Nguồn: https://quangduc.com/
PHẨM “VÔ TRỤ”
Phần cuối quyển 36 cho đến hết quyển
37, Hội thứ I, ĐBN.
(Tương đương với phẩm
“Tập Tán” quyển thứ 03, MHBNBLMĐ)
Tóm lược:
(1.
Chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ:)
Lúc bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đối
với đại Bồ tát và đối với Bát nhã Ba la mật, con đều chẳng đắc, chẳng thấy,
tại sao con có thể dùng pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật dạy bảo trao truyền
cho các đại Bồ tát? Bạch Thế Tôn! Đối với các pháp, con chẳng đắc, chẳng thấy,
hoặc tập hợp, hoặc phân tán; nếu đem pháp ấy dạy bảo, trao truyền cho các đại
Bồ tát, thì có thể có sự hối tiếc. Bạch Thế Tôn! Đối với các pháp, con chẳng
đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là đại
Bồ tát; đây là Bát nhã Ba la mật? Bạch Thế Tôn! Cái danh đại Bồ tát ấy và cái
danh Bát Nhã ấy đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.
Vì sao? Vì cái nghĩa hai danh ấy đã không có sở hữu (vô sở hữu), nên hai danh ấy
đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Bạch Thế Tôn! Đối
với sắc, thọ, tưởng, hành, thức, con chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc hợp, hoặc tan,
thì tại sao có thể nói đây là sắc, cho đến đây là thức? Bạch Thế Tôn! Cái danh
của sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có
chỗ trụ. Vì sao? Vì nghĩa của cái danh của sắc, thọ, tưởng, hành, thức
đã không có sở hữu, nên cái danh của sắc, thọ, tưởng v.v… đều không có
chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.
Đối với mười hai xứ, mười tám giới, bốn thánh đế,
mười hai nhân duyên, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm nhãn, sáu
thần thông, sáu pháp Ba la mật, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí v.v… con
chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc hợp, hoặc tan, thì tại sao có thể nói đây là bốn
Thánh đế, mười hai nhân duyên v.v… cho đến Nhất thiết trí? Bạch Thế Tôn! Cái
danh bốn Thánh đế, mười hai nhân duyên v.v... đều không có chỗ trụ, cũng chẳng
phải chẳng có chỗ trụ. Vì sao? Vì cái nghĩa của danh bốn Thánh đế, mười hai
nhân duyên v.v... đã không có sở hữu, nên cái danh bốn Thánh đế, mười hai nhân
duyên v.v... đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Đối với
các pháp đã nói trên, con chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc hợp, hoặc tan, thì tại
sao có thể nói đây là Bồ tát, đây là Bát Nhã?
Bạch Thế Tôn! Đối với Bồ tát, và đối với Bát Nhã con đã chẳng
đắc, chẳng thấy, thì tại sao khiến con đem pháp tương ưng Bát Nhã dạy bảo, trao
truyền cho các Bồ tát. Cho nên, nếu đem pháp ấy mà dạy bảo, trao truyền cho các
Bồ tát, thì ắt sẽ hối tiếc.
Bạch Thế Tôn! Các pháp do nhân duyên hòa hợp đặt bày, giả
danh Bồ tát và Bát Nhã. Hai giả danh này, đối với năm uẩn, bất khả
thuyết; đối với 12 xứ, 18 giới, 4 Thánh đế, 12 nhân duyên, bất khả thuyết;
đối với tham, sân, si, tất cả triền kiết, tùy miên, kiến thủ v.v... bất khả thuyết;
đối với bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc bất khả thuyết; đối với năm
loại mắt, sáu phép thần thông bất khả thuyết; đối với ngã, hữu tình, cho đến…
cái biết, cái thấy bất khả thuyết; đối với không, vô tướng, vô nguyện, sáu phép
Ba la mật bất khả thuyết; đối với 37 pháp trợ đạo bất khả thuyết; đối với mười
lực của Phật, cho đến… Nhất thiết tướng trí bất khả thuyết; đối với trò huyễn,
cho đến như sự biến hóa, thành tầm hương v.v... bất khả thuyết; đối với tịch
tịnh, viễn ly, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, tuyệt chư hý luận, chơn
như, pháp giới, pháp tánh, thật tế, bình đẳng tánh, ly sanh tánh… bất khả
thuyết; đối với pháp thường, vô thường, cho đến pháp thuộc sanh tử, thuộc Niết
bàn bất khả thuyết; đối với pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, cho đến… pháp nội,
pháp ngoại, hay pháp ở giữa hai bất khả thuyết; đối với Phật, Bồ tát hoặc Thanh
văn v.v... trong vô số thế giới ở mười phương bất khả thuyết. Vì sao? Vì sự tập
hợp, ly tán của các pháp như trên đã nói, đều không thể nắm bắt được, vô
kiến vậy. Bạch Thế Tôn! Như trên đã nói, cái danh 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới v.v…
không chỗ nói được (bất khả
thuyết). Như vậy, cái danh Bồ tát, và Bát Nhã không chỗ nói được. Như cái
danh giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, không chỗ nói được. Như
vậy, cái danh Bồ tát, và Bát Nhã không chỗ nói được. Như Dự lưu, Nhất lai, Bất
hoàn, A la hán, Độc giác, Như Lai và cái danh của các giai vị ấy, cũng không
chỗ nói được. Như vậy, cái danh Bồ tát, và Bát Nhã cũng không chỗ nói được.
Bạch Thế Tôn! Như tất cả, hoặc hữu danh hoặc vô danh, đều
không chỗ nói được. Như vậy, cái danh Bồ tát, và cái danh Đại Bát Nhã cũng
không chỗ nói được. Vì sao? Vì cái danh các pháp như vậy đều không có chỗ trụ,
cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Vì sao? Vì cái nghĩa của các danh ấy, đã
không có sở hữu, nên các danh ấy đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có
chỗ trụ.
Bạch Thế Tôn! Vì con y cứ vào nghĩa ấy, nên đối với các pháp
chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc hợp, hoặc tan, thì tại sao có thể nói đây là cái
danh Bồ tát, đây là cái danh Bát Nhã?
Bạch Thế Tôn! Đối với hai cái, hoặc nghĩa, hoặc danh, con đã
chẳng đắc, chẳng thấy, thì tại sao khiến con đem pháp tương ưng Bát nhã Ba la
mật dạy bảo, trao truyền cho các Bồ tát? Vì vậy, nếu đem pháp này dạy bảo, trao
truyền cho các Bồ tát, ắt có sự hối tiếc.
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát khi nghe đem tướng trạng như thế
thuyết Bát nhã Ba la mật, tâm chẳng chìm đắm cũng chẳng ưu hối; tâm kia bất
kinh bất khủng bất bố, phải biết Bồ tát này, quyết định đã được an trụ bực bất
thối, đem phương tiện vô sở trụ mà an trụ!
(2.
Chẳng nên trụ pháp:)
Lúc bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các
Bồ tát tu hành Bát Nhã chẳng nên trụ nơi sắc, chẳng nên trụ nơi thọ, tưởng,
hành, thức. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì Sắc, tánh của sắc là không; thọ, tưởng,
hành, thức, và tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Bạch Thế Tôn! Sắc
ấy chẳng phải không, không ấy chẳng phải sắc, sắc chẳng lìa không, không chẳng
lìa sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng lại
như vậy. Vì vậy, Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát tu hành Bát Nhã chẳng nên trụ nơi
sắc, chẳng nên trụ nơi thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng nên trụ mười hai xứ, mười tám giới; chẳng nên trụ nơi bốn
Thánh đế, mười hai nhân duyên, chẳng nên trụ nơi bốn thiền, chẳng nên trụ nơi
tứ định. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì bốn thiền và tánh của bốn thiền là không, tứ
định và tánh của tứ định là không. Bạch Thế Tôn! Bốn thiền ấy, chẳng phải
không, không ấy chẳng phải là bốn thiền; bốn thiền chẳng lìa không, không chẳng
lìa bốn thiền; bốn thiền tức là không, không tức là bốn thiền; tứ định cũng lại
như vậy. Vì vậy, bạch Thế Tôn! Các Bồ tát tu hành Bát Nhã chẳng nên trụ nơi bốn
thiền, chẳng nên trụ nơi tứ định.
Các đại Bồ tát tu hành Bát Nhã, chẳng nên trụ nơi sáu Ba la
mật, chẳng nên trụ ở ba mươi bảy pháp trợ đạo, chẳng nên trụ nơi mười lực của
Phật, chẳng nên trụ nơi năm loại mắt, chẳng nên trụ nơi sáu phép thần thông,
chẳng nên trụ nơi bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại
bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí,
Nhất thiết tướng trí. Vì sao? Vì sáu Ba la mật là không, tánh của sáu Ba la mật
là không… cho đến Nhất thiết tướng trí và tánh của Nhất thiết tướng trí là
không. Sáu Ba la mật ấy, chẳng phải không, không ấy chẳng phải sáu Ba la mật, sáu
Ba la mật chẳng lìa không, không chẳng lìa lục Ba la mật; sáu Ba la mật tức là
không, không tức là sáu Ba la mật; 37 pháp trợ đạo cho đến Nhất thiết tướng trí
cũng lại như vậy. Vì vậy, các đại Bồ tát tu hành Bát Nhã, chẳng nên trụ nơi sáu
Ba la mật cho đến chẳng nên trụ nơi Nhất thiết tướng trí.
Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát tu hành Bát Nhã, chẳng nên
trụ vào văn tự, chẳng nên trụ vào sự dẫn giải của các văn tự, hoặc
một lời, hoặc hai, hoặc nhiều lời dẫn giải. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì các văn tự
và tánh của các văn tự là không, sự dẫn giải của các văn tự và tánh của sự dẫn
giải là không. Các văn tự ấy chẳng phải không, không ấy chẳng phải là các văn
tự; các văn tự chẳng lìa không, không chẳng lìa các văn tự; các văn tự tức là
không, không tức là các văn tự; sự dẫn giải của các văn tự cũng lại như vậy. Vì
vậy, bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát tu hành Bát Nhã chẳng nên trụ vào các văn tự,
chẳng nên trụ vào sự dẫn giải của các văn tự.
Các đại Bồ tát tu hành Bát Nhã, chẳng nên trụ vào các pháp
thường hoặc vô thường, chẳng nên trụ vào các pháp lạc hoặc khổ, ngã hoặc vô
ngã, tịnh hoặc bất tịnh, tịch tịnh hoặc bất tịch tịnh, viễn ly hoặc bất viễn
ly; cũng chẳng nên trụ vào chơn như, chẳng nên trụ vào pháp giới, pháp tánh,
thật tế, bình đẳnh tánh, ly sanh tánh; cũng chẳng nên trụ vào tất cả pháp môn
Đà la ni, chẳng nên trụ vào tất cả pháp môn Tam ma địa vì tất cả pháp đó và
tánh của chúng cũng lại như trên đã thuyết.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ
tát, không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành Bát Nhã, thì bị chấp
ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, cho nên tâm liền bám trụ sắc, bám trụ
vào thọ, tưởng, hành, thức. Vì do bám trụ này nên đối với sắc phát sanh các
hành, đối với thọ, tưởng, hành, thức phát sanh các hành (tức tạo tác).
Vì do hành này, nên chẳng thể nhiếp thọ Bát Nhã, chẳng thể tu hành Bát Nhã,
chẳng thể viên mãn Bát Nhã, chẳng thể hoàn thành Nhất thiết tướng trí.
Nếu đại Bồ tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành
Bát Nhã, thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền
bám trụ vào mười hai xứ, mười tám giới, bốn thiền
bốn định, bốn Thánh đế, mười hai nhân duyên, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám
pháp bất cộng, Nhất thiết tướng trí v.v…cho đến quả vị Giác ngộ tối cao.
Vì do bám trụ này nên đối với tất cả pháp phát sanh các hành. Vì do hành này,
nên chẳng thể nhiếp thọ Bát Nhã, chẳng thể tu hành Bát Nhã, chẳng thể viên mãn Bát
Nhã, chẳng thể hoàn thành Nhất thiết tướng trí.
Bạch Thế Tôn! Vì sắc chẳng nên nhiếp thọ; thọ, tưởng, hành,
thức chẳng nên nhiếp thọ; sắc đã chẳng nên nhiếp thọ, thì chẳng phải sắc; thọ,
tưởng, hành, thức đã chẳng nên nhiếp thọ, liền chẳng phải là thọ, tưởng, hành,
thức. Vì sao? Vì bản tánh là không, cho đến tất cả pháp Phật chẳng nên
nhiếp thọ, tất cả pháp Phật chẳng nên nhiếp thọ, thì liền chẳng phải là pháp
Phật. Vì sao? Vì bản tánh là không. Cái nhiếp thọ, tu hành, viên mãn Bát nhã Ba
la mật, cũng chẳng nên nhiếp thọ. Như vậy, Bát nhã Ba la mật chẳng nên nhiếp
thọ, thì liền chẳng phải là Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì bản tánh là không. Đại
Bồ tát tu hành Bát Nhã, nên dùng bản tánh không mà quán tất cả pháp.
Khi khởi lên quán này, thì đối với tất cả pháp, tâm không sở hành, đó gọi là
sự nhiếp thọ Tam ma địa của đại Bồ tát. Tam ma địa này vi diệu, thù thắng, rộng
lớn vô lượng, có tác dụng vô biên, mà tất cả Thanh văn, Độc giác không có được.
Cả đến Nhất thiết tướng trí đã hoàn thành đó, cũng chẳng nên nhiếp thọ. Như
vậy, Nhất thiết tướng trí đã chẳng nên nhiếp thọ, thì liền chẳng phải là Nhất
thiết tướng trí. Vì sao? Nhất thiết tướng trí này chẳng phải thủ đắc tướng mà
tu đắc. Vì sao? Vì có thủ đắc là có phiền não!
Những gì là tướng? Đó là tướng sắc, tướng thọ, tưởng, hành,
thức; cho đến tướng của tất cả pháp Phật. Nếu chấp đắm các tướng này, liền bị
nó trói buộc, không còn tự tại nữa, nên gọi là phiền não. Nên không thể lấy
tướng mà tu đắc Nhất thiết tướng trí. Nếu người chấp tướng tu đắc Nhất
thiết trí trí thì phạm chí Thắng Quân, đối với Nhất thiết trí trí không cần tin
hiểu. Những gì gọi là tướng tin hiểu đó? Nghĩa là đối với Bát nhã Ba la mật
thâm sâu sanh lòng tin thanh tịnh. Do lực thắng giải, suy lường, quán
sát Nhất thiết trí trí. Không dùng tướng làm phương tiện, cũng không dùng chẳng
phải tướng làm phương tiện. Vì tướng và chẳng phải tướng đều không thể nắm bắt.
Phạm chí Thắng Quân này tuy do sức tín giải qui y Phật Pháp gọi là tùy tín
hành, nhưng có thể nhờ bản tánh không mà ngộ nhập Nhất thiết trí trí. Đã
ngộ nhập rồi nên không chấp giữ tướng sắc, không chấp giữ tướng thọ, tưởng,
hành, thức; cho đến không chấp giữ tướng tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa môn.
Vì sao? Vì nhất thiết pháp tự tướng đều là không, năng thủ, sở thủ đều
bất khả đắc. Vì sao? Vì phạm chí không dùng hiện quán nội đắc mà quán Nhất
thiết trí trí. Không dùng hiện quán ngoại đắc mà quán Nhất thiết trí trí. Không
dùng hiện quán nội ngoại đắc mà quán Nhất thiết trí trí. Không dùng hiện quán
vô trí đắc mà quán Nhất thiết trí trí. Không dùng hiện quán đắc những pháp khác
mà quán Nhất thiết trí trí. Cũng không dùng hiện quán bất đắc mà quán Nhất
thiết trí trí. Vì sao? Vì phạm chí Thắng Quân này không thấy Nhất thiết trí trí
là bị quán; không thấy Bát Nhã là năng quán, không thấy người quán, không thấy
chỗ y cứ để quán và không thấy lúc khởi quán.
Phạm chí Thắng Quân này chẳng ở trong sắc, thọ, tưởng, hành,
thức mà quán Nhất thiết trí trí. Chẳng ở ngoài sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà
quán Nhất thiết trí trí. Chẳng ở trong ngoài sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà
quán Nhất thiết trí trí. Cũng chẳng phải lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức quán
Nhất thiết trí trí, cho đến chẳng phải ở trong tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa
môn mà quán Nhất thiết trí trí. Chẳng phải ở ngoài tất cả Đà la ni môn, Tam ma
địa môn mà quán Nhất thiết trí trí. Chẳng phải ở trong ngoài tất cả Đà la ni
môn, Tam ma địa môn mà quán Nhất thiết trí trí. Cũng chẳng phải lìa tất cả Đà
la ni môn, Tam ma địa môn mà quán Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì hoặc là bên
trong, hoặc là bên ngoài, hoặc trong ngoài, hoặc lìa trong ngoài, tất cả đều
không, bất khả đắc. Phạm chí Thắng Quân này do lìa các tướng môn như vậy,
nên đối với Nhất thiết trí trí phát sanh lòng tin hiểu thâm sâu. Do tin hiểu
như vậy nên đối với tất cả pháp đều không chấp trước. Vì thật tướng các pháp
bất khả đắc. Như vậy, Phạm chí nhờ môn lìa tướng, đối với Nhất thiết
trí trí được tin hiểu rồi, đối với tất cả pháp đều không chấp tướng, cũng không
tư duy các pháp vô tướng, vì pháp tướng, vô tướng đều bất khả đắc. Như
vậy, Phạm chí do lực thắng giải đối với tất cả pháp không lấy, không bỏ, vì
trong pháp thật tướng không có lấy bỏ. Bấy giờ, Phạm chí đó với sự tự tin hiểu
của mình cho đến Niết bàn cũng không chấp trước. Vì sao? Vì bản tánh tất cả
pháp đều không, không thể nắm giữ.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát, Bát nhã Ba la mật, cũng lại như
vậy, đối với tất cả pháp, vì không có chỗ nắm giữ (thủ đắc) đắm trước,
nên có khả năng từ bờ bên này qua bờ bên kia. Vì vậy, khi đại Bồ tát tu hành Bát
Nhã, chẳng nên nắm giữ tất cả sắc, chẳng nên giữ lấy thọ, tưởng, hành, thức cho
đến chẳng giữ lấy tất cả pháp Phật, vì tất cả pháp cũng đều không có chỗ nắm
giữ. Đại Bồ tát ấy, tuy đối với tất cả sắc, tất cả thọ, tưởng, hành, thức, cho
đến tất cả pháp Phật đều không có chỗ nắm giữ mà chỉ dùng bổn nguyện tu
hành bốn niệm trụ, cho đến tám thánh đạo chi chưa viên mãn vậy và vì bản nguyện
chỗ chứng Phật mười lực, cho đến Nhất thiết tướng trí chưa thành xong vậy, cho
nên ở khoảng thời gian giữa quyết chẳng nắm chẳng bắt tất cả tướng mà vào Niết
bàn. Đại Bồ tát ấy, tuy có khả năng viên mãn tất cả pháp Phật mà chẳng thấy tất
cả pháp Phật. Vì sao? Vì tất cả pháp Phật chẳng phải là pháp Phật. Tất cả pháp
chẳng phải là pháp, cũng chẳng phải là phi pháp. Đại Bồ tát ấy, khi tu hành Bát
Nhã, đối với tất cả pháp, tuy không có chỗ thủ đắc, mà có khả năng hoàn thành
tất cả sự nghiệp. (Q.37, ĐBN)
Lưu ý: Đôi khi giữa hai đoạn kinh, chúng tôi
dừng lại đôi chút để giải thích hay thêm thắt một vài tư tưởng của các Đạo sư
khác để làm rõ nghĩa kinh. Điều đó có thể làm quý vị độc giả khó chịu. Nhưng nó
trở thành cần thiết khi chú giải kinh. Xin thứ lỗi!
Lược
giải:
Phẩm này nói rõ về “Tánh Không” và “Quán không bất chứng”
để trừ cái bệnh chấp thủ. Bát nhã Ba la mật khuyên Bồ tát không nên trụ vào các
pháp, vì tất cả pháp là không, bản tánh của tất cả pháp cũng không, bất khả
đắc.
Không những Bát Nhã khuyên đại Bồ tát chẳng nên trụ vào
tất cả pháp mà còn khuyên chẳng nên trụ vào văn tự, chẳng nên trụ vào sự dẫn
giải của các văn tự, vì văn tự và tánh của văn tự là không, sự dẫn giải của văn
tự và tánh của sự dẫn giải là không, bất khả đắc.
Các đại Bồ tát tu hành Bát Nhã, chẳng nên trụ vào các pháp
thường hoặc vô thường, chẳng nên trụ vào các pháp lạc hoặc khổ, ngã hoặc vô
ngã, tịnh hoặc bất tịnh v.v… Trụ như vậy là trụ ở hai bên nên dễ rơi vào nhị
nguyên đối đãi hay nói khác là không dứt trừ nổi phân biệt, chấp trước!
Một khi rơi vào phân biệt thì bị ngã, ngã sở trói buộc
quấy nhiễu, tâm liền có chỗ bám trụ. Vì do bám trụ nên đối với tất cả pháp phát
sanh tạo tác. Rồi do tạo tác, nên không thể nhiếp thọ Bát Nhã, không thể tu
hành Bát Nhã, không thể hoàn thành Nhất thiết tướng trí.
Vậy, đối với Bát nhã Ba la mật cũng chẳng nên nhiếp thọ,
thì liền chẳng phải là Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì bản tánh cũng không.
Đại Bồ tát tu hành Bát Nhã, nên dùng bản tánh không mà quán tất cả pháp. Khi
khởi lên quán này, thì đối với tất cả pháp, tâm không sở hành, đó gọi là sự
nhiếp thọ Tam ma địa của đại Bồ tát.
Sau cùng kinh nói, cả đến Nhất thiết tướng trí đã hoàn
thành đó, cũng chẳng nên nhiếp thọ. Như vậy, Nhất thiết tướng trí đã chẳng nên
nhiếp thọ, thì liền chẳng phải là Nhất thiết tướng trí. Vì sao? Nhất thiết
tướng trí này chẳng phải thủ đắc tướng mà tu đắc. Vì sao? Vì có thủ đắc là
có phiền não!
Nếu chấp đắm các tướng, liền bị tướng xoay, tức bị trói,
không còn tự tại nữa, nên gọi là phiền não. Nên không thể lấy tướng mà tu đắc
Nhất thiết tướng trí, chỉ do tín giải mà thành tựu Nhất thiết tướng trí.
Những gì gọi là tín giải? Nghĩa là đối với Bát nhã Ba la mật thâm sanh tịnh
tín. Do sức hiểu biết thù thắng mà tư duy, quán sát Nhất thiết tướng trí, không
dùng tướng làm phương tiện, cũng chẳng phải dùng phi tướng làm phương tiện, vì tướng
và phi tướng đều không thể thủ đắc. Người tu hành dõng mãnh có khả năng dùng
bản tánh không mà ngộ nhập Nhất thiết tướng trí. Đã ngộ nhập rồi, chẳng thủ đắc
tướng của tất cả pháp. Vì sao? Vì tự tướng của tất cả pháp đều không, nên năng
thủ, sở thủ đều chẳng thể nắm bắt được. (Q.37, ĐBN)
Giáo pháp này có lẽ nghịch đời: Muốn thành tựu vô vàn công
đức, muốn giác ngộ, muốn được Nhất thiết tướng trí thì phải nhiếp thọ Bát Nhã.
Nhưng ở đây kinh lại nói cả đến Nhất thiết tướng trí đã hoàn thành đó, cũng
chẳng nên nhiếp thọ: “Nhất thiết tướng trí đã chẳng nên nhiếp thọ, thì
liền chẳng phải là Nhất thiết tướng trí”. Vì sao? Nhất thiết tướng trí này
chẳng phải thủ đắc tướng mà tu đắc. Vì thủ đắc tướng là có phiền não”!
Tất cả phiền não đều do phân biệt. Phân biệt những gì?
Phân biệt tướng tốt xấu. Do phân biệt nên có chấp. Rồi từ chấp mới đưa đến
quyết định tung hứng, giữ bỏ... tức tâm hành. Nếu tâm hành đúng như mong muốn
thì cảm thấy sung sướng, bằng ngược lại sẽ sanh đau buồn chán ghét. Đó chính là
phiền não của cuộc sống thường tục. Thật ra, không phải do nhiếp thọ Nhất thiết
tướng trí mà không đắc Bát Nhã. Chính là do phân biệt chấp trước đưa đến thủ
đắc tướng mà sanh bệnh. Phạm Chí Thắng Quân chỉ sanh tín giải sâu sắc mà
thâm nhập được Bát Nhã. Chỉ cần dùng bổn nguyện tu hành tất cả pháp Phật, nhưng
không thủ đắc bất cứ pháp nào dù là pháp Phật thì có thể thành tựu sự nghiệp!
Pháp môn Phật học tuy nhiều, nhưng rốt lại, tu hành đừng
phân biệt chấp trước cũng không trụ không thủ pháp bất cứ dưới hình thức nào,
thì tâm không còn quái ngại. Có phân biệt là có chấp, vô phân biệt là vô chấp,
tâm mới được thảnh thơi!
Câu chuyện nhà Thiền sau đây có thể nói lên tinh thần
của giáo pháp vô sở trụ của phẩm này:
Có vị Tăng hỏi Thiền sư Huệ Hải Đại Châu:
- Tâm trụ chỗ nào là trụ?
Sư đáp:
- Tâm trụ chỗ không trụ là trụ.
- Thế nào là chỗ không trụ?
- Chẳng trụ tất cả chỗ, ấy là trụ chỗ không trụ.
- Thế nào là chẳng trụ tất cả chỗ?
- Chẳng trụ tất cả chỗ là chẳng trụ nơi lành dữ, có không,
trong ngoài, chặng giữa; chẳng trụ không cũng chẳng trụ chẳng không, chẳng trụ
định cũng chẳng trụ chẳng định. Chỉ cái chẳng trụ tất cả chỗ, ấy là chỗ trụ.
Có trụ là có quái ngại, vô trụ mới được tự tại. Vậy
phải nói theo Lục tổ: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Vô trụ là vô chấp, tâm
mới được thảnh thơi!
Kết
luận:
Đây là một bài pháp khá mắc mỏ, nếu hiểu liền hiểu không
thể chần chừ, không thể gượng ép. Mấu chốt của bài pháp này là đừng trụ, đừng
chấp, đừng thủ. Có trụ, có chấp, có thủ là có quái ngại! Có trụ là có chỗ nương
tựa như chim nương cành, như dây leo nương dậu thì không thể đứng vững trên đôi
chân của mình được hay nói khác là không còn tự chủ trong tư duy hay hành động.
Có chấp là có vướng mắc tâm không được như như. Có thủ là còn nắm giữ, cất dấu
tức còn sở đắc, tham ái. Tất cả đều do tướng, có tướng là có phiền não. Tu lìa
tướng thì không còn quái ngại nữa, nên nói tu vô tướng đây là tu Bát Nhã. Tu
như vậy mới mau viên mãn!
---o0o---