Nguồn: https://quangduc.com/
PHẨM “KHEN NGỢI THANH TỊNH”.
Quyển 285 đến phần đầu quyển 287, Hội thứ I, ĐBN.
(Tương đương với quyển thứ 13, phẩm “Thán Tịnh”, MHBNBLMĐ)
Tóm
lược:
Bấy giờ, cụ
thọ Xá lợi Tử thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Thanh tịnh như thế rất là thẳm sâu?
Phật nói: Như vậy, vì rốt ráo tịnh vậy.
Xá lợi Tử
nói: Pháp nào rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu? Phật nói:
Xá Lợi Tử! Sắc rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu; thọ
tưởng hành thức rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá
Lợi Tử! Mười hai xứ rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá
Lợi Tử! Mười tám giới rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu.
Xá Lợi Tử!
Địa giới rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu; thủy hỏa phong
không thức giới (ngũ đại chủng) rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất
là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Vô minh hành, thức, danh, sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái,
thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não (thập nhị nhân duyên) rốt ráo
tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Bố thí Ba la mật, tịnh
giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật rốt ráo tịnh, nên
nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Nội không, ngoại không, nội
ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi
không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh
không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không,
vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không (18 pháp không) rốt
ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu.
Xá Lợi Tử!
Chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng
tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì
giới (thập nhị chân như) rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là
thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Khổ Thánh đế, tập diệt đạo Thánh đế (tứ Thánh đế)
rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Bốn tĩnh lự, bốn
vô lượng, bốn vô sắc định rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm
sâu. Xá Lợi Tử! Tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ
rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ,
bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, bảy đẳng giác chi, tám Thánh đạo chi (37
pháp trợ đạo) rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi
Tử! Không giải thoát môn, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn (tam giải thoát
môn) rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu.
Xá Lợi Tử!
Bồ tát thập địa rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi
Tử! Năm nhãn, sáu thần thông rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm
sâu. Xá Lợi Tử! Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi,
đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh
đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả rốt ráo
tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Nhất thiết trí, Đạo
tướng trí, Nhất thiết tướng trí rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là
thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Tất cả Đà la ni môn, tất cả Tam ma địa môn rốt ráo tịnh,
nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu.
Xá Lợi Tử!
Quả Dự lưu, quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh
đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Độc giác Bồ đề, tất cả hạnh Bồ tát, chư Phật Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. (Nghĩa
là tất cả pháp Phật rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm
sâu).
Xá Lợi Tử! Sự thanh tịnh như vậy rất trong
sáng(1). Vì 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất trong sáng. Ngũ đại chủng, thập nhị nhân duyên, lục Ba la mật, 18 pháp không rốt ráo tịnh, nên nói
thanh tịnh đấy rất trong sáng. Xá lợi Tử! Thập nhị chân như, Tứ đế, 37 pháp trợ
đạo, Tam giải thoát môn rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất trong sáng. Xá
Lợi Tử! Bồ tát thập địa, Năm nhãn, sáu thần thông, Phật mười lực, bốn vô sở úy,
bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng,
Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết
tướng trí rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất trong sáng. Xá Lợi Tử! Quả
Dự lưu, quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ Đề, tất cả hạnh Bồ tát,
chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất
trong sáng.
Xá Lợi Tử! Sự thanh tịnh như vậy không
chuyển, không nối. Vì ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới rốt ráo tịnh, nên nói sự
thanh tịnh ấy không chuyển, không nối. Ngũ đại chủng, thập nhị nhân duyên, lục Ba
la mật, 18 pháp không
rốt ráo tịnh, nên nói sự thanh tịnh ấy không chuyển, không nối. Xá Lợi Tử! Thập nhị chân như, tứ
Thánh đế, 37 pháp trợ đạo, Tam giải thoát môn, năm nhãn, sáu thần thông, Phật
mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười
tám pháp Phật bất cộng, Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả, Nhất thiết trí,
Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí rốt ráo tịnh, nên nói sự thanh tịnh
ấy không chuyển, không nối. Xá
Lợi Tử! Quả Dự lưu, quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, tất cả
hạnh Bồ tát, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rốt ráo tịnh, nên nói
sự thanh tịnh ấy không chuyển, không nối.
Xá Lợi Tử! Sự
thanh tịnh như thế vốn không tạp nhiễm. Vì ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới, ngũ
đại, thập nhị nhân duyên, lục Ba la mật, 18 pháp không, Thập nhị chân như, tứ Thánh đế, 37 pháp trợ
đạo, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám
pháp Phật bất cộng cho đến Nhất thiết chủng trí rốt ráo tịnh nên nói sự
thanh tịnh ấy vốn không tạp nhiễm. Xá Lợi Tử! Quả Dự lưu, quả Nhất lai... cho đến chư Phật Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề rốt ráo tịnh, nên nói sự thanh tịnh ấy vốn không tạp nhiễm.
Xá Lợi Tử! Sự
thanh tịnh như thế bản tánh thanh khiết. Vì ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới, ngũ
đại, thập nhị nhân duyên, lục Ba la mật, 18 pháp không, Thập nhị chân như, tứ Thánh đế, 37 pháp trợ
đạo, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám
pháp Phật bất cộng cho đến Nhất thiết chủng trí rốt ráo tịnh, nên nói sự
thanh tịnh ấy bản tánh thanh khiết. Xá Lợi Tử! Quả Dự lưu, quả Nhất lai... cho đến chư Phật Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề rốt ráo tịnh, nên nói sự thanh tịnh ấy bản tánh thanh khiết.
Xá Lợi Tử! Sự
thanh tịnh như thế vô đắc, vô quán. Sự thanh tịnh như vậy không sanh
khởi, không hiển hiện. Sự thanh tịnh như thế không sanh cõi Dục, cõi Sắc,
hay vô Sắc vì tự tánh các cõi kia không thể nắm bắt được.
Xá Lợi Tử! Sự
thanh tịnh như thế bản tánh vô tri, vì tất cả pháp bản tánh trì độn, nên
sự thanh tịnh như thế bản tánh vô tri.
Tánh của sắc vô tri tức là thanh tịnh. Tánh của thọ,
tưởng, hành, thức, tứ thiền,
tứ vô lượng, tứ định vô sắc… tất cả các thiện pháp vô tri tức là thanh
tịnh. Vì tự tướng là không nên tánh của chúng vô tri tức là thanh
tịnh.
Xá Lợi Tử! Bát
nhã Ba la mật đối với Nhất thiết trí không ích, không tổn. Như vậy là
rốt ráo tịnh. Vì pháp giới thường trú nên Bát nhã Ba la mật đối với Nhất thiết
trí không ích, không tổn.
Xá Lợi Tử! Vô
nhị thanh tịnh nên vô đắc, vô quán. Vì không nhiễm không tịnh (tức
không phải nhị pháp) nên rốt ráo tịnh.
Xá Lợi Tử! Vì
ngã thanh tịnh nên sắc thanh tịnh. Vì sắc thanh tịnh nên thọ, tưởng, hành, thức
thanh tịnh. Vì ngã vô sở hữu nên sắc, thọ, tưởng, hành, thức vô sở hữu
là rốt ráo tịnh. Mười hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ định, tứ Thánh đế, thập
nhị nhân duyên, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cũng vô sở hữu nên rốt ráo tịnh.
Ngã thanh tịnh nên Nhất thiết trí thanh tịnh. Vì ngã vô
tướng, vô đắc, vô niệm, vô tri nên Nhất thiết trí vô tướng, vô đắc, vô
niệm, vô tri là rốt ráo tịnh.
Ngã không biên giới nên sắc thọ, tưởng, hành, thức không biên
giới. Mười hai xứ, mười tám giới… tất cả các thiện pháp không biên giới. Vì
rốt ráo là không, không biên giới cũng không nên rốt ráo tịnh.
Xá Lợi Tử! Nếu
đại Bồ tát có khả năng hiểu biết như vậy thì đó là đại Bồ tát Bát nhã Ba la mật.
Vì rốt ráo là không, không biên giới là không, tức thành đạo tướng trí.
Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật mà không trụ bờ bên này,
không trụ bờ bên kia, không trụ giữa dòng thì đó là đại Bồ tát Bát nhã Ba la
mật. Vì pháp tánh ba đời, bình đẳng, tức là thành đạo tướng trí.
Phẩm “Khó Tin Hiểu” vừa tụng trên, dài 103 quyển hơn ngàn
trang sách đánh máy cở lớn đã nói quá nhiều về thanh tịnh này rồi. Ở đây chỉ
giải thích thêm thế nào là thanh tịnh và phẩm kế tiếp nữa là “Thuyết Tướng Bát
Nhã” lại thuyết về thanh tịnh. Vì vậy, chúng tôi nói không những pháp môn thanh
tịnh là pháp môn quan trọng trong việc tu tập Bát Nhã mà còn là pháp môn quan
trọng trong việc tu Phật đối với tất cả các tông phái.
Thích nghĩa:
(1). HT Thích Trí Nghiêm dịch là minh liễu.
Lược
giải:
1. Khen
tịnh:
Sự thanh tịnh rất sâu xa, rất trong sáng, không chuyển
không nối, vốn không tạp nhiễm, bản tánh thanh khiết. Sự thanh tịnh như thế vô
đắc, vô quán. Sự thanh tịnh như vậy không sanh khởi, không hiển hiện. Sự thanh
tịnh như thế bản tánh vô tri. Vì sao? Vì tất cả pháp vô tri, trì độn, nên chúng
trơ lì ra đó. Vì các pháp không tự biết nó, các pháp cũng không biết các pháp
khác, tự tướng rỗng không, nếu có thấy biết như vậy thì tâm được thanh tịnh.
Biết hay không là ở con người. Để phân biệt pháp này với
pháp nọ, nên đặt tên cho nó. Từ khi có tên, có danh sắc, thì nó không còn là nó
nữa. Bây giờ, nó trở thành lớn nhỏ, vuông tròn, đẹp xấu... Đó là lỗi của con
người người, không phải ở pháp. Hãy trả lại cái bản nguyên của thuở ban đầu cho
chính nó thì đâu đâu cũng toàn một màu xanh thanh tịnh như nhau.
2. Thế
nào gọi là rốt ráo tịnh?
Ta có thể lấy cuộc đối thoại giữa Phật và Tu Bồ Đề ở phẩm
“Thuyết Tướng Bát Nhã” quyển 293, Hội thứ I, ĐBN. Cụ thọ Thiện Hiện bạch
Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Di Lặc Bồ tát khi được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề chứng những pháp nào? Và nói những pháp nào?
Phật nói: “Thiện Hiện! Di Lặc Bồ tát khi được Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề chứng pháp sắc rốt ráo tịnh, nói pháp sắc rốt ráo tịnh.
Chứng pháp thọ tưởng hành thức rốt ráo tịnh, nói pháp thọ tưởng hành thức rốt
ráo tịnh. Chứng pháp thập nhị xứ rốt ráo tịnh, nói pháp thập nhị xứ rốt ráo
tịnh. Chứng pháp thập bát giới rốt ráo tịnh, nói pháp thập bát giới rốt ráo
tịnh. Chứng tất cả pháp Phật rốt ráo tịnh, nói tất cả pháp Phật rốt ráo tịnh”.
Rốt ráo tịnh có nghĩa là đối với uẩn xứ giới và tất cả
pháp “tâm như như bất động”. Tâm như như bất động là đối với trần cảnh không có
sở đắc, không cảm thọ,
không trụ, không chấp. Có trụ, có chấp... là có dính mắc, có trói buộc là có phiền não. Khi tâm không còn
phân biệt, vô sở đắc,
vô sở trụ... đó là tâm
không hay còn gọi là vô tri, vô thức, vô niệm, vô tâm. Bát nhã Ba la mật còn
gọi là Tánh Không, chủ trương tâm không tức dùng diệu quán “vô sở đắc”, diệu huệ “vô sở trụ” làm phương tiện
để sanh tâm thanh tịnh. Mục đích là quét sạch tất cả những dây mơ rễ má, những
thói quen, tập tục còn vướng bận trong tâm thức để con người được rỗng rang tự
tại.
Khi đạt đến trình độ nầy thì tâm thể hoàn toàn vắng lặng.
Lúc đó không có nghĩa là người tu biến thành gỗ đá. Thiền sư Khuê Phong tức tôn
giả Tông Mật nói: “Tâm có lặng thì linh chi mới mở”. Khi tâm thể tuyệt
đối vắng lặng, người ta tin tưởng là huệ (trí Bát Nhã trong sạch, nhiệm mầu)
xuất hiện, một thứ ánh sáng vi diệu phát chiếu sau cái “trống không” đó.
Vì vậy, Ngũ đạo pháp môn của Kinh Đại thừa Bắc Thiền
nói rằng:
1-
Phật giác ngộ và giác ngộ là không móng tâm.
2-
Khi tâm bất động, các giác quan yên lặng và trong trạng thái tĩnh lặng đó
cánh cửa trí tuệ vô thượng sẽ hé mở.
3-
Trí tuệ vô thượng khai mở dẫn đến khai phóng một cách vi diệu thân và tâm. Tuy
nhiên đây không phải là Niết bàn tịch tĩnh của Tiểu thừa, bởi vì trí tuệ vô
thượng do chư Bồ tát chứng đắc đòi hỏi các cảm thức tuy có hoạt động nhưng
không dính mắc.
4-
Tính hoạt động không dính mắc nầy nghĩa là không kẹt vào nhị nguyên đối đãi
giữa thân và tâm, nơi đó hội được thật tướng các pháp.
5-
Rốt cuộc đây là con đường của Nhất tính, dẫn đến giới sự của Như thị không ngăn
ngại, không sai biệt. Đó là giác ngộ. (1)
Nên, Kinh nói: “Ngã không biên giới nên sắc thọ,
tưởng, hành, thức không biên giới. Mười hai xứ, mười tám giới… tất cả các thiện
pháp không biên giới. Vì rốt ráo là không, không biên giới cũng không nên
rốt ráo tịnh.
(...) Nếu
đại Bồ tát có khả năng hiểu biết như vậy thì gọi đó là đại Bồ tát Bát nhã Ba la
mật. Vì rốt ráo là không, không biên giới là không, tức thành đạo tướng trí”.
Nhưng đó
chỉ là những diễn tả có tính cách
khuôn sáo. Nói một cách đơn giản và ngắn gọn hơn như Huyền Sa “Bản
nhiên thanh tịnh tức là cái tịch lặng an nhiên trong hiện tại”. Vậy, thanh
tịnh ngoài sắc trần không nhiễm ô, không sanh diệt, không trụ chấp, không trói
buộc, không dính mắc… còn có một ý nghĩa tuyệt đối là chân, một siêu thức
được coi là trí tuệ vô thượng phát chiếu.
Tới đây không còn phân biệt, chấp trước nữa. Mọi hiện hữu
bây giờ được phơi bày “như thị”, tất cả tánh tướng thể dụng đều bình đẳng, và
cái bình đẳng đó chính là cái tịch lặng an nhiên trong cuộc sống hiên tại. Bình
đẳng đó Bát Nhã gọi là thanh tịnh và người đạt được thanh tịnh cũng chính là
Như Lai. Vì Như Lai là giải thoát, Như Lai là Niết bàn. Giải thoát và Niết bàn
cũng gọi tịch tĩnh, cái tịch lặng an nhiên. Tất cả các từ đó đều ẩn dụ về cái
thanh tịnh này!
Kết
luận:
Tu hành là gì nếu không phải là luyện tâm, luyện trí?
Luyện tâm là kỹ thuật hành trì để đưa tâm thể đạt đến chỗ an nhiên tịch lặng: Giới
là hàng rào ngăn chận tội lỗi từ ngoài vào, nếu giữ được giới thì tâm được
thanh tịnh; Định là ngăn chận những dao động bên trong tức gạt bỏ vọng
niệm, tâm sẽ như như bất động. Tới đó thì linh chi sẽ mở, linh chi tức là Huệ,
một khi khai mở thì chứng đạo, được giải thoát hay đạt Niết bàn! Tam vô lậu học
đó chính là kỹ thuật luyện tâm luyện trí tối cao, ngoài kỹ thuật đó không còn
kỹ thuật nào khác!
Thích nghĩa cho phần lược giải phẩm “Khen Ngợi Thanh
Tịnh” này:
(1). Trích trong tác phẩm “Vô Niệm” của Thiền sư Suzuki do
Thuần Bạch biên dịch.
---o0o---