát cũng không ham. Phân, nước tiểu dơ bẩn hôi hám, cát cũng không ghét. Tâm ấy
là tâm vô tâm. Rời khỏi mọi tướng, thì Phật và chúng sanh đều không
khác. Vậy nên vô tâm là cứu cánh. Người học đạo nếu không vô tâm
ngay, bao kiếp tu hành rốt lại cũng không thành đạo, bị công hạnh tam thừa trói
buộc, chẳng được giải thoát. Nhưng chứng tâm ấy có mau có chậm. Có người nghe
pháp chỉ một niệm là vô tâm ngay. Có người phải qua thập tín, thập hạnh, thập
quá, rồi mới được vô tâm. Có người lại phải đến thập địa mới được vô tâm. Mau
chậm gì nếu được vô tâm thì trụ, cũng chẳng phải tu, chẳng phải chứng, chẳng có
đắc, chân thật không hư dối. Chỉ một niệm mà cùng thập địa đắc vậy. Công dụng
vừa khớp, cũng chẳng cạn sâu, chỉ là bao kiếp luống nhận cần khổ thôi. Làm ác,
làm lành, đều là trước tướng. Trước tướng tức tạo tác, luống chịu luân hồi.
Trước tướng tạo thiện, luống chịu lao khổ. Tất cả không bằng ngay lời nói tự
nhận thủ bổn pháp. Pháp đó là tâm. Ngoài tâm không pháp, tâm ấy là pháp,
trong pháp không tâm, tâm tự không tâm mà cũng không không tâm vậy. Đem tâm
không tâm, tâm tức thành có vậy. Mặc khế mà thôi, dứt mọi tư lường, cho nên
mới nói ngôn ngữ dừng bặt, tâm hành xứ diệt” (nghĩa là cảnh giới vắng lặng,
không còn suy tư phân biệt). - Cảnh Đức Truyền Đăng Lục.
Vì vậy, Phật bảo đem tâm ly tướng mà tu các thiện pháp hay đem tâm ly
tướng mà hành lục độ vạn hạnh. Tâm ly tướng đó chính là tâm không hay nói khác
là vô niệm vô tâm. Tu như không tu, hành mà vô sự, không năng sở như hư không.
Như vậy, tâm mới được như như. Như này gọi là bình đẳng, nên bảo bình đẳng là
thanh tịnh.
Hãy nhớ câu “tâm tự không tâm mà cũng không không tâm vậy!”
2- Không phải tâm, không phải Phật:
Thiền sư Đại Mai Pháp Thường, họ Trịnh, người Tương
Dương. Có lần đến hỏi Đại Tịch Thiền sư tức Mã Tổ Đạo Nhất:
- Thế nào là Phật?
Mã Tổ đáp:
- Tâm ấy là Phật.
Sư liền đại ngộ. Trong khoảng niên hiệu Đường Trịnh Quán,
Sư trụ tại núi Đại Mai, phía Nam huyện Ngân 70 dậm, là nơi sanh trưởng từ xưa
của giống mai nổi tiếng. Mã Tổ nghe Sư Trụ trì sơn tự, bèn sai một ông Tăng đến
chùa hỏi:
- Hòa thượng nơi Đại sư Mã Tổ học được gì mà nay tại đây
Trụ trì sơn tự?
Sư đáp:
- Mã Tổ Đại sư dạy ta “Tâm ấy là Phật” nên ta đến đây
Trụ trì.
Tăng nói:
- Phật pháp của Mã Đại sư gần đây không phải thế.
Sư hỏi:
- Không phải chỗ nào?
Tăng nói:
- Gần đây Đại sư lại nói “Không phải tâm,
không phải Phật”.
Sư nói:
- Lão già đó mê hoặc người chưa có ngày dừng. Mặc lão nói
“Không phải tâm,
không phải Phật”, phần ta chỉ nói “Tâm ấy là Phật”.
Tăng trở về thuật tự sự cho Mã Tổ nghe, Đại sư nói:
- Này đại chúng, trái mai đã chín rồi.
(Có người hỏi Hòa Sơn: Đại Mai nói vậy là có ý gì? Hòa
Sơn bảo: Chính cống là con cháu của sư tử).
Phật hiện ra từ tâm. Nương vào tâm mà thành Phật. Ngoài tự tâm không có
Phật nào khác. “Tâm ấy tức Phật”. Nên Đại Mai Pháp Thường nghe Mã Tổ bảo như vậy liền ngộ. Về
sau, dầu Mã Tổ nói “Không phải tâm, không phải Phật”, Đại Mai mặc
kệ, vẫn cho tâm này là Phật và cứ thế mà tu. Mã Tổ mới bảo trái mai đã chín và
Hòa Sơn bảo là con cháu sư tử (tức con cháu Phật).
Tâm ấy là Phật. Đó là phản tỉnh,
chiếu kiến tự tâm, tức thấy tâm là thấy Phật. “Không phải tâm,
không phải Phật”, không phải là câu phủ định thường
tình. Hai câu nói trên chỉ cái khác biệt về tri giác có
thứ bậc của các bậc tu hành. Chiếu soi,
phản tỉnh được tâm là việc làm của bậc thượng thừa. Còn không thấy tâm, không
thấy Phật là tâm không, là vô niệm, vô tâm tức tri giác của
bậc vô thượng thừa. Phân tích giải luận như vậy. Vậy, đúng
hay không đúng? Làm gì có Phật hạng nhất (vô thượng thừa), làm gì có Phật hạng
thứ (thượng thừa). Còn thấy thứ bậc sai khác là còn so đo phân biệt thì
không thể gọi là vô niệm vô tâm. Chỉ đạt được vô niệm vô tâm khi thấy tất cả
rỗng không, trong suốt.
Tâm, Tánh, Tướng là cái khó chỉ, khó nói nhất trong Phật học. Giác ngộ
không ngoài sự chứng đắc những thứ này.
---o0o---