PHẨM “TÙY HỶ(1) HỒI
HƯỚNG (2)”
Phần sau quyển 168 cho đến phần đầu
quyển 172, Hội thứ I, ĐBN.
(Tương đương với quyển thứ 12, phẩm
“Tùy Hỷ”, MHBNBLMĐ)
Tóm lược:
Lúc bấy giờ, đại Bồ tát Di Lặc(3)
nói với cụ thọ Thiện Hiện: Nầy Đại đức! Nếu đại Bồ tát đối với tất cả hữu tình,
cùng làm các phước nghiệp sự và cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị Giác
ngộ tối cao, lại lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên so với phước nghiệp sự tùy
hỷ hồi hướng của các dị sanh, Thanh văn, Độc giác thời rất tối thắng, tối tôn,
là cao quý, vi diệu, không gì bằng. Vì sao? Vì các dị sanh tu phước nghiệp sự
chỉ để cho mình được tự tại an lạc; Thanh văn, Độc giác tu phước nghiệp
sự là để tự điều phục, để được tịch tịnh, để được đắc Niết bàn; còn công
đức có được do tùy hỷ hồi hướng của đại Bồ tát, thì khắp vì sự điều
phục, tịch tịnh, Niết bàn cho tất cả chúng sanh.
Cụ thọ Thiện Hiện hỏi Bồ tát Di lặc:
Nhưng nếu đại Bồ tát lấy quả vị Giác ngộ tối cao làm sở duyên(4) mà tùy hỷ hồi
hướng tức sanh tâm duyên nơi sự thì chỗ nghĩ tưởng như thế có được như ý muốn
chăng?
Bồ tát Di Lặc trả lời Thượng tọa
Thiện Hiện: Nếu đại Bồ tát có tâm phan duyên(5) như vậy tức là có sở thủ(6),
tức trụ tưởng điên đảo, thì như thế không thể được như ý muốn. Nếu đại Bồ tát
từ lâu tu hành sáu phép Ba la mật, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, đời
trước đã từng trồng thiện căn(7), từ lâu phát đại nguyện, lại được các thiện
hữu nhiếp thọ, khéo học nghĩa không của tự tướng các pháp, thì đại Bồ tát này
đối với sở duyên chẳng khởi tâm thủ tướng. Nếu chẳng khởi tâm thủ tướng thì có
khả năng phát khởi sự tùy hỷ hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao. Tùy hỷ hồi
hướng như thế là do dùng phi nhị, phi bất nhị làm phương tiện; phi tướng, phi
vô tướng làm phương tiện; phi hữu sở đắc, phi vô sở đắc làm phương tiện; phi
nhiễm, phi tịnh làm phương tiện; phi sanh, phi diệt làm phương tiện. Vì vậy,
đối với sở duyên cho đến quả vị Giác ngộ tối cao có thể chẳng thủ tướng; vì
chẳng thủ tướng nên chẳng trụ tưởng điên đảo.
Lại nữa, này Đại đức! Đối với các Bồ
tát sơ học Đại thừa không nên tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật; cũng không nên
tuyên thuyết tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật; không nên
tuyên thuyết pháp không nội đến pháp không không tánh tự tánh; đối với các Bồ
tát sơ học Đại thừa không nên tuyên thuyết chơn như, pháp giới, pháp tánh, định
pháp, trụ pháp, thật tế…; đối với các Bồ tát sơ học Đại thừa không nên tuyên
thuyết bốn Thánh đế, mười hai duyên khởi, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định
vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho
đến quả vị Giác ngộ tối cao; đối với các Bồ tát sơ học Đại thừa cũng không nên
tuyên thuyết nghĩa không của tự tướng tất cả pháp. Vì sao? các Bồ tát sơ học
Đại thừa đối với các pháp như thế, tuy có đôi chút kính tin, ưa thích, nhưng
họ nghe rồi hầu như quên mất, hoang mang, sợ sệt, sanh ra hủy báng.
Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Bồ tát
Di Lặc: Đại Bồ tát dùng sự tùy hỷ cùng làm các nghiệp sự phước đức như thế, hồi
hướng quả vị Giác ngộ tối cao, thì gọi là tận dụng tâm tùy hỷ hồi hướng; tận
dụng tâm này là tận diệt ly biến(8); sở duyên này và các thiện căn cũng đều là
tận diệt ly biến. Trong đó, cái gì là dụng tâm? Lại dùng cái gì làm sở duyên
cho các thiện căn mà nói là tùy hỷ hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao? Tâm ấy (tâm
hồi hướng) đối với tâm (tâm Bồ đề) lẽ ra chẳng phải tùy hỷ hồi
hướng, vì không có hai tâm cùng khởi một lúc; tâm cũng chẳng khá tùy hỷ hồi
hướng tự tánh của tâm.
Thưa Đại sĩ! Nếu đại Bồ tát khi tu
hành Bát nhã Ba la mật, thì có khả năng biết như thật: Sắc không có sở hữu,
thọ, tưởng, hành, thức không có sở hữu; mười hai xứ, mười tám giới không có sở
hữu; mười hai duyên khởi không có sở hữu; sáu Ba la mật, Phật mười lực, bốn
điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả,
mười tám pháp Phật bất cộng không có sở hữu; Nhất thiết trí, Đạo tướng trí,
Nhất thiết tướng trí không có sở hữu; Dự lưu đến quả vị Giác ngộ tối cao cũng
không có sở hữu.
Thưa Đại sĩ! Đại Bồ tát ấy đã biết
như thật tất cả pháp đều không có sở hữu, dùng sự tùy hỷ cùng làm các nghiệp sự
phước đức, hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, đó gọi là sự tùy hỷ hồi hướng quả
vị Giác ngộ tối cao không điên đảo.
Bấy giờ, Thiên Đế Thích bạch cụ thọ
Thiện Hiện rằng: Thưa Đại đức! Đại Bồ tát sơ học Đại thừa nghe pháp như thế,
tâm kia sẽ kinh nghi, e sợ chăng? Thưa Đại đức! Đại Bồ tát sơ học Đại thừa vì
sao đem chỗ tu tập các thiện căn hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao? Thưa Đại
đức! Đại Bồ tát sơ học Đại thừa, vì sao nhiếp thọ tùy hỷ làm các nghiệp sự
phước đức hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao?
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện nương thần
lực gia bị của Bồ tát Di Lặc, bảo trời Đế Thích: Này Kiều Thi Ca! Bồ tát sơ học
Đại thừa, nếu tu Bát Nhã, dùng vô sở đắc làm phương tiện, vô tướng làm phương
tiện, như vậy là nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật; nếu tu tịnh lự, tinh tấn, an
nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật, dùng vô sở đắc làm phương tiện là nhiếp thọ Bát
nhã Ba la mật; nếu trụ bốn Thánh đế dùng vô sở đắc làm phương tiện, vô tướng
làm phương tiện là nhiếp thọ bốn Thánh đế; nếu trụ tất cả các pháp Phật dùng vô
sở đắc làm phương tiện, vô tướng làm phương tiện là nhiếp thọ tất cả các pháp
Phật.
Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ tát ấy do
nhân duyên này, mà tín giải(9) sâu sắc Bát nhã Ba la mật; tín giải sâu sắc tịnh
lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật; tín giải sâu sắc pháp bốn Thánh
đế rộng nói là tín giải sâu sắc tất cả pháp Phật.
Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ tát ấy do
nhân duyên này thường được thiện hữu nhiếp thọ. Thiện hữu ấy dùng vô lượng pháp
môn văn nghĩa xảo diệu vì họ biện thuyết pháp tương ưng Bát Nhã, tịnh lự, tinh
tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật; dùng pháp như thế dạy bảo trao
truyền, khiến họ nhập Bồ tát Chánh tánh ly sanh, thường chẳng xa lìa sáu Ba la
mật; dùng pháp như thế dạy bảo trao truyền, khiến họ nhập Bồ tát Chánh tánh ly
sanh, thường chẳng xa lìa tất cả pháp Phật.
Này Kiều Thi Ca! Bồ tát sơ học Đại
thừa, nếu có khả năng như thế, dùng vô sở đắc làm phương tiện, vô tướng làm
phương tiện, nhiếp thọ các công đức; đối với các công đức, tín giải sâu sắc,
thường được các thiện hữu nhiếp thọ, nghe pháp như thế, tâm chẳng hoang mang,
chẳng kinh, chẳng sợ vậy.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Bồ tát sơ học
Đại thừa tùy theo sự tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát
nhã Ba la mật, mà dùng vô sở đắc làm phương tiện, vô tướng làm phương tiện,
cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao; tùy theo sự an
trụ pháp không nội đến pháp không không tánh tự tánh, dùng vô sở đắc làm phương
tiện, vô tướng làm phương tiện, cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị Giác
ngộ tối cao; tùy theo sự an trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp
trụ, thật tế… dùng vô sở đắc làm phương tiện, vô tướng làm phương tiện, cùng
với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao; tùy theo sự an trụ
bốn Thánh đế, 12 duyên khởi, bốn tịnh lự, bốn vô lưọng, bốn định vô sắc, 37
pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao
mà dùng vô sở đắc làm phương tiện, vô tướng làm phương tiện, cùng với tất cả
hữu tình đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Bồ tát sơ học
Đại thừa, nên đối với khắp mười phương vô số vô lượng vô biên thế giới, trong
mỗi mỗi thế giới đều có vô số vô lượng vô biên tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác, dứt đường các cõi, tuyệt đạo hý luận, bỏ các gánh nặng, bẻ gãy gai gốc tụ
lạc, dứt hết các gút, đầy đủ chánh trí, tâm hoàn toàn giải thoát, khéo nói pháp
yếu và chúng đệ tử Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác kia sở thành nhóm giới uẩn, định
uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn đã thành tựu cùng với các
thiện căn đã gieo trồng của dòng dõi lớn Sát đế lợi, dòng dõi lớn Bà la môn,
Trưởng giả, Cư sĩ v.v... hoặc thiện căn đã gieo trồng của trời bốn đại vương
chúng, Trời Sắc cứu cánh v.v… Tất cả những thiện căn như thế tập hợp lại, cân
nhắc, suy lường, so sánh, thì đối với các thiện căn khác, tâm tùy hỷ này rất
tối thắng, tối tôn, là cao quý, vi diệu, không gì bằng. Lại dùng sự tùy hỷ như
thế làm các phước nghiệp sự, cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị Giác
ngộ tối cao.
Lúc bấy giờ, Bồ tát Di Lặc hỏi cụ
thọ Thiện Hiện: Này Đại đức! Bồ tát sơ học Đại thừa, nếu dùng các thiện căn
công đức của Phật và chúng đệ tử với thiện căn đã gieo trồng của trời, người
v.v… cùng các hữu tình đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, thì đại Bồ tát
ấy vì sao chẳng rơi vào tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo?
Cụ thọ Thiện Hiện đáp: Thưa Đại sĩ!
Nếu đại Bồ tát đối với công đức có được do niệm Phật, chẳng khởi lên tưởng về
công đức của chư Phật; đối với các thiện căn đã gieo trồng của trời, người
v.v... chẳng khởi tưởng thiện căn của trời, người v.v... đối với tâm đã phát
khởi sự tùy hỷ hồi hướng, cũng lại chẳng khởi tưởng về tâm này, thì đại Bồ tát
ấy, không có tưởng điên đảo, không có tâm điên đảo, không có kiến điên đảo. Nếu
đại Bồ tát đối với công đức đã có về sự niệm Phật và nắm lấy tướng công
đức của Phật; đối với thiện căn đã gieo trồng của trời, người v.v... nắm
lấy tướng thiện căn của trời, người v.v...; đối với tâm đã phát khởi sự tùy
hỷ hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, nắm lấy tướng đã phát khởi sự
tùy hỷ hồi hướng này thì đại Bồ tát ấy, đã tùy hỷ hồi hướng có tưởng điên
đảo, có tâm điên đảo, có kiến điên đảo.
Lại nữa, thưa Đại sĩ! Nếu đại Bồ tát
dùng tâm tùy hỷ, nghĩ về công đức thiện căn của tất cả các đức Phật và chúng đệ
tử, biết đúng đắn tâm này là diệt tận ly biến, chẳng thấy có năng sở tùy hỷ,
nếu năng y vào điều đã nói ấy mà tùy hỷ hồi hướng là chánh, chẳng phải tà, đại
Bồ tát ấy đều nên như vậy mà hồi hướng.
Lại nữa, thưa Đại sĩ! Nếu đại Bồ tát
lại dùng tất cả thiện căn tích lũy có được cùng với các hữu tình đồng
hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, ngay khi ấy, hiểu rằng các pháp năng tùy hỷ
hồi hướng là diệt tận ly biến, các pháp sở tùy hỷ hồi hướng tự tánh đều không.
Tuy hiểu như vậy, mà luôn luôn tùy hỷ hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao. Lại
ngay khi ấy, hiểu rằng không có pháp nào đối với pháp nào để tùy hỷ hồi hướng.
Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp đều không, trong cái không hoàn toàn
không có pháp năng sở tùy hỷ hồi hướng. Tuy biết như vậy, mà luôn luôn tùy hỷ
hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao; đại Bồ tát ấy, hoặc luôn luôn tùy hỷ hồi
hướng như thế, mà tu hành Bát Nhã, tu hành tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh
giới, bố thí Ba la mật, không mắc vào tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên
đảo. Vì sao? Vì đại Bồ tát ấy, đối với tâm tùy hỷ chẳng sanh chấp trước,
đối với thiện căn công đức tùy hỷ cũng chẳng chấp trước; đối với tâm hồi hướng
chẳng sanh chấp trước, đối với sở hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao cũng chẳng
chấp trước. Do không chấp trước nên chẳng rơi vào điên đảo. Đại Bồ tát đã khởi
tâm tùy hỷ hồi hướng như thế gọi là sự tùy hỷ hồi hướng vô thượng.
Nếu đại Bồ tát dùng thủ tướng làm
phương tiện tu hành Bát nhã Ba la mật, đối với tất cả công đức thiện căn
của Phật và đệ tử ấy, giữ lấy tướng tùy hỷ hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao,
thì đó là chẳng phải thiện tùy hỷ. Do nhân duyên này mà bị rơi vào tưởng
điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo. Ngược lại, nếu đại Bồ tát, chẳng dùng
thủ tướng làm phương tiện tu hành Bát Nhã đối với tất cả công đức thiện căn
của Phật và đệ tử ấy, lìa tướng tùy hỷ hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, thì
đó gọi là thiện tùy hỷ hồi hướng. Do nhân duyên này, đại Bồ tát ấy tùy hỷ hồi
hướng lìa được tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo.
Lúc bấy giờ, đại Bồ tát Di Lặc hỏi
cụ thọ Thiện Hiện: Này Đại đức! Vì sao đại Bồ tát đối với công đức thiện căn
của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và chúng đệ tử, tùy hỷ cùng làm các nghiệp
sự phước đức đều chẳng thủ tướng, mà có khả năng tùy hỷ hồi hướng quả vị Giác
ngộ tối cao?
Cụ thọ Thiện Hiện đáp: Thưa Đại sĩ!
Nên biết, trong sở học Bát nhã Ba la mật của đại Bồ tát có những phương tiện
thiện xảo như thế, tuy chẳng thủ tướng mà vẫn thành tựu được; chẳng phải lìa Bát
nhã Ba la mật mà năng phát khởi tùy hỷ cùng làm các nghiệp sự phước đức, hồi
hướng quả vị Giác ngộ tối cao.
Bồ tát Di Lặc nói: Này Thiện Hiện! Chớ
thuyết như vậy. Vì sao? Vì trong Bát nhã Ba la mật thậm thâm đó, tất cả
công đức thiện căn của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và chúng đệ tử đều vô sở
hữu, bất khả đắc vậy. Các phước đức tùy hỷ đã làm cũng vô sở hữu, bất khả
đắc; sự phát tâm hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao cũng vô sở hữu, bất khả đắc.
Trong đó, đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã, nên quán thế này: Công đức thiện căn
của chư Phật và chúng đệ tử trong quá khứ, tánh đều đã diệt; sở tác tủy hỷ các
nghiệp sự phước đức, phát tâm hồi hướng Vô thượng Bồ đề tánh đều tịch diệt. Nếu
ta đối với công đức thiện căn của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và chúng
đệ tử ấy, mà thủ tướng phân biệt và dùng thủ tướng phân biệt ấy làm phương
tiện, phát khởi hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, thì chư Phật Thế Tôn đều
không hứa khả (chứng cho). Vì sao? Vì đối với chư Phật Thế Tôn và chúng
đệ tử đã diệt độ, mà thủ tướng phân biệt tùy hỷ hồi hướng là có sở đắc lớn.
Vì vậy nên đại Bồ tát muốn đối với công đức thiện căn của chư Phật và chúng đệ
tử, phát khởi sự tùy hỷ hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao một cách đúng đắn,
thì trong tâm chẳng khởi hữu sở đắc, chẳng thủ tướng phân biệt; nếu
trong tâm khởi lên hữu sở đắc, thủ tướng phân biệt, tùy hỷ hồi hướng thì chư
Phật chẳng cho những người kia được đại nghĩa. Vì sao? Vì tâm tùy hỷ hồi hướng
như vậy là vọng tưởng phân biệt, xen lẫn độc dược. Thí như có thức ăn,
tuy đủ mùi vị, màu sắc ngon lành nhưng có lẫn độc dược, người ngu không biết,
tham lam lấy ăn; tuy lúc đầu thấy sướng khoái, hoan hỷ, nhưng sau không tiêu
hóa được phải chịu nhiều thứ đau khổ hay chết!
Sự tùy hỷ hồi hướng đã nói như thế,
là dùng hữu sở đắc, thủ tướng phân biệt làm phương tiện, như thức ăn lẫn chất
độc, trước lợi sau hại, cho nên đây chẳng phải là thiện tùy hỷ hồi hướng. Vì
sao? Vì dùng hữu sở đắc, thủ tướng phân biệt mà phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng,
có nhân, có duyên, có tác ý, có hý luận, chẳng tương ưng Bát nhã Ba la mật, vì
nó có lẫn chất độc, tức là hủy báng Phật, chẳng theo lời Phật dạy, chẳng theo
pháp đã nói. Bồ tát chủng tánh Đại thừa chẳng nên theo lập thuyết như vậy mà tu
học Bát Nhã.
Vậy, phải thuyết Bồ tát thừa phát
khởi tùy hỷ hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao như thế nào cho phải?
Cụ thọ Thiện Hiện thưa: Thưa Đại sĩ!
Các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ tát thừa, tu hành Bát Nhã, nếu muốn chẳng hủy
báng chư Phật Thế Tôn khi phát tâm tùy hỷ hồi hướng, thì nên nghĩ thế này: Chư
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng Phật trí vô thượng hiểu rõ, biết khắp các
thiện căn công đức, có “loại” như vậy, có “thể” như vậy, có “tướng” như vậy, có
“pháp” như vậy, để tùy hỷ; ta nay cũng nên tùy hỷ như thế. Lại như chư Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác dùng Phật trí vô thượng hiểu rõ, biết khắp, nên dùng các
nghiệp sự phước đức như thế hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao; ta nay cũng nên
hồi hướng như thế. Các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ tát thừa, đối với thiện căn
công đức của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử, nên khởi sự tùy hỷ
hồi hướng như thế. Nếu khởi sự tùy hỷ hồi hướng như thế, thì tức là chẳng hủy
báng Phật, theo lời Phật dạy, theo pháp Phật nói. Đại Bồ tát ấy, tâm tùy hỷ hồi
hướng như vậy, chẳng lẫn chất độc, cuối cùng đạt đến quả vị Giác ngộ tối cao.
Lại nữa, thưa Đại sĩ! Thiện nam,
thiện nữ cầu Phật đạo, lúc thực hành Bát Nhã phải hồi hướng thiện căn như vầy: Như
sắc, thọ, tưởng v.v… chẳng thuộc Dục giới, chẳng thuộc Sắc giới, chẳng
thuộc Vô sắc giới, chẳng thuộc pháp, chẳng gọi quá khứ, vị lai, hiện tại; nội
không đến vô pháp hữu pháp không cũng như vậy; pháp tánh, pháp tướng, pháp trụ,
thật tế, bất tư nghì tánh; giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến,
Nhất thiết chủng trí chẳng thuộc Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, chẳng thuộc
pháp, chẳng thuộc quá khứ, vị lai và hiện tại... cũng như vậy.
Hồi hướng này, chỗ hồi hướng này và
hành giả chẳng hệ thuộc cũng như vậy. Chư Phật và những thiện căn đây cũng
chẳng hệ thuộc. Thiện căn của Thanh văn, Bích Chi Phật đây cũng chẳng hệ thuộc,
chẳng thuộc pháp, chẳng thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại. Vì sao? Vì các pháp ấy
tự tánh là không, nên chẳng thuộc tam giới, chẳng thuộc ba đời, tùy hỷ hồi hướng
cũng lại như vậy, đó là vì chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự tánh là không,
nên chẳng đọa tam giới, chẳng thuộc ba đời; vì công đức của chư Phật tự tánh là
không, nên chẳng thuộc tam giới, chẳng thuộc ba đời; vì Thanh văn, Độc giác và
trời, người v.v... tự tánh là không, nên chẳng thuộc tam giới, chẳng thuộc ba
đời; vì các thiện căn ấy, tự tánh là không, nên chẳng thuộc tam giới, chẳng
thuộc ba đời; vì tùy hỷ ấy, tự tánh là không, nên chẳng thuộc tam giới, chẳng
thuộc ba đời; vì pháp sở hồi hướng, tự tánh là không, nên chẳng thuộc tam giới,
chẳng thuộc ba đời; vì người thường hồi hướng, tự tánh là không, nên chẳng
thuộc tam giới, chẳng thuộc ba đời.
Nếu đại Bồ tát tu hành Bát Nhã như
thật biết sắc, thọ, tưởng v.v… đều chẳng hệ thuộc, thì chẳng thể đem pháp
nắm lấy tướng để hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Vì sao? Vì các pháp: Sắc, thọ,
tưởng v.v... tự tánh bất sanh. Nếu pháp bất sanh thì không có sở hữu, chẳng thể
dùng pháp vô sở hữu kia mà tùy hỷ hồi hướng vô sở hữu. Đại Bồ tát ấy tùy hỷ hồi
hướng như thế, chẳng lẫn các độc, cuối cùng đạt đến quả vị Giác ngộ tối cao.
Lại nữa, thưa Đại sĩ! Trụ Bồ tát
thừa, các thiện nam, thiện nữ nếu dùng hữu tướng làm phương tiện, hoặc hữu
sở đắc làm phương tiện, đối với thiện căn công đức của Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác và các đệ tử, phát sanh tùy hỷ hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, thì
như vậy là tà hồi hướng. Tâm tà tùy hỷ hồi hướng này, chẳng được chư
Phật Thế Tôn khen ngợi, vì tâm tùy hỷ hồi hướng như thế chẳng phải là cái mà
chư Phật Thế Tôn khen ngợi, chẳng có khả năng viên mãn bố thí, tịnh giới, an
nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật; cũng chẳng có khả năng viên mãn tất
cả pháp Phật, nên chẳng có khả năng viên mãn nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục
hữu tình. Do vì chẳng có khả năng viên mãn nghiêm tịnh cõi Phật thành thục hữu
tình nên chẳng có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì những
vị ấy đã khởi tùy hỷ hồi hướng có lẫn các độc.
Lại nữa, thưa Đại sĩ! Các đại Bồ tát
tu hành Bát Nhã, nên nghĩ thế này: Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở mười
phương thế giới, hiểu rõ như thật thiện căn công đức có pháp như thế, có thể
nương vào pháp ấy mà phát sanh tùy hỷ hồi hướng không điên đảo. Ta nay cũng
phải nương vào pháp như thế mà phát sanh tùy hỷ hồi hướng quả vị Giác ngộ tối
cao, thì đó là phát khởi tùy hỷ hồi hướng chơn chánh.
Lúc bấy giờ, Thế Tôn khen cụ thọ
Thiện Hiện: Hay thay! Thiện Hiện! Nay ông đã làm việc Phật làm, đó là vì đại Bồ
tát v.v... mà khéo nói tùy hỷ hồi hướng không điên đảo. Sự tùy hỷ hồi hướng
đã nói như thế là dùng vô tướng làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, vô
sanh làm phương tiện, vô diệt làm phương tiện, vô nhiễm làm phương tiện, vô
tịnh làm phương tiện, tự tướng không làm phương tiện, tự tánh không làm phương
tiện, vô tánh tự tánh làm phương tiện, chơn như làm phương tiện, pháp giới làm
phương tiện, pháp tánh làm phương tiện, tánh chẳng hư vọng làm phương tiện,
thật tế làm phương tiện.
Này Thiện Hiện! Giả sử tất cả hữu
tình trong Tam thiên đại thiên thế giới đều được thành tựu mười thiện nghiệp
đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm phép thần thông thì ý ông
nghĩ sao? Công đức của các hữu tình ấy nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Rất
nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu thiện
nam, thiện nữ đối với thiện căn công đức của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và
các đệ tử, phát khởi tùy hỷ hồi hướng không nhiễm trước, thì công đức
đạt được, hơn trước rất nhiều. Này Thiện Hiện! Thiện nam, thiện nữ ấy, đã khởi
tùy hỷ hồi hướng như thế là tối thắng, tối tôn, là cao siêu, là vi diệu, là cao
cả, không gì hơn.
Lại nữa, Thiện Hiện! Giả sử tất cả
hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới đều đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất
hoàn, A la hán, có thiện nam, thiện nữ đối với quả Dự lưu đến A la hán ấy, suốt
đời cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi, dùng vô lượng các thứ y phục, ẩm
thực, đồ nằm, thuốc men và các đồ dùng khác cung cấp thì theo ý ông thiện nam,
thiện nữ ấy, do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Rất
nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu thiện
nam, thiện nữ đối với thiện căn công đức của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và
các đệ tử, mà khởi tùy hỷ hồi hướng không nhiễm trước, thì phước đức đạt
được, hơn trước rất nhiều. Này Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ ấy, đã khởi
tùy hỷ hồi hướng như thế là tối thắng, tối tôn, là cao siêu, là vi diệu, là cao
cả, không gì hơn.
Lại nữa, Thiện Hiện! Giả sử tất cả
hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới đều hướng đến quả vị Giác ngộ tối
cao, hay tất cả hữu tình ở vô số thế giới trong mười phương nhiều như cát sông
Hằng đều hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao ấy, được các thiện nam, thiện nữ
cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi, dùng vô lượng các thứ y phục, ẩm
thực, đồ nằm, thuốc men, và các thức nuôi thân mà cung cấp đầy đủ, trải qua vô
số đại kiếp, thì theo ý ông thế nào các thiện nam, thiện nữ ấy do nhân duyên
này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Rất
nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều! Số phước đức ấy là vô số, vô lượng, vô biên,
vô hạn, tính đếm, thí dụ khó có thể biết hết. Bạch Thế Tôn! Nếu số phước ấy có
hình sắc, thì vô số thế giới trong mười phương không dung chứa hết.
Phật dạy: Hay thay! Hay thay! Thiện
Hiện! Số lượng phước đức ấy, như ông đã nói, nếu thiện nam, thiện nữ đối với
thiện căn công đức của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử, mà khởi tùy
hỷ hồi hướng không nhiễm trước, thì phước đức đạt được, hơn trước rất
nhiều. Này Thiện Hiện! Thiện nam, thiện nữ ấy, đã khởi tùy hỷ hồi hướng như thế
là tối thắng, tối tôn, là cao siêu, là vi diệu, là cao cả, không gì hơn.
(Người tu không nắm lấy tướng mà tu,
người làm các sự nghiệp phước đức tùy hỷ cũng không mong cầu nắm bắt thì công
đức tùy hỷ hồi hướng cao cả, không gì hơn!)
Lúc bấy giờ, bốn Đại thiên vương
cùng với đông đủ hai vạn Thiên tử quyến thuộc, rất đổi vui mừng liền chấp tay
đảnh lễ chân Phật, nói: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát như vậy, có khả năng phát khởi
tùy hỷ hồi hướng quảng đại, dùng vô tướng làm phương tiện, vô sở đắc làm
phương tiện, vô nhiễm trước làm phương tiện, vô tư tác làm phương tiện, đối
với thiện căn công đức của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử, phát
sanh tủy hỷ hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao. Phát khởi sự tùy hỷ hồi hướng
như thế, chẳng rơi vào pháp nhị, pháp bất nhị(10).
Khi ấy, trời Đế Thích, thiên vương
Tô dạ ma, thiên vương San đổ sử đa, thiên vương Tối tự tại, cùng với vô lượng
trăm ngàn Thiên tử quyến thuộc mỗi người đều cầm các thứ tràng hoa, hương đốt,
hương xoa, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu… để cúng dường Phật, và bạch
rằng: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát như vậy, mới có khả năng phát khởi tùy hỷ hồi
hướng quảng đại như thế, dùng vô tướng làm phương tiện, vô sở đắc làm phương
tiện, vô nhiễm trước làm phương tiện, vô tư tác làm phương tiện, đối với thiện
căn công đức của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử, phát tâm tùy hỷ
hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao. Đã khởi tùy hỷ hồi hướng như thế, thì chẳng
rơi vào pháp nhị, pháp bất nhị.
Lúc bấy giờ, thiên vương Đại phạm,
trời Cực quang tịnh, Trời Biến tịnh, Trời Quảng quả, trời Sắc cứu cánh, cùng
với đầy đủ vô lượng, vô số trăm ngàn chúng Phạm thiên đến trước Phật, đảnh lễ
chân Phật, cùng bạch: Bạch Thế Tôn! Thật hy hữu! Đại Bồ tát như vậy đã được Bát
nhã Ba la mật và phương tiện thiện xảo nhiếp thọ, vượt hơn thiện căn của các
thiện nam, thiện nữ đã tu ở trước, không có phương tiện thiện xảo, hữu tướng,
hữu sở đắc.
Lúc bấy giờ, Phật bảo các chúng trời
nói trên: Giả sử tất cả hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới đều phát
tâm cầu quả vị Giác ngộ tối cao, đối với khắp tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác
ở quá khứ, vị lai, hiện tại trong mười phương thế giới, từ sơ phát tâm cho đến
khi đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân nhiệm mầu, sau khi nhập Vô dư
y Niết bàn cho đến thời pháp diệt, ở khoảng giữa ấy, có thiện căn tương ưng với
sự tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật;
hoặc có thiện căn tương ưng với sự an trụ tất cả các pháp Phật, hoặc pháp đã
nói của chư Như Lai, hoặc nương vào pháp ấy mà tu tập được ba nghiệp sự phước
đức là thí tánh, giới tánh, tu tánh, hoặc nương vào pháp ấy tinh cần tu học mà
đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán hoặc đắc quả vị Độc giác, đắc Bồ
tát Chánh tánh ly sanh; hoặc thiện căn có được của các hữu tình do tu hành bố
thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã v.v... tất cả như vậy, nhóm
tụ lại cân nhắc suy lường, dùng hữu tướng làm phương tiện, hữu sở đắc
làm phương tiện, hữu nhiễm trước làm phương tiện, hữu tư tác làm phương tiện,
hữu nhị bất nhị làm phương tiện, khởi lên sự tùy hỷ; đã tùy hỷ rồi hồi hướng
quả vị Giác ngộ tối cao.
Và có thiện nam, thiện nữ phát tâm
hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao, như các hữu tình kể trên, cũng có thiện căn
tương ưng với sự tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã
Ba la mật; hoặc có thiện căn tương ưng với sự an trụ tất cả pháp Phật, tinh cần
tu học mà đắc quả Dự lưu, Nhất hoàn, Bất hoàn, A la hán, hoặc quả vị Độc giác,
nhập Bồ tát Chánh tánh ly sanh, hoặc thiện căn có được của các hữu tình do tu
bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã v.v... tất cả nhóm tụ
lại cân nhắc suy lường, nhưng dùng vô tướng làm phương tiện, vô
sở đắc làm phương tiện, vô nhiễm trước làm phương tiện, vô tư tác làm phương
tiện, vô nhị, bất nhị làm phương tiện, khởi lên sự tùy hỷ; đã tùy hỷ rồi hồi
hướng quả vị Giác ngộ tối cao, thì sự tùy hỷ hồi hướng của thiện nam, thiện nữ
này là tối thắng, tối tôn, là cao siêu, là vi diệu, là cao cả, không gì hơn; so
với sự tùy hỷ hồi hướng của hữu tình nói trước, trăm ức lần nhiều hơn, ngàn ức
lần nhiều hơn, trăm ngàn ức lần nhiều hơn, vô số trăm ngàn ức lần nhiều hơn,
bội số, bội toán, bội dụ cho đến bội cực số cũng hơn rất nhiều. (Q.172, ĐBN)
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch
Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao Thế Tôn nói, sự tùy hỷ hồi hướng của thiện nam thiện
nữ ấy là tối thắng, tối tôn, là cao siêu, là vi diệu, cao cả, không gì hơn?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Thiện nam,
thiện nữ ấy đối với khắp cả các thiện căn của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác, Thanh văn, Độc giác, Bồ tát và tất cả các hữu tình khác ở quá khứ, vị
lại, hiện tại trong mười phương thế giới, chẳng thủ chẳng xả, chẳng kiêu
căng, chẳng khinh mạn, chẳng phải có sở đắc, chẳng phải không sở đắc; lại biết
các pháp là không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không
giảm, không khứ, không lai, không tụ, không tán, không nhập, không xuất,
nghĩ như thế này: Các pháp chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng,
tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật
tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì ở quá khứ, vị lai, hiện tại kia,
Ta cũng tùy hỷ hồi hướng như thế. Này Thiện Hiện! Tùy hỷ xong, hồi hướng Vô
thượng Bồ đề.
Này Thiện Hiện! Sự tùy hỷ hồi hướng
này so với các pháp tùy hỷ khác gấp trăm ức lần, ngàn ức lần, trăm ngàn ức lần,
vô số trăm ngàn ức lần, gấp bội số, bội toán, bội tính, bội dụ cho đến bội cực
số… Vì vậy, nên Ta nói sự phát khởi tùy hỷ hồi hướng như thế là tối thắng, là
tối tôn, là cao siêu, là vi diệu, cao cả, không gì hơn. (Q.172, ĐBN)
Lại nữa, Thiện Hiện! Trụ Bồ tát
thừa, các thiện nam, thiện nữ muốn đối tất cả Như Lai ứng Chánh đẳng quá khứ vị
lai hiện tại mười phương thế giới, từ sơ phát tâm đến được Vô thượng Chánh đẳng
Bồ đề, quay xe diệu pháp, sau khi vào Vô dư y Niết Bàn cho đến Chánh pháp diệt
tận. Ở thời gian giữa, có bao tất cả bố thí tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh
lự, Bát nhã Ba la mật đa tương ưng thiện căn. Hoặc nhóm giới, nhóm định, nhóm
huệ, nhóm giải thoát, nhóm giải thoát tri kiến. Hoặc bao nhiêu vô lượng vô
biên Phật pháp. Hoặc các công đức thiện căn của Thanh Văn, Độc giác, Bồ Tát.
Hoặc các hữu tình có bao thí tánh, giới tánh, tự tánh ba phước nghiệp sự và các
thiện pháp khác, nhóm họp cân lường, hiện tiền phát khởi tâm không điên
đảo tùy hỷ hồi hướng. Nhưng, Phải quan niệm rằng bố thí đồng đẳng với giải
thoát; năm độ kia cũng đồng đẳng với giải thoát; sắc, thọ, tưởng, hành, thức
đồng đẳng với giải thoát; nội không đến vô pháp hữu pháp không đồng đẳng với
giải thoát; tứ niệm xứ đến bát thánh đạo phần đồng đẳng với giải thoát; thập
lực đến Nhất thiết chủng trí đồng đẳng với giải thoát; giới, định, huệ, giải
thoát, giải thoát tri kiến đồng đẳng với giải thoát; tùy hỷ đồng đẳng với giải
thoát; các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại đồng đẳng với giải thoát; chư Phật
mười phương cùng giải thoát đồng đẳng; chư Phật hồi hướng cùng giải thoát đồng
đẳng; chư Phật cùng giải thoát đồng đẳng; chư Phật diệt độ cùng giải thoát đồng
đẳng; Thanh văn, Bích Chi Phật cùng giải thoát đồng đẳng; Thanh văn, Bích Chi
Phật diệt độ cùng giải thoát đồng đẳng; pháp tướng của chư Phật cùng giải thoát
đồng đẳng; pháp tướng của Thanh văn, Bích Chi Phật cùng giải thoát đồng đẳng.
Tất cả các pháp tướng cũng cùng giải thoát đồng đẳng, tôi đem tướng những thiện
căn này tùy hỷ công đức hồi hướng Vô thượng Bồ đề cũng đồng đẳng với giải
thoát, vì bất sanh bất diệt vậy.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này tùy hỷ
hồi hướng như vậy là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là
thượng, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng. Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát trọn
nên tùy hỷ hồi hướng như thế, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu tới Đại
Thừa, các thiện nam, thiện nữ, giả sử đối tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác và chúng đệ tử mười phương thế giới hằng hà sa thảy, đem hữu tướng làm
phương tiện, hữu sở đắc làm phương tiện, trọn một đời sống cúng dường cung
kính, tôn trọng, ngợi khen. Lại đem các thứ áo mặc, ăn uống, đồ
nằm, thuốc thang và bao nhiêu tư sanh lạc cụ hạng nhất mà phụng thí lên, sau
khi các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và chúng đệ tử kia vào Niết Bàn, lấy
ngọc Xá lợi đem bảy báu hạng thượng xây đắp các ngôi bảo tháp cao rộng tôn
nghiêm, ngày đêm tinh siêng lễ kính đi quanh hữu. Lại dùng các thứ thượng diệu
tràng hoa, hương bột, hương đốt, hương xoa, y phục, anh lạc, bảo tràng, phan
lọng, các ngọc diệu trân kỳ quý lạ, kỹ nhạc, đèn sáng, hết thảy sẵn có cúng dường
cung kính, tôn trọng ngợi khen. Lại đem việc tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn,
tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật cùng với công đức thiện căn của
các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử, phát sanh tùy hỷ hồi hướng
Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Lại có các thiện nam, thiện nữ phát
tâm tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, đem vô tướng làm phương tiện, vô sở đắc
làm phương tiện tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, Bát nhã Ba la
mật cùng với công đức thiện căn của các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các
đệ tử, phát sanh tùy hỷ hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Các thiện nam,
thiện nữ này do nương Bát nhã Ba la mật, phương tiện khéo léo tùy hỷ hồi hướng,
hơn kẻ tùy hỷ hồi hướng trước trăm bội, ngàn bội, trăm ngàn bội, trăm ức
bội, kế bội, dụ bội cho đến cực số bội. Cho nên nói tùy hỷ hồi hướng như
thế là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là Vô
thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng. Vậy nên, Thiện Hiện! Phát tâm tới Đại Thừa, các
đại Bồ tát đều nên đem vô tướng làm phương tiện, vô sở đắc làm phương
tiện tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la
mật thảy tương ưng thiện căn và nương Bát nhã Ba la mật, phương tiện khéo léo
đối công đức thiện căn của các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử,
phát tâm tùy hỷ hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Thích nghĩa:
(1). Tùy hỷ: Vui theo điều thiện.
Vui theo cái vui của người (thấy người làm việc thiện, lòng mình hoan hỷ vui
theo)—To rejoyce in all good—To rejoice in the welfare of others, or to do that
which one enjoys, or to follow one's inclination (Từ điển Phật học Việt Anh -
Đồng Loại).
(2). Hồi hướng: (回向) I. Hồi Hướng(Phạm: Parìịàma): Cũng gọi Chuyển
hướng, Thí hướng. Đem công đức thiện căn do chính mình tu được chuyển lại cho
chúng sinh để cùng được lợi ích như mình, gọi là hồi hướng. Trong các Kinh luận
có nhiều thuyết nói về hồi hướng. 1. Theo thuyết Tính không của hệ tư tưởng Bát
Nhã, nếu hồi hướng mà không thấy có người hồi hướng, có pháp để hồi hướng, có
nơi chốn để hồi hướng, thì mới được gọi là Hồi hướng chân thực. Phẩm Hồi hướng
trong Kinh “Tiểu Phẩm Bát Nhã” do Ngài Cưu Ma La Thập dịch (Đại 8, 548 trung),
nói: Không có một pháp nào có thể gọi là pháp hồi hướng, mới được gọi là chính
hồi hướng A nậu đa la tam miệu tam bồ đề (…) Vì chư Phật dạy hồi hướng không
được chấp tướng, (...), nếu hồi hướng mà còn chấp tướng thì gọi là Tạp độc. 2.
Đại thừa nghĩa chương quyển 9 của Ngài Tuệ Viễn chia hồi hướng làm 3 loại: a). Bồ đề hồi
hướng: Đem tất cả thiện pháp mà mình tu hành để hướng cầu Bồ đề. b). Chúng sinh
hồi hướng: Vì thương chúng sinh nên nguyện đem tất cả pháp lành mà mình tu được
để ban cho họ. c). Thực tế hồi hướng: Đem thiện căn của mình hồi hướng
để cầu pháp tính bình đẳng như thực. 3. Trong Hoa nghiêm Kinh sớ quyển 26, Ngài
Trừng Quán nêu ra 10 loại hồi hướng, nhưng thâu tóm lại còn 3 loại: a). Bồ đề hồi
hướng: Xoay nhân hướng tới quả, xoay kém hướng hơn, xoay tỉ hướng chứng. b). Chúng sinh
hồi hướng: Xoay mình hướng tới người, xoay ít hướng nhiều, xoay nhân hạnh của
mình hướng tới nhân hạnh của người. c). Thực tế
hồi hướng: Xoay sự hướng lý, xoay hạnh sai biệt hướng hạnh viên
dung. Ngoài 8 loại hồi hướng trên đây, 2 loại còn lại là: Xoay thế (việc thế
tục) hướng xuất thế (cầu Phật đạo) và Xoay thuận lý sự hạnh
hướng lý sở thành sự. Hai loại Hồi hướng này thông cả quả Bồ
đề hồi hướng và Thực tế hồi hướng. 4. Theo thuyết của tông Tịnh độ thì có 2
loại Hồi hướng: a). Vãng tướng hồi hướng: Đem công đức
của mình ở đời quá khứ và đời hiện tại hồi hướng cho chúng sinh, nguyện cùng
được sinh về Tịnh độ phương Tây. b). Hoàn tướng hồi hướng: Sau khi đã
vãng sinh Tịnh độ, phát tâm đại bi trở lại cõi Ta bà, giáo hóa chúng sinh, cùng
hướng về Phật đạo. 5. Trong An lạc tập quyển hạ, Ngài Đạo Xước nêu ra 6 loại
hồi hướng: a). Đem các công đức do mình tu được hồi hướng đức Phật
A di đà cầu sinh về Tịnh độ, để sau khi được 6 thần thông, trở lại thế gian cứu
độ chúng sinh. b). Hồi nhân hướng quả. c). Hồi hạ
hướng thượng. d). Hồi chậm hướng nhanh. e). Hồi hướng
cho chúng sinh bi niệm hướng thiện. g). Hồi hướng
dứt hết tâm phân biệt. [X. Kinh Vô lượng thọ Q.hạ; Vãng sinh luận chú Q.hạ; Hoa
nghiêm Kinh thám huyền kí Q.8]. II. Hồi Hướng. Cũng gọi Thập hồi hướng vị. Mười
giai vị tu hành của Bồ tát. (xt. Bồ tátGiai Vị)- Phật Quang tự điển.
Cụm từ “Tùy hỉ hồi hướng”: Nói nôm
na là thấy người khác làm việc thiện, làm việc có công đức, đem công đức ấy
chia sẻ cho tất cả chúng sanh khác rồi hồi hướng Vô Thượng Chánh đẳng Bồ đề để
thoát khỏi sanh tử mà được Niết bàn. Nếu mình không đủ sức, không đủ phương
tiện để làm như vậy, nhưng lại rất vui mừng hoan hỷ tán thán công đức của những
người đã hồi hướng như vậy. T.B.
(3). Di lặc Bồ tát(Phạm: Maitreya,
Pàli: Metteyya, Hán dịch: Từ thị): Theo Kinh Di lặc thượng sinh và Kinh Di lặc
hạ sinh chép, thì Ngài Di lặc sinh ra trong một gia đình Bà la môn, sau xuất
gia tu Phật và nhập diệt trước đức Phật, mang thân Bồ tát trụ ở cõi trời Đâu
suất, giảng pháp cho các trời ở cõi này. Theo truyền thuyết thì vị Bồ tát này
vì muốn giáo hóa thành tựu cho chúng sinh nên ngay từ lúc mới phát tâm đã không
ăn thịt, do nhân duyên ấy mà có tên là Từ thị. Đại nhật Kinh sớ quyển 1 nói, Bồ
tát Từ thị là lấy Từ trong bốn tâm vô lượng của Phật làm đầu. Lòng từ đó sinh
ra từ hạt giống Như lai, khiến hết thảy thế gian không mất tính Phật, cho nên
gọi là Từ thị. Đức Thích Tôn từng thọ ký cho Bồ tát Di Lặc, hết thời kỳ loài
người sống lâu 4000 tuổi (ước chừng 57 tỉ 6o triệu năm nữa), Bồ tát Từ Thị sẽ
giáng sanh xuống cõi này thành Phật dưới gốc cây Long hoa, chia làm ba hội
thuyết pháp, độ vô số chúng sanh. Trong thực tế, Phật tử đã tôn xưng Di Lặc Bồ
tát là Phật và gọi là Di lặc Như lai, mặc dầu Ngài chỉ là Bồ tát bổ xứ, đang
thuyết pháp tại cung trời Đâu suất. Các Kinh thuộc về Di Lặc Bồ tát gồm Di Lặc
bổn Kinh, Di Lặc thượng sanh Kinh, Di Lặc hạ sanh Kinh, Di Lặc đại thành Phật
Kinh.
(4). Sở duyên: Thức không thể tự
sinh khởi nếu không có đối tượng, hay là cảnh giới khách quan. Đối tượng hay
cảnh giới khách quan của thức, gọi là sở duyên. Đối lại là năng duyên: Tâm và
tâm sở gọi là năng duyên, tính của tâm và tâm sở pháp là yếu ớt, phải nương vào
phương tiện mới sinh khởi, cũng giống như người bị liệt chân, không có gậy
không thể đi được. Trong thí dụ này, có thể nói “người tật nguyền” là năng
duyên, sở duyên là “gậy”.
(5). Phan duyên: Nương theo, vịn
theo các duyên. Ví như nhân một chuyện này mà nghĩ đến các chuyện khác, lại đến
các chuyện khác nữa, như cây leo bò vịn vào rào dậu leo mãi không ngừng, gọi là
phan duyên. Tâm ý nương theo sáu trần làm duyên, nẩy sanh những ý tưởng suy
xét, mưu tính mãi mãi không dừng, gọi là phan duyên.
(6). Sở thủ: (Skt:Grahya) Cái bị nắm
lấy hay cái bị nhận thức. (Từ điển Phật học Việt Anh - Thiện Phúc)
(7). Thiện căn: Căn lành, hạnh lành
là cội gốc sanh ra quả lành, nên gọi là thiện căn như ba tính vô tham, vô sân,
vô si là thể của thiện căn, gọi chung là tam thiện căn. Còn bất thiện căn tương
phản với thiện căn là tham, sân, si thì gọi là tam bất thiện căn hay là Tam
độc.
(8). Tâm tận diệt ly biến:
Bản dịch chính của HT Thích Trí Nghiệm đăng trong tuvienquangduc.com dịch là “tâm
tận diệt ly biến”. Bản dịch đã củ soát của một nhóm Tỳ kheo và các cư sĩ đăng
trong thuvienhoasen.org cũng dịch là “tâm tận diệt ly biến”. Bản gốc bằng chữ
Hán đăng trong hoavouu.com ghi bằng chữ Hán có phụ âm là “心tâm 盡tận 滅diệt 離ly 變biến”, nghĩa là tất cả các bản dịch trên giữ y
nguyên văn, không dịch gì cả. Nếu dùng lối chiết tự để giải thích riêng rẽ bốn
từ này thì: Tận(盡) là hết,
không còn gì; Diệt(滅) là tan
mất; Ly(離) là lìa; Biến(變): là biến mất, biến hoại.
- Phẩm “Tùy Hỷ Hồi Hướng”, quyển
432, Hội thứ II, ĐBN dịch “tâm tận diệt ly biến” là “diệt tận ly biến”, dịch
như không dịch;
- Phẩm “Tùy Hỉ Hồi Hướng” Hội thứ
III, ĐBN dịch là “tâm hết diệt lìa biến”. Dịch như vậy xác nghĩa nhưng rất khó
hiểu, nhưng rất phù hợp với Kinh văn.
- Phẩm 6: “Tùy Hỷ Hồi Hướng”, Kinh “Phật
Mẫu Bát Nhã”, do Thí Hộ dịch từ Phạn sang Hán và Thầy Thích Từ Chiếu dịch từ
Hán sang Việt, dịch tận diệt ly biến là tận, diệt, ly;
- Phẩm “Tùy Hỷ”, cuối quyển 12, Kinh
MHBNBLMĐ do Ngài La Thập dịch từ Tạng sang Hán và HT Thích Trí Tịnh dịch từ Hán
sang Việt, dịch tận diệt ly biến là tận diệt biến ly.
Để giải thích chung cho 5 Hội cụm từ
“tận diệt ly biến” bằng chữ Hán, Phẩm 6: “Tùy Hỷ Hồi Hướng”, Kinh “Phật Mẫu
Bát Nhã”, do Thí Hộ dịch từ Phạn sang Hán, Thầy Thích Từ Chiếu dịch tận diệt ly
biến là “tận diệt ly” với ý nghĩa như sau: “Lại nữa, nếu các Bồ tát Ma ha tát lấy tâm có sở đắc mà hồi
hướng, thì tâm này chính là tận, chính là diệt, chính là ly. Tâm tận, diệt đó
không thể hồi hướng”.
Nếu tâm còn sở đắc thì "hết
thuốc chữa" nên không thể hồi hướng. Tâm chỉ có thể hồi hướng phải là tâm
không còn năng sở, nắm bắt, không còn phân biệt chấp đắm, thủ giữ thì mới có
thể gọi là hồi hướng chân thật. Đó là lối giải thích của chúng tôi, không biết
có đúng với ý của Quý vị hay không?
(9). Tín giải: 1- Tin và hiểu giáo
lý. Có cả niềm tin và thông hiểu Phật pháp, niềm tin chân chính, niềm tin trọn
vẹn (s: adhimukti)- Theo Kinh Pháp Hoa. 2- Tin vào chính mình và người khác. 3-
Niềm hân hoan, phát sinh do tâm mình tin nhất định sẽ được giác ngộ. (Từ điển
Phật học Anh-Hán-Việt).
(10). Nhị pháp, bất nhị pháp: Thử
kiểm điểm lại từ lúc bắt đầu tụng đọc Đại Bát Nhã tới đây, giáo pháp nào được
nhắc đến nhiều nhất? Có thể nói đó là nhị pháp: Hữu tướng - vô tướng, hữu sở
đắc - vô sở đắc, hữu nhiễm - vô nhiễm v.v… Có hàng ngàn từ diễn tả về pháp đối
đãi này trong ĐBN. Bất nhị pháp (hay pháp môn bất nhị): Không hữu - không vô
nghĩa là chẳng phải có - cũng chẳng phải không, chẳng phải hữu sở đắc - cũng
chẳng phải vô sở đắc… Con người chỉ thích “lý sự” giữa cái đúng hay sai, tốt
hay xấu, sang hay hèn, rộng hay hẹp… Ai nói ngược lại thì chống đối, giận hờn,
ghét bỏ... Nhưng họ không hiểu và cũng không cần hiểu, chính tâm thương ghét,
phân biệt đó là con đường dẫn đến trầm luân không bao giờ dứt. Vì sao? Vì nó
không phải là đại bi tâm, mà chỉ là tật đố. Muốn thoát khỏi bế tắt đó thì phải
chuyển thức thành trí, và trí chỉ thành tựu khi nào thức vọng phân biệt ngủ
yên.
Lược giải:
Kinh nói:
- “Cụ thọ Thiện Hiện hỏi Bồ tát Di
lặc: Nhưng nếu đại Bồ tát lấy quả vị Giác ngộ tối cao làm sở duyên mà tùy hỷ
hồi hướng tức sanh tâm duyên nơi sự thì chỗ nghĩ tưởng như thế có được
như ý muốn chăng?
Bồ tát Di Lặc trả lời Thượng tọa
Thiện Hiện: Nếu đại Bồ tát có tâm phan duyên như vậy tức là có sở thủ, tức
trụ tưởng điên đảo, như thế không thể được như ý muốn. Nếu đại Bồ tát từ
lâu tu hành sáu phép Ba la mật, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, đời trước
đã từng trồng thiện căn, từ lâu phát đại nguyện, lại được các thiện hữu nhiếp
thọ, khéo học nghĩa không của tự tướng các pháp, thì đại Bồ tát này đối với sở
duyên chẳng khởi tâm thủ tướng, nếu chẳng khởi tâm thủ tướng thì có khả năng
phát khởi sự tùy hỷ hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao. Tùy hỷ hồi hướng như thế
là do dùng phi nhị - phi bất nhị làm phương tiện; phi tướng - phi vô tướng làm
phương tiện; phi hữu sở đắc - phi vô sở đắc làm phương tiện; phi nhiễm - phi
tịnh làm phương tiện; phi sanh - phi diệt làm phương tiện. Vì vậy, đối với sở
duyên cho đến quả vị Giác ngộ tối cao chẳng thủ tướng; vì chẳng thủ tướng nên
chẳng trụ tưởng điên đảo”.
- “Nếu đại Bồ tát dùng thủ tướng
làm phương tiện tu hành Bát nhã Ba la mật, đối với tất cả công đức thiện
căn của Phật và đệ tử ấy, giữ lấy tướng tùy hỷ hồi hướng quả vị Giác ngộ tối
cao, thì đó là chẳng phải thiện tùy hỷ hồi hướng. Do nhân duyên này mà
bị rơi vào tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo. Ngược lại, nếu đại Bồ
tát, chẳng dùng thủ tướng làm phương tiện tu hành Bát Nhã đối với tất cả
công đức thiện căn của Phật và đệ tử ấy, lìa tướng tùy hỷ hồi hướng quả vị Giác
ngộ tối cao, thì đó gọi là thiện tùy hỷ hồi hướng. Do nhân duyên này, đại Bồ
tát ấy tùy hỷ hồi hướng lìa được tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo”.
- “Sự tùy hỷ hồi hướng đã nói như
thế, là dùng hữu sở đắc, thủ tướng phân biệt làm phương tiện, như thức ăn lẫn
chất độc, trước lợi sau hại, cho nên đây chẳng phải là thiện tùy hỷ hồi hướng.
Vì sao? Vì dùng hữu sở đắc, thủ tướng phân biệt mà phát khởi tâm tùy hỷ hồi
hướng, có nhân, có duyên, có tác ý, có hý luận, chẳng tương ưng Bát nhã Ba la
mật, vì nó có lẫn chất độc, tức là hủy báng Phật, chẳng theo lời Phật dạy,
chẳng theo pháp đã nói. Bồ tát chủng tánh Đại thừa chẳng nên theo lập thuyết
kia mà tu học”.
- “Lúc bấy giờ,
Thế Tôn khen cụ thọ Thiện Hiện: Hay thay! Thiện Hiện! Nay ông đã làm việc Phật
làm, đó là vì đại Bồ tát v.v... mà khéo nói tùy hỷ hồi hướng không điên đảo. Sự
tùy hỷ hồi hướng đã nói như thế là dùng vô tướng làm phương tiện, vô sở đắc làm
phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô diệt làm phương tiện, vô nhiễm làm
phương tiện, vô tịnh làm phương tiện, tự tướng không làm phương tiện, tự tánh
không làm phương tiện, vô tánh tự tánh không làm phương tiện, chơn như làm
phương tiện, pháp giới làm phương tiện, pháp tánh làm phương tiện, tánh chẳng
hư vọng làm phương tiện, thật tế làm phương tiện”. Đó là mấu chốt giáo
lý của phẩm này.
Từ những dẫn chứng trên, có thể giúp
chúng ta rút ra các kinh nghiệm cho sự tùy hỷ hồi hướng như sau:
1- Hồi hướng mà nắm lấy tướng là hồi
hướng có sở đắc, không được coi là thiện hồi hướng. Vì tâm tùy hỷ hồi hướng
như vậy là vọng tưởng phân biệt, xen lẫn chất độc... Còn hồi hướng chân
chính, tức không nắm lấy tướng, không phân biệt thì được hưởng phước vô
lậu không gì bằng. Phẩm “Tùy Hỷ Hồi Hướng”, quyển 171, ĐBN, nói: “Hồi hướng chân chính là dùng vô
tướng làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô
diệt làm phương tiện, vô nhiễm làm phương tiện, vô tịnh làm phương tiện, tự
tướng không làm phương tiện, tự tánh không làm phương tiện, vô tánh tự tánh
không làm phương tiện…”. Hồi hướng như thế là chân chánh không gì bằng nên
nói là hơn tất cả các sự hồi hướng khác gấp trăm ức lần, vạn ức lần, gấp bội
số, bội toán, bội tính, bội dụ cho đến bội cực số… Vì vậy nên Phật nói sự phát
khởi tùy hỷ hồi hướng như thế là tối thắng, là tôn quí, là vi diệu, không gì
hơn.
2- Tùy hỷ không năng sở, hồi hướng
cũng không năng sở. Tùy hỷ hồi hướng mà còn thấy ngã, tức có tưởng điên
đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo, đó là năng tùy hỷ. Tùy hỷ mà duyên sự bên
ngoài: Lấy công đức, lấy chứng đắc để tùy hỷ, đó là sở tùy hỷ. Vì lấy năng sở
tùy hỷ tức lấy nhị pháp làm phương tiện, đó là chấp trước.
Nên công đức tùy hỷ hồi hướng không có ý nghĩa. Tùy hỷ hồi hướng chỉ có ý nghĩa
khi nhận thức rằng:
“Tự tánh của tất cả các pháp đều không, trong cái không hoàn toàn không
có pháp năng, sở tùy hỷ hồi hướng. Tuy biết như vậy, mà luôn luôn tùy hỷ hồi
hướng quả vị Giác ngộ tối cao; đại Bồ tát ấy, hoặc luôn luôn tùy hỷ hồi hướng
như thế, mà tu hành Bát Nhã, tu hành tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố
thí Ba la mật, không có tưởng điên đảo, không có tâm điên đảo, không có kiến
điên đảo. Vì sao? Vì đại Bồ tát ấy, đối với tâm tùy hỉ chẳng sanh chấp trước,
đối với thiện căn công đức tùy hỷ cũng chẳng chấp trước; đối với tâm hồi hướng
chẳng sanh chấp trước, đối với sở hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao cũng chẳng
chấp trước. Do không chấp trước nên chẳng rơi vào điên đảo. Đại Bồ tát đã khởi
tâm tùy hỷ hồi hướng như thế gọi là sự tùy hỷ hồi hướng vô thượng”(1).
3- Vấn đáp giữa Thiện Hiện với
Thiên Đế Thích trong phẩm “Thiên Đế” quyển 77, Hội thứ I, ĐBN, cho thấy thái
độ của hành giả Bát Nhã phải có giữa tâm hồi hướng và tâm Bồ đề (tâm giác
ngộ) như sau:
“Tâm hồi hướng của đại Bồ tát chẳng hòa hiệp với tâm Bồ đề; tâm Bồ đề
chẳng hòa hiệp với tâm hồi hướng; tâm hồi hướng ở trong tâm Bồ đề vô sở hữu, chẳng
thể nắm bắt được; tâm Bồ đề ở trong tâm hồi hướng vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt
được. Đại Bồ tát tuy quán các pháp, nhưng đối với các pháp hoàn toàn không có
sở kiến, vô năng thủ thì này Kiều Thi Ca, đó là Bồ tát Bát nhã Ba la mật.
Thiên Đế Thích hỏi Thiện Hiện: Bạch Đại đức! Thế nào là tâm hồi hướng
của đại Bồ tát chẳng cùng với tâm Bồ đề hòa hiệp? Thế nào là tâm Bồ đề chẳng
cùng tâm hồi hướng hòa hiệp? Thế nào là tâm hồi hướng ở trong tâm Bồ đề vô sở
hữu, chẳng thể nắm bắt được? Thế nào là tâm Bồ đề ở trong tâm hồi hướng, vô sở
hữu, chẳng thể nắm bắt được?
Thiện Hiện trả lời: Kiều Thi Ca! Tâm hồi hướng của đại Bồ tát là phi
tâm, tâm Bồ đề cũng phi tâm; nếu là phi tâm thì bất khả tư nghì, chẳng lẽ phi
tâm lại hồi hướng phi tâm, cũng chẳng lẽ phi tâm lại hồi hướng bất khả tư nghì!
Chẳng lẽ bất khả tư nghì lại hồi hướng bất khả tư nghì! Cũng chẳng lẽ bất khả
tư nghì lại hồi hướng phi tâm! Vì sao? Vì phi tâm tức là bất khả tư nghì, bất
khả tư nghì tức là phi tâm. Như vậy, hai thứ đều vô sở hữu, vì trong cái vô sở
hữu, không có hồi hướng”.
Đó là chỗ tột cùng của hồi hướng. Như vậy, hồi hướng có ý nghĩa chân
chánh là tâm hồi hướng và tâm giác ngộ phải là tâm không (phi tâm). Tâm không
là rỗng không, vô sở hữu, bất khả đắc, không năng không sở, không còn chủ khách,
không phân biệt. Hay nói khác là hồi hướng mà không thấy có người hồi hướng,
không có pháp để hồi hướng, không có chỗ (đối tượng) hồi hướng. Đó là hồi hướng
thanh tịnh, nên gọi là chân hồi hướng!
4- Nếu thiện nam, thiện nữ đối với các
pháp quá khứ, vị lai, hiện tại mà chẳng thủ, chẳng xả, chẳng nhớ chẳng phải
chẳng nhớ, chẳng được chẳng phải chẳng được. Trong các pháp đó cũng chẳng có
pháp sanh diệt, cấu tịnh, tăng giảm, lai khứ, hiệp tán, nhập xuất và cũng không
dùng nhị pháp, chẳng nắm lấy... cùng chúng sanh tùy hỷ hồi hướng Vô thượng Bồ
đề. Đây là sự tùy hỷ đệ nhất hơn hết, vi diệu vô thượng, không gì bằng “nhưng phải
quan niệm rằng tùy hỷ đồng đẳng với giải thoát; hồi hướng chư Phật cũng
đồng đẳng với giải thoát”(2). Đem những thiện căn nầy tùy hỷ hồi hướng Vô
thượng Bồ đề. Bồ tát tùy hỷ công đức như thế thời mau được Vô thượng Bồ đề.
Thích nghĩa cho phần lược giải này:
(1). Phẩm “Tùy hỷ Hồi Hướng” quyển
169, Hội thứ I, ĐBN.
(2). “Giải thoát” có nghĩa là vượt
qua mọi hệ lụy, mọi câu thúc thế gian (do chính mình tạo ra hay do hoàn cảnh
chung quanh ràng buộc). Phẩm “Tùy Hỷ” quyển 12, MHBNBLMĐ.
---o0o---