PHẨM “HỌC PHƯƠNG TIỆN XẢO”
Quyển 337 đến phần đầu quyển 341, Hội thứ I, ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Ma Sầu” và phẩm “Đẳng Học”, quyển
thứ 21, MHBNBLMĐ)
Tóm
lược:
1.“Ma
sầu”(1)
Phần đầu của quyển 337, phẩm “Học
Phương Tiện Xảo”, Hội thứ I, ĐBN
(Tương đương với phẩm “Ma Sầu” quyển
thứ 21, MHBNBLMĐ)
Bát Nhã như thế vô cùng sâu xa, khó thấy, khó biết, chẳng thể
suy tầm, vượt cảnh suy tầm. Đó là sở chứng của bậc trí tuệ sâu sắc, rốt ráo xa
lìa tất cả phân biệt mới có thể đạt được. Nếu các hữu tình đối với Kinh Bát nhã
Ba la mật sâu xa nầy, thường lắng nghe, thọ trì đọc tụng, rốt ráo thông lợi,
như lý tư duy, y giáo phụng hành, vì người giảng nói mà chẳng xen lẫn các tâm
và tâm sở khác thì nên biết, các hữu tình ấy quyết định thành tựu thiện căn to
lớn.
Giả sử tất cả hữu tình ở châu Thiệm bộ thành tựu công đức nhờ
tu thập thiện đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông
v.v... Lại có thiện nam thiện nữ đối với Kinh điển Bát Nhã sâu xa này, thường
ưa lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy, y giáo phụng hành, vì người
giảng nói thì công đức đạt được của thiện nam hay thiện nữ ấy, đối với công đức
đã thành tựu của các hữu tình trong châu Thiệm bộ nói trên, trăm ngàn lần hơn,
trăm ức lần hơn, trăm triệu lần hơn, kể cả tính đếm, thí dụ.
Nếu có thể so sánh thì nên biết công đức trí tuệ của thiện
nam thiện nữ ấy, chẳng những hơn các loài hữu tình trong châu Thiệm bộ thành
tựu mười thiện nghiệp đạo v.v… mà còn hơn tất cả trời, người, A tu la, hơn cả
Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác; hơn cả Bồ tát xa lìa Bát Nhã và
phương tiện thiện xảo tu hành lục Ba la mật. Vì sao? Vì thiện nam thiện nữ ấy
mau chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, lợi lạc cho vô lượng hữu tình.
Công đức trí tuệ của thiện nam thiện nữ ấy, cũng hơn đại Bồ
tát xa lìa Bát Nhã và phương tiện thiện xảo, an trụ 18 pháp không; an trụ chơn
như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác v.v…; an trụ
Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô
sắc, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… Nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam
thiện nữ ấy, cũng hơn cả Bồ tát xa lìa Bát Nhã và phương tiện thiện xảo tu Bồ
tát hạnh hay tu quả vị Vô Thượng Bồ đề. Vì sao? Vì thiện nam thiện nữ ấy mau
chứng quả vị Giác ngộ tối cao, lợi lạc vô lượng hữu tình.
Thiện nam thiện nữ ấy tức là đại Bồ tát, có khả năng tiếp nối
giống Phật, không để dứt diệt. Đại Bồ tát ấy như thuyết tu hành Bát Nhã, nên
chẳng bao lâu sẽ ngồi tòa Bồ đề, hàng phục ma quân, chứng đắc quả vị Giác ngộ
tối cao, chuyển pháp luân nhiệm mầu, cứu khổ sanh tử to lớn cho tất cả hữu
tình.
Đại Bồ tát ấy như thuyết tu hành Bát nhã Ba la mật sâu xa,
thường học pháp nên học của các chúng đại Bồ tát nên được các Thiên vương,
Thiên đế ở 25 cõi trời Ba mươi, Dạ ma, Đổ sử đa, Lạc biến hóa, Tha hoa tự tại,
trời Phạm chúng, Phạm phụ, Phạm hội, trời Quang, trời Thiểu Quang, trời Vô
lượng quang, trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến…
thống lãnh binh tướng đi đến chỗ vị ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi
khen, và nói: Đại sĩ hay lắm! Nên siêng năng tinh tấn học các pháp nên học của
chúng đại Bồ tát, chớ học hạnh Thanh văn, Độc giác. Nếu học như vậy thì sẽ mau
an tọa tòa Bồ đề mầu nhiệm, chóng chứng quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp
luân, độ vô lượng chúng sanh.
Nên biết, vì Đại Bồ tát ấy như thuyết tu hành Bát Nhã, nên
tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng đại Bồ tát cùng các trời, rồng,
A tu la v.v... thường theo hộ niệm. Do nhân duyên nầy tất cả hiểm nạn, bệnh tật
trong thế gian đều chẳng xâm hại Bồ tát ấy được. Đại Bồ tát ấy như thuyết tu
hành Bát Nhã sâu xa, nên đạt được vô lượng, vô biên công đức đời hiện tại, cũng
như vị lai.
Kinh chia Bồ tát làm hai hạng: Một hạng dễ bị chúng ma khuynh
đảo và một hạng không thể bị ác ma nhiễu loạn được:
Nếu Bồ tát nào đời trước nghe Bát Nhã chẳng tin, chẳng hiểu,
đâm do dự, nghi hoặc rồi sanh tâm phỉ báng, thì Bồ tát ấy khi tu hành Bát Nhã
liền bị ác ma nhiễu loạn. Còn nếu Bồ tát nào đời trước nghe Bát Nhã tâm tin
hiểu sâu sắc, chẳng sanh phỉ báng, thì Đại Bồ tát ấy khi tu hành Bát Nhã chẳng
bị ác ma nhiễu loạn.
Nếu Bồ tát xa lìa thiện hữu tri thức, lại bị các ác hữu chi
phối, chẳng nghe, chẳng tin Bát Nhã; do chẳng nghe, chẳng tin nên chẳng hiểu;
vì chẳng hiểu nên chẳng có thể tu tập; vì chẳng thể tu tập nên chẳng thể thật
chứng Bát nhã Ba la mật thì Bồ tát ấy, khi tu hành Bát Nhã liền bị ác ma nhiễu
loạn. Còn nếu Bồ tát gần gũi thiện hữu, chẳng bị ác hữu ràng buộc, được nghe Bát
Nhã sâu xa, do được nghe nên có thể hiểu rõ; do hiểu rõ nên thường tu tập; do
thường tu tập nên thật chứng Bát Nhã thì Bồ tát ấy, khi tu hành Bát nhã Ba la
mật, không bị ác ma nhiễu loạn.
Nếu Đại Bồ tát xa lìa Bát Nhã, học tập, khen ngợi các pháp
tạp nhiễm thì Bồ tát ấy, khi tu hành Bát Nhã liền bị ác ma nhiễu loạn. Còn nếu
Bồ tát nào gần gũi Bát Nhã chẳng thâu nạp, chẳng khen ngợi pháp tạp nhiễm thì
Bồ tát ấy, khi tu hành Bát nhã Ba la mật sâu xa, chẳng bị ác ma nhiễu loạn.
Nếu Bồ tát ỷ lại vào danh vị được nhiều người biết hay ỷ lại
vào thiện căn công đức của mình, tự khen mình chê người, khinh miệt các Bồ tát
khác. Do tăng thượng mạn, khinh miệt chê bai như vậy mà sanh nhiều phiền não
nên dễ bị ác ma khuyến dụ, khuynh đảo, nhiễu loạn. Trái lại, nếu Bồ tát chẳng ỷ
lại vào thiện căn công đức của mình, thường tinh tấn tu các pháp lành nhưng
chẳng chấp trước tướng của các pháp lành, thì nên biết Bồ tát ấy, khi tu hành Bát
nhã Ba la mật sâu xa, chẳng bị ác ma khuynh đảo, nhiễu loạn.
Nếu Bồ tát cùng với người cầu Thanh văn, Độc giác thừa, Bồ
tát thừa hay Phật thừa hủy nhục, tranh cãi, phỉ báng nhau thì biết đó là
những người xa lìa chánh giác, tiến gần địa ngục, bàng sanh hay quỷ giới. Bọn
người nầy trước sau gì cũng trở thành đồng đảng với ma, nên bọn ma vui mừng. Trái
lại, nếu Bồ tát nào không cùng với thiện nam thiện nữ cầu quả Tam thừa hủy
nhục, tranhcãi, phỉ báng nhau, lại nhắc nhở nhau siêng tu thiện pháp, để mau
chứng đắc Nhất thiết trí, thì nên biết, các Bồ tát ấy khi tu hành Bát nhã Ba la
mật sâu xa, chẳng bị ác ma nhiễu loạn.
Một khi bị ác ma khuynh đảo, khởi tội rồi thì phải bị lưu
chuyển nhiều đời nhiều kiếp, nếu không biết phát lồ sám hối sẽ không có cơ hội
xuất tội. Bằng ngược lại, nếu hồi tâm, tu Bồ tát hạnh chân thật thì cũng có cơ
hội để xuất tội bù lại.
Nói tóm lại, Bồ tát tu chánh hạnh, chẳng lìa Bát Nhã, sớm
chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh giác, thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật
độ, quay xe diệu pháp độ chúng hữu tình được giác ngộ như mình. Do đó, thiện
đạo càng ngày càng tăng trưởng, ác đạo ngày càng giảm đi, ác ma và bè lũ hết
đất dụng võ, trở nên sầu khổ, giãy chết như kẻ trúng phải tên.
2. “Đẳng
học"
Phẩm “Học Phương Tiện Xảo” từ quyển 338 đến quyển 341,
Hội thứ I, ĐBN
(Tương đương với phẩm “Đẳng Học” quyển thứ 21, MHBNBLMĐ).
Các vị đồng tu trên nguyên tắc phải kính trọng lẫn nhau, coi
nhau như thiện tri thức, coi nhau như bạn đồng hội, như kẻ đồng thuyền. Chỗ
học, thời gian học và pháp học của chúng ta và vị ấy, tất cả đều không khác.
Các vị ấy phải học lục Ba la mật, ta cũng phải học; các vị ấy cần phải học 18
pháp không, phải học chơn như, pháp giới, pháp tánh v.v…, ta cũng phải học; các
vị ấy phải học Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn
định vô sắc, ta cũng phải học; các vị ấy phải học tám giải thoát, tám thắng xứ,
chín định thứ đệ, mười biến xứ, 37 pháp trợ đạo, ta cũng phải học; các vị vị ấy
phải học tam giải thoát môn, ta cũng phải học; các vị ấy phải học Nhất thiết
trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí, ta cũng phải học như thế. Các vị ấy
vì chúng sanh nói đạo Bồ đề, tức là bạn lành chơn thật của ta, cũng là thầy ta.
Nếu các vị ấy tạp loạn, điên đảo xa lìa tác ý tương ưng Nhất thiết trí, thì ta
chẳng cùng học với các vị ấy. Trái lại, nếu các vị ấy lìa tạp loạn, điên đảo
chẳng rời tác ý tương ưng Nhất thiết trí, thì ta luôn luôn cùng học. Nếu các vị
ấy luôn luôn học như thế, thì tư lương Bồ đề mau viên mãn. Vì sao? Vì học như
thế thì gọi là đẳng học.
Vì vậy, Kinh nói các pháp nội không, ngoại không, nội ngoại
không, hữu vi không, vô vi không, thắng nghĩa không, tự tướng không, tự tánh
không v.v…cho đến pháp không không tánh tự tánh là tánh bình đẳng của
đại Bồ tát. Các đại Bồ tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là đẳng học. Do
cái học bình đẳng đó, nên mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao. (Q.338, ĐBN)
Sắc và tự tánh không của sắc là tánh bình đẳng của Bồ tát;
thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh không của thọ, tưởng, hành, thức là tánh bình
đẳng của Bồ tát. Các đại Bồ tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là đẳng học.
Do cái học bình đẳng đó, nên mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao. 12 xứ và tự
tánh không của 12 xứ; 18 giới và tự tánh không của 18 giới là tánh bình đẳng
của Bồ tát... cho đến tất cả pháp Phật và tự tánh không của tất cả pháp Phật là
tánh bình đẳng của Bồ tát. Các đại Bồ tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là
đẳng học. Do cái học bình đẳng đó, nên mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao.
Phật bảo Thiện Hiện:
- Này Thiện Hiện! Như ông đã hỏi là, nếu đại Bồ tát vì sự tận
của sắc mà học, là học Nhất thiết trí chăng? Vì sự ly của thọ, tưởng,
hành, thức mà học, là học Nhất thiết trí chăng? Nếu đại Bồ tát vì sự xa lìa
của sắc mà học, là học Nhất thiết trí chăng? Vì sự xa lìa của thọ, tưởng, hành,
thức mà học, là học Nhất thiết trí chăng? Nếu đại Bồ tát vì sự diệt của
sắc mà học, là học Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt của thọ, tưởng, hành, thức
mà học, là học Nhất thiết trí chăng? Nếu đại Bồ tát vì sự vô sanh của
sắc mà học, là học Nhất thiết trí chăng? Vì sự vô sanh của thọ, tưởng, hành,
thức mà học, là học Nhất thiết trí chăng? Nếu đại Bồ tát vì sự vô diệt
của sắc mà học, là học Nhất thiết trí chăng? Vì sự vô diệt của thọ, tưởng,
hành, thức mà học, là học Nhất thiết trí chăng? Nếu đại Bồ tát vì bản lai
tịch tịnh(2) của sắc mà học, là học Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch
tịnh của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học Nhất thiết trí chăng? Nếu đại Bồ
tát vì tự tánh Niết bàn của sắc mà học, là học Nhất thiết trí chăng? Vì
tự tánh Niết bàn của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học Nhất thiết trí
chăng? Thì này Thiện Hiện! Theo ý ông? Chân như của sắc có tận, diệt, đoạn
chăng?
Thiện Hiện đáp:
- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Theo ý ông? Chân như của thọ, tưởng, hành,
thức có tận, diệt, đoạn chăng?
Thiện Hiện đáp:
- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát đối với chân như học như thế
là học Nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Nên biết, chân như không tận, không diệt,
không đoạn, chẳng thể tác chứng(3). Nếu đại Bồ tát đối với chân như, học như
thế là học Nhất thiết trí”. (Q. 339, ĐBN)
Không những chân như của ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới, tứ thiền,
tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí v.v… mà cả đến
chân như của quả vị Giác ngộ tối cao không tận, không diệt, không đoạn,
chẳng thể tác chứng. Nếu đại Bồ tát đối với chân như học như thế là học Nhất
thiết trí. (Q.340, ĐBN)
Nếu đại Bồ tát khi học như thế là học bố thí, là học tịnh
giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã. Nếu đại Bồ tát học bố thí, tịnh
giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã chính là học Nhất thiết trí. Nếu đại
Bồ tát khi học như thế là học pháp không nội, là học pháp không ngoại, pháp
không nội ngoại, pháp không không v.v… cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Nếu đại Bồ tát khi học như thế là học pháp không nội cho đến pháp không không
tánh tự tánh, chính là học Nhất thiết trí. Nếu đại Bồ tát khi học như thế là
học chơn như, là học pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế v.v…
Nếu đại Bồ tát học chơn như, pháp giới cho đến thật tế v.v… chính là học Nhất
thiết trí. Nói tóm lại, nếu đại Bồ tát học tất cả pháp Phật chính là học
Nhất thiết trí.
Do đại Bồ tát khi học như thế là đạt đến chỗ rốt ráo viên mãn
của tất cả sự học. Nếu đại Bồ tát học như thế, thì tất cả thiên ma và các ngoại
đạo không thể phá hoại. Nếu đại Bồ tát học như thế, thì mau đạt đến địa vị Bất
thối chuyển. Nếu đại Bồ tát học như thế là tự tu hành chỗ nên tu hành của tổ
phụ tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nếu đại Bồ tát học như thế, thì đối với
pháp năng hộ không bị chuyển theo điên đảo. Nếu đại Bồ tát học như thế thì có
khả năng tu hành pháp thích ứng để xa lìa hôn ám. Nếu đại Bồ tát học như thế là
học pháp nghiêm tịnh cõi Phật. Nếu đại Bồ tát học như thế là học pháp thành
thục hữu tình. Nếu đại Bồ tát học như thế, thì có khả năng nghiêm tịnh cõi
Phật, có khả năng thành thục hữu tình. Nếu đại Bồ tát học như thế, thì có khả
năng phát khởi đại từ, đại bi thương yêu tất cả. Nếu đại Bồ tát học như thế, là
học ba lần chuyển mười hai hành pháp luân vi diệu(4). Nếu đại Bồ tát học như
thế, là học độ thoát tất cả hữu tình đưa vào cảnh giới Niết bàn tuyệt đối. Nếu
đại Bồ tát học như thế, là học diệu hạnh không đoạn giống Phật. Nếu đại Bồ tát
học như thế, là học chư Phật mở cửa cam lồ cho loài hữu tình. Nếu đại Bồ tát
học như thế, là học an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình trụ ở pháp Ba
thừa. Nếu đại Bồ tát học như thế, là học thị hiện cảnh giới chơn vô vi, rốt
ráo, tịch diệt của tất cả hữu tình, là chân tu Nhất thiết trí. Nếu đại Bồ tát
học như thế, thì có khả năng thật sự cứu vớt sanh, lão, bệnh, tử của tất cả hữu
tình, làm cho họ siêng năng tu học điều nên tu học. Việc học như thế thì hữu
tình hạ liệt không có thể học được.
Lại nữa, nếu đại Bồ tát học như thế, quyết định chẳng đọa trở
lại địa ngục, bàng sanh, quỷ giới. Nếu đại Bồ tát học như thế, quyết định chẳng
sanh dòng hạ liệt ở chốn biên địa ác kiến. Nếu đại Bồ tát học như thế, quyết
định chẳng sanh vào nhà hạ tiện, vào nhà làm nghề khiêng xác chết và các nhà
bần cùng, ti tiện, chẳng biết phép tắc. Nếu đại Bồ tát học như thế, chẳng bao
giờ bị đui mù, câm điếc, ngọng nghịu, cùi cụt, căn chi thiếu sót, lưng gù, điên
cuồng và bao nhiêu bệnh ung nhọt nguy hiểm khác. Nếu đại Bồ tát học như thế,
thì đời đời thường được quyến thuộc đông đảo, hình mạo đẹp đẽ, lời nói oai
nghiêm, mọi người kính mến. Nếu đại Bồ tát học như thế, thì đời đời sanh ở chốn
lành xa lìa giết hại sanh mạng, xa lìa việc không cho mà lấy, xa lìa dâm dục,
tà hạnh, xa lìa lời nói hư dối, xa lìa lời nói thô ác, xa lìa lời nói ly gián,
xa lìa lời nói hỗn tạp, cũng xa lìa tham dục, sân nhuế, tà kiến. Nếu đại Bồ tát
học như thế, đời đời sanh vào chốn chẳng dùng tà pháp để sanh sống, chẳng bao
giờ dung túng tà pháp hư dối, cũng chẳng chấp nhận hữu tình phá giới, ác kiến
hủy báng chánh pháp. Nếu đại Bồ tát học như thế, thì chẳng bao giờ sanh cõi
trời trường thọ, đam mê dục lạc, trí tuệ kém cỏi. Vì sao? Vì đại Bồ tát ấy
thành tựu thế lực phương tiện thiện xảo. Do sức phương tiện thiện xảo này, nên
tuy thường nhập định vô lượng và định vô sắc, nhưng chẳng theo thế lực ấy mà
thọ sanh. Vì được Bát nhã Ba la mật sâu xa nhiếp thọ nên thành tựu phương tiện
thiện xảo như thế, ở trong các định tuy thường nhập xuất tự tại, nhưng chẳng
theo thế lực của các định ấy mà sanh cõi trời trường thọ, bỏ tu Bồ tát hạnh. (Q.341, ĐBN)
Nếu đại Bồ tát học như thế, thì đối với các pháp như Phật
mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại
hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, cùng vô lượng, vô số, vô biên Phật
pháp khác, đều được thanh tịnh, quyết định chẳng rơi vào các bậc Thanh văn và
Độc giác.
Tự tánh bản lai của các pháp là thanh tịnh, đại Bồ tát
ấy ở trong bản tánh thanh tịnh của tất cả pháp tinh cần tu học Bát Nhã, như
thật thông đạt, không chìm đắm, không ngưng trệ, xa lìa tất cả phiền não nhiễm
trước, cho nên nói là Bồ tát được thanh tịnh. Tuy tất cả pháp bản tánh thanh
tịnh nhưng các phàm phu chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu. Đại Bồ tát ấy
vì muốn cho họ biết, thấy, hiểu, nên tu hành bố thí, tu hành tịnh giới, an
nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã; an trụ pháp không nội, an trụ pháp không
ngoại v.v… cho đến an trụ pháp không không tánh tự tánh; an trụ chơn như, an
trụ pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế v.v…; an trụ Thánh đế
khổ, an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lương, bốn
định vô sắc; tu hành tám giải thoát, tu hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ,
mười biến xứ; tu hành 37 pháp trợ đạo; tu hành pháp môn giải thoát không, tu
hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; tu hành Bồ tát thập địa; tu hành
năm loại mắt, sáu phép thần thông; tu hành Phật mười lực, tu hành bốn điều
không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám
pháp Phật bất cộng; tu hành pháp không quên mất, tu hành tánh luôn luôn xả; tu
hành tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa; tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng
trí, Nhất thiết chủng trí. Đại Bồ tát ấy đối với bản tánh thanh tịnh của tất cả
pháp, khi học như thế thì đối với Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu
biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng
v.v... cùng vô lượng, vô số, vô biên Phật pháp khác đều được thanh tịnh, chẳng
rơi vào bậc Thanh văn hay Độc giác; đối với tâm hành sai biệt của các hữu tình
đều có thể thông đạt đến chỗ rốt ráo, phương tiện khéo léo làm cho các hữu tình
chứng bản tánh thanh tịnh của tất cả pháp. (Q.341,
ĐBN)
Nên biết, các thiện nam thiện nữ trụ Bồ tát thừa, nếu chẳng
xa lìa phương tiện thiện xảo, thì nhất định có khả năng nhập vào bậc Bất
thối chuyển. Nếu xa lìa phương tiện thiện xảo, thì nhất định đối với quả vị Giác
ngộ tối cao sẽ bị thối chuyển. Cho nên, đại Bồ tát muốn đắc, muốn nhập vào hàng
ngũ Bồ tát Bất thối chuyển, nên siêng tu học phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba
la mật sâu xa. (Q.341, ĐBN)
Nếu Đại Bồ tát tu học phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật
sâu xa như thế, thì chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng xan tham, phá giới,
sân hận, giải đãi, tán loạn, ác tuệ; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng tham
dục, sân nhuế, ngu si, kiêu mạn; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng các tội
lỗi khác; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng sự chấp thủ sắc tướng, cũng
chẳng phát khởi tâm tương ưng chấp thủ tướng thọ, tưởng, hành, thức; chẳng bao
giờ phát khởi tâm tương ưng chấp thủ 12 xứ, 18 giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ
định vô sắc, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí v.v… cho đến chẳng bao giờ phát
khởi tâm tương ưng chấp thủ tướng quả vị Giác ngộ tối cao của chư Phật. Vì sao?
Vì đại Bồ tát ấy tu hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã hoàn toàn chẳng
thấy có pháp nào là pháp có thể đạt được; vì không có sở đắc nên chẳng khởi tâm
chấp thủ các pháp.
Nếu đại Bồ tát muốn đứng trên tất cả hữu tình, thì nên học
Bát Nhã. Nếu đại Bồ tát muốn làm lợi ích cho khắp tất cả hữu tình, đối với
người không ai cứu hộ, làm người cứu hộ; đối với người không nơi nương tựa, làm
chỗ nương dựa; người không nơi hướng về, làm chỗ hướng về; người lạc đường thì
chỉ cho đường về, người chưa được Niết bàn, khiến được Niết bàn. Nếu đại Bồ tát
muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, muốn đi trên cảnh giới chư Phật đã đi,
muốn dạo chơi chỗ chư Phật đã dạo chơi, muốn rống tiếng rống sư tử của chư
Phật, muốn đánh trống pháp, muốn dộng chuông pháp, muốn thổi loa pháp, muốn
ngồi tòa vô thượng, muốn nói pháp nghĩa vô thượng của chư Phật, muốn phá lưới
nghi của tất cả hữu tình, muốn vào cõi pháp cam lồ của chư Phật, muốn hưởng hỷ
lạc vi diệu của chư Phật, thì nên học Bát nhã Ba la mật. (Q.341, ĐBN)
Lại nữa, nếu đại Bồ tát tu học Bát Nhã như thế, thì không có
bất cứ thiện căn công đức nào mà không có thể đạt được. Nếu đại Bồ tát học như
thế, thì vượt lên trên phước điền của Sa môn, Phạm chí, Thanh văn và Độc giác,
chóng đến Nhất thiết trí, mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao. Nếu đại Bồ
tát học như thế, thì tùy thọ sanh chỗ nào cũng chẳng bỏ, chẳng lìa Bát Nhã mà
trái lại thường hành Bát Nhã không ngừng nghỉ.
Nếu đại Bồ tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm mà nghĩ
tưởng: Đây là lúc tu, đây là chỗ tu, đây là người tu, đây là pháp phải tu, đây
là pháp phải chứng, và nhờ đây mà xa lìa được các chướng ngại phiền não và
chứng đắc. Nếu nghĩ tưởng như thế thì không hiểu Bát Nhã, không hiểu Bát Nhã
thì không thể hành Bát Nhã, không thể hành Bát Nhã thì không thể chứng đắc.
Nhưng nếu khi hành Bát Nhã, Bồ tát lại tác nghĩ như vầy: Đây chẳng phải Bát
Nhã, đây chẳng phải thời tu, đây chẳng phải xứ tu, đây chẳng kẻ tu, chẳng phải
nhờ Bát Nhã mà có sở ly, sở đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp đều trụ chơn như, pháp
giới, thật tế, không phân biệt vậy. Nếu hành được như vậy là hành thậm thâm Bát
nhã Ba la mật.
Thích nghĩa:
(1). Kinh MHBNBLMĐ không có phẩm “Học Phương Tiện Xảo” như
Kinh ĐBN, nhưng lại có hai phẩm “Ma Sầu” và phẩm “Đẳng Học” tương đương với
phẩm “Học Phương Tiện Xảo” của Kinh ĐBN.
(2). Bản lai tịch tịnh: Từ vô thủy không có vật gì (bản
lai vô nhất vật). Tự tính vắng lặng tức chân như, Phật tính hay còn gọi là bản
lai diện mục.
(3). Tác chứng: Kinh nghiệm chứng ngộ rốt ráo riêng của
một người. Thành tựu công phu tu đạo. Sự ấn chứng trạng thái giác ngộ cho một
người. (Từ điển Phật học Anh Hán Việt, C. Muller soạn - Thích Nhuận Châu Việt
dịch).
(4). Còn gọi là “Ba lần chuyển mười hai hành pháp luân” đã
thích nghĩa chi tiết trong phẩm “So Lường Công Đức”.
Lược
giải:
1. Ma
sầu:
Kinh Phật thường ví những phần tử xấu ác là ma, ma quân
và người chân thiện, giác ngộ thì gọi là Bồ tát, Phật. Nếu ác ma nhiều
thì Bồ tát ít đi, Bồ tát nhiều thì bọn Ma giảm, đó thế đối địch hai đầu của
thiện ác. Vì vậy, bè đảng bọn Ma lo sợ những người tu đắc quả Bồ tát hay quả vị
Giác ngộ tối cao, thì bọn ma không còn đất sống nữa.
Phẩm “Ma Sầu” trong Bát nhã Ba la mật mục đích nêu lên:
Người tu các thiện pháp nhất là tu Bát Nhã càng đông, càng nhiều thì bè lũ ma
xấu ác càng giảm sụt. Nên bọn ma luôn luôn tìm cách nhiễu loạn, không muốn ai
cũng trở thành Bồ tát, Phật. Kinh luôn luôn cảnh giác nên sáng suốt tránh xa
các cạm bẩy của chúng ma và Kinh nói phương tiện hữu hiệu nhất là học và hành Bát
Nhã. Một khi chứng được Bát Nhã thì mọi chuyện đều xong hết! Kinh nói: “Bồ
tát tu chánh hạnh, chẳng lìa Bát Nhã, sớm chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
giác, thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, quay xe diệu pháp độ chúng hữu
tình được giác ngộ như mình. Do đó, thiện đạo càng ngày càng tăng trưởng, ác
đạo ngày càng giảm đi, ác ma và bè lũ hết đất dụng võ, trở nên sầu khổ, giãy
chết như kẻ trúng phải tên độc”.
2. Đẳng
học:
Các vị đồng tu phải thương yêu, kính trọng lẫn nhau, xem
như thiện tri thức, như bạn đồng hội, như kẻ đồng thuyền. Chỗ học, thời gian
học và pháp học của chúng ta và vị ấy, tất cả đều không khác. Các vị ấy
phải học lục Ba la mật, ta cũng phải học; các vị ấy cần phải học 18 pháp không,
phải học chơn như, pháp giới, pháp tánh v.v…, ta cũng phải học như thế; các vị
ấy phải học bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, ta cũng phải học như
thế; các vị ấy phải học tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười
biến xứ, 37 pháp trợ đạo, ta cũng phải học như vậy; các vị vị ấy phải học Tam
giải thoát môn, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí, ta cũng
phải học như vậy. Các vị ấy vì chúng sanh nói đạo Bồ đề, tức là bạn lành chơn
thật của ta, cũng là thầy ta. Nếu các vị ấy tạp loạn, điên đảo xa lìa tác ý
tương ưng Nhất thiết trí trí, thì ta chẳng cùng học với các vị ấy. Trái lại,
nếu các vị ấy lìa tạp loạn, điên đảo chẳng rời tác ý tương ưng Nhất thiết trí
trí, thì ta luôn luôn cùng học. Nếu các vị ấy luôn luôn học như thế, thì tư
lương Bồ đề mau viên mãn. Vì sao? Vì học như thế thì gọi là đẳng học.
Vì vậy, Kinh nói các pháp nội không, ngoại không, nội
ngoại không, hữu vi không, vô vi không, thắng nghĩa không, tự tướng không, tự
tánh không v.v… là tánh bình đẳng của đại Bồ tát. Các đại Bồ tát đối với pháp
ấy phải học, nên gọi là đẳng học. Do cái học bình đẳng đó, nên mau chứng quả vị
Giác ngộ tối cao.
Sắc và tự tánh không của sắc là tánh bình đẳng của Bồ tát;
thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh không của thọ, tưởng, hành, thức là tánh bình
đẳng của Bồ tát. Các đại Bồ tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là đẳng học.
Do cái học bình đẳng đó, nên mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao. Mười hai xứ,
mười tám giới và tự tánh không của mười hai xứ, mười tám giới là tánh bình đẳng
của Bồ tát. Cho đến tất cả pháp Phật và tự tánh không của tất cả pháp Phật là
tánh bình đẳng của Bồ tát. Các đại Bồ tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là
đẳng học. Do cái học bình đẳng đó, nên mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao.
Mười tám pháp không là tánh bình đẳng của Bồ tát, uẩn xứ
giới tự tánh không cũng là tánh bình đẳng của Bồ tát, cho đến tất cả pháp Phật
và tự tánh không của tất cả pháp Phật là tánh bình đẳng của Bồ tát. Vì sao? Vì
Không cọng với không bằng không (0+0=0); không trừ với 0 cũng là không (0 -
0=0); không nhân với không cũng là không (0 X 0=0); không chia với không cũng là không (0 : 0=0.
Chẳng có đáp số nào trong phương trình toán học đó. Tất cả đều là không, nên
nói là bình đẳng. Bồ tát học là học cái không này, nên gọi là đẳng học. Học như
hư không mà học, học chẳng khác nào ảo nhân “thính” pháp. Học như vậy mới gọi
là học Bát Nhã.
“Nếu đại Bồ tát muốn đứng trên tất cả hữu tình, thì nên
học Bát Nhã. Nếu đại Bồ tát muốn làm lợi ích cho khắp tất cả hữu tình, đối với
người không ai cứu hộ, làm người cứu hộ; đối với người không nơi nương tựa, làm
chỗ nương dựa; người không nơi hướng về, làm chỗ hướng về; người lạc đường thì
chỉ cho đường về, người chưa được Niết bàn, khiến được Niết bàn. Nếu đại Bồ tát
muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, muốn đi trên cảnh giới chư Phật đã đi,
muốn dạo chơi chỗ chư Phật đã dạo chơi, muốn rống tiếng rống sư tử của chư
Phật, muốn đánh trống pháp, muốn dộng chuông pháp, muốn thổi loa pháp, muốn
ngồi tòa vô thượng, muốn nói pháp nghĩa vô thượng của chư Phật, muốn phá lưới
nghi của tất cả hữu tình, muốn vào cõi pháp cam lồ của chư Phật, muốn hưởng hỉ
lạc vi diệu của chư Phật, thì nên học Bát nhã Ba la mật”.
Tất cả pháp Phật đều thâu nhiếp vào Bát nhã Ba la mật, nên
phải xem Bát nhã Ba la mật là phương tiện xảo diệu của Bồ tát trong việc
học tập để được giác ngộ, ngoài phương tiện đó không còn phương tiện nào
khác. Tất cả Bồ tát dùng phương tiện đó để học, mới mau chứng Vô Thượng Bồ đề.
---o0o---