PHẨM “SO LƯỜNG CÔNG ĐỨC”
Phần sau quyển 103 cho đến hết quyển 168, Hội thứ I, ĐBN.
Gợi ý:
Phẩm “So Lường Công Đức” là một phẩm
dài của Kinh Đại Bát Nhã do ngài Huyền Trang dịch từ Phạn ra Hán, HT Thích Trí
Nghiệm dịch từ Hán ra Việt, kéo dài từ quyển 103 cho đến đầu quyển 168, tổng
cộng gần 66 quyển. Do đó, việc tóm lược và chiết giải trở nên khó khăn. Chúng
tôi phải căn cứ vào Kinh MHBNBLMĐ của ngài La Thập dịch, vì Kinh này chia phẩm
“So Lường Công Đức” của Kinh ĐBN ra làm 8 phẩm, mỗi phẩm có đặt tên riêng: Phẩm
“Bửu Tháp Đại Minh”, phẩm “Thuật Thành”, phẩm “Khuyến Trì”, phẩm “Khiển Trừ Ma
Ngoại”, phẩm “Tôn Đạo”, phẩm “Xá Lợi”, phẩm “Pháp Thí” (phần trên), phẩm “Tương
Tợ” (phần dưới). Chúng tôi căn cứ vào từng phẩm nêu trên của Kinh MHBNBLMĐ để
chiết giải thay vì tóm lược và chiết giải cùng một lúc 66 quyển của phẩm “So
Lường Công Đức”, Kinh ĐBN, là công việc quá khó khăn, có thể làm độc giả không
nắm trọn vẹn tinh thần của phẩm “So Lường Công Đức” và cũng có thể quá mệt mỏi
khi phải đọc một lúc 66 quyển Kinh.
Đó là lý do tại sao trong phần TỰA
của thiên Tổng luận này chúng tôi giới thiệu trước: Lấy hai Kinh là MHBNBLMĐ và
ĐBN làm tài liệu nghiên cứu. Thật sự, chúng tôi dùng Kinh MHBNBLMĐ làm dàn bài
để luận giải Kinh ĐBN, vì Kinh MHBNBLMĐ phân chia ra nhiều phẩm ngắn gọn, rõ
ràng, mỗi phẩm có tên riêng, nói lên được nội dung của chính nó, dễ lãnh hội
hơn Kinh ĐBN nhiều.
Tóm lược:
1. Đoạn một: Phần này từ
quyển 103 đến quyển 104, Hội thứ I, ĐBN
(Tương đương phẩm “Bửu Tháp Đại
Minh” quyển thứ 10, MHBNBLMĐ).
Bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Hoặc thiện nam, thiện nữ sao chép Kinh điển Bát nhã Ba la mật
thậm thâm này, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Lại dùng các thứ
tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... cùng y phục, anh lạc, tràng phan, lọng
báu, các thứ ngọc quý, đèn sáng để cúng dường. Hoặc thiện nam, tín nữ sau khi
Phật Niết bàn xây dựng Bảo tháp trang nghiêm bằng bảy báu, chứa xá lợi Phật(1)
trong hòm báu, trang trí long trọng, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen
để cúng dường như trên. Hai loại phước ấy, phước nào nhiều hơn?
Phật dạy: Kiều Thi Ca! Ta lại hỏi
ngươi, nên tùy ý ngươi đáp: Nhất thiết trí trí và thân tướng hảo của Như
Lai đã chứng đắc, do tu học những pháp nào mà được?
Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn!
Nhất thiết trí trí và thân tướng hảo của Như Lai đã chứng đắc là do tu học Bát
nhã Ba la mật này mà được.
Phật bảo: Kiều Thi Ca! Đúng vậy!
Đúng như ngươi đã nói, Ta đã tu học Bát nhã Ba la mật mà chứng đắc Nhất thiết
trí trí và được thân tướng hảo. Kiều Thi Ca! Nếu chẳng học Bát nhã Ba la mật mà
chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao là điều không thể có.
Kiều Thi Ca! Chẳng vì được thân
tướng hảo mà gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, mà chỉ vì chứng đắc Nhất thiết
trí trí mới gọi là Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác.
(Như Lai đã được Nhất thiết trí trí
là do Bát nhã Ba la mật thậm thâm làm nhân, nên mới khởi Phật thân tướng hảo.
Khi Phật nhập Niết bàn, do trà tỳ (thiêu) thân tướng hảo Phật mà có xá lợi
(tro). Để tôn trọng Phật, nên tất cả trời, rồng, A tu la, người không phải
người đều hết lòng thành kính tôn trọng xá lợi Phật để tưởng niệm bậc Vô thương
Giác ngộ. Di thể xá lợi Phật chẳng phải là Bát nhã Ba la mật và Nhất thiết trí
trí. Vì di thể xá lợi Phật là phần vật chất do tứ đại hợp thành, không độ được
chúng sanh, chỉ có Phật, thể hiện xác thân bằng xương bằng thịt, tu hành Bát
nhã Ba la mật, chứng Nhất thiết trí trí mới có thể đưa chúng sanh đến bờ giác).
Kiều Thi Ca! Do duyên cớ này, nên
các thiện nam, thiện nữ muốn cúng dường Phật hoặc tâm, hoặc thân, trước phải
lóng nghe thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, thơ tả giải nói Bát nhã Ba la
mật. Lại đem các thứ thượng diệu, tràng hoa, hương bột, hương xoa, y phục, anh
lạc v.v… cúng dường. Vì lẽ này, vậy nên Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện
nữ chép Kinh điển Bát nhã Ba la mật thậm thâm đây, dùng các thứ trang nghiêm
cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Lại đem các thứ thượng diệu tràng
hoa, hương xoa, hương bột cùng y phục, anh lạc v.v… mà vì cúng dường.
Hoặc các thiện nam, thiện nữ sau khi
Phật Niết bàn. Xây dựng Bảo tháp bảy báu trang sức, hòm báu chứa đựng xá lợi
Phật an để trong ấy, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Lại đem các thứ
thượng diệu tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v… mà cúng dường. Hai nhóm
phước này, nhóm trước là nhiều hơn! Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì bố thí, tịnh
giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, trí tuệ đều từ Bát nhã Ba la mật thậm thâm
như thế mà sanh ra vậy.
Mười tám pháp không, chơn như, pháp
giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế… đều từ Bát nhã Ba la mật xuất
sinh. Tất cả pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ vô sắc định, tứ Thánh đế,
12 nhân duyên, 37 pháp trợ đạo, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng
trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cũng đều từ Bát nhã Ba la mật xuất sinh.
Tất cả phước quả của loài Người cùng cõi Trời đến cõi Sắc Cứu Cánh Thiên đều từ
Bát nhã Ba la mật thậm thâm này xuất sanh.
Lúc bấy giờ, trời Đế Thích bạch
Phật: Bạch Thế Tôn! Có người ở châu Thiệm bộ, đối với Bát nhã Ba la mật
thậm thâm chẳng biết cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, thì
những người đó có được công đức như thế hay không?
Phật dạy: Kiều Thi Ca! Nay Ta hỏi
ngươi, tùy theo ý ngươi mà trả lời. Theo ý ngươi trong châu Thiệm bộ có bao
nhiêu người thành tựu sự chứng tịnh của Phật, Pháp, Tăng? Có bao nhiêu người
đối với Phật, Pháp, Tăng không nghi(nghi ngờ)? Có bao nhiêu người hết
lòng đối với Phật, Pháp, Tăng?
Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn!
Trong châu Thiệm bộ có số ít người thành tựu sự chứng tịnh của Phật, Pháp,
Tăng. Có số ít người đối với Phật, Pháp, Tăng không nghi. Có số ít người hết
lòng đối với Phật, Pháp, Tăng.
Phật dạy: Kiều Thi Ca! Ta lại hỏi
ngươi, tùy theo ý ngươi mà trả lời, này Kiều Thi Ca! Theo ý ngươi trong châu
Thiệm bộ có bao nhiêu người chứng đắc 37 pháp trợ đạo? Có bao nhiêu người
chứng đắc 3 pháp môn giải thoát? Có bao nhiêu người chứng đắc 8 giải thoát? Có
bao nhiêu người chứng đắc 9 định thứ đệ? Có bao nhiêu người chứng đắc 4 sự hiểu
biết thông suốt? Có bao nhiêu người chứng đắc 6 phép thần thông? Có bao nhiêu
người vĩnh viễn đoạn trừ ba kiết đắc quả Dự lưu? Có bao nhiêu người làm mỏng
tham, sân, si đắc quả Nhất lai? Có bao nhiêu người đoạn trừ năm kiết thuận hạ
phần(2) đắc quả Bất hoàn? Có bao nhiêu người đoạn trừ năm kiết thuận thượng
phần(3), đắc quả A la hán? Có bao nhiêu người phát tâm quyết định hướng đến quả
vị Độc giác? Có bao nhiêu người phát tâm quyết định hướng đến quả vị Giác ngộ
tối cao?
Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn!
Trong châu Thiệm bộ có số ít người chứng đắc ba mươi bảy pháp trợ đạo. Có số ít
người chứng đắc ba pháp môn giải thoát. Có số ít người chứng đắc tám giải
thoát. Có số ít người chứng đắc chín định thứ đệ v.v… cho đến có số ít người
phát tâm quyết định hướng đến quả vị Độc giác.
Kiều Thi Ca! Đúng vậy! Hơn nữa cũng
lại càng ít người đã phát tâm rồi, tinh cần tu tập hướng đến hạnh Bồ đề(4). Lại
càng ít người phát tâm quyết định hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao?
Kiều Thi Ca! Vì các loài hữu tình trôi dạt sinh tử từ vô lượng kiếp đến nay,
phần nhiều chẳng gặp Phật, chẳng nghe Chánh pháp, chẳng thân cận Tăng; chẳng
nghe tất cả pháp Phật, chẳng tu tất cả pháp Phật.
Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:
Ta nay hỏi ngươi, tùy theo ý ngươi trả lời. Kiều Thi Ca! Theo ý ngươi ngoài
loài người ở châu Thiệm bộ ra, trong tam thiên thế giới này: Có bao
nhiêu chúng sanh cung kính cúng dường phụ mẫu, sư trưởng? Có bao nhiêu chúng
sanh cung kính cúng dường Sa môn, Bà la môn? Có bao nhiêu chúng sanh hành bố
thí, thọ trai, trì giới? Có bao nhiêu chúng sanh tu mười thiện nghiệp đạo? Có
bao nhiêu chúng sanh đối với các dục trụ tưởng nhàm chán; tưởng vô thường,
tưởng khổ, tưởng vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng nhàm ăn, tưởng tất cả thế gian
chẳng vui? Có bao nhiêu chúng sanh tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô
sắc cho đến có bao nhiêu chúng sanh đã phát tâm rồi, tinh cần tu tập hướng đến
Bồ tát hạnh? Có bao chúng sanh trau dồi trưởng dưỡng hướng đến Bồ đề tâm? Có
bao chúng sanh phương tiện thiện xảo tu hành Bát nhã Ba la mật? Có bao chúng sanh
được an trụ Bồ tát bất thối chuyển? Có bao chúng sanh mau chứng quả vị Giác ngộ
tối cao?
Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Ở
trong Tam thiên đại thiên thế giới này có ít chúng sanh cung kính cúng dường
phụ mẫu, sư trưởng. Có ít chúng sanh cung kính cúng dường Sa môn, Bà la môn. Có
ít chúng sanh hành bố thí, thọ trai, trì giới. Có ít chúng sanh tu mười thiện
nghiệp đạo. Có ít chúng sanh đối với các dục, trụ tưởng nhàm chán, tưởng vô
thường, tưởng khổ, tưởng vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng nhàm ăn, tưởng tất cả
thế gian chẳng đáng vui. Có ít chúng sanh tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn
định vô sắc. Có ít chúng sanh tin Phật, tin Pháp, tin Tăng. Có ít chúng sanh
đối với Phật, Pháp, Tăng không nghi. Có ít chúng sanh hết lòng đối với Phật,
với Pháp, với Tăng. Có ít chúng sanh tu ba mươi bảy pháp trợ đạo cho đến có ít
chúng sanh được an trụ bậc Bất thối chuyển. Có rất ít chúng sanh mau chứng quả
vị Giác ngộ tối cao.
Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:
Đúng vậy! Đúng như ngươi đã nói. Này Kiều Thi Ca! Ở trong Tam thiên đại thế
giới rất ít chúng sanh làm được những việc như vậy.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Ta dùng Phật
nhãn thanh tịnh vô ngại quán sát vô số thế giới trong mười phương, tuy
thấy có vô lượng, vô số, vô biên hữu tình phát tâm quyết định hướng đến quả vị Giác
ngộ tối cao, tinh cần tu tập hướng đến Bồ tát hạnh, nhưng vì xa lìa phương tiện
thiện xảo của Bát nhã Ba la mật thậm thâm, nên hoặc chỉ một, hai, hoặc ba hữu
tình được an trụ bậc Bồ tát Bất thối chuyển, còn phần nhiều bị thối đọa vào các
bậc Thanh văn, Độc giác hạ liệt. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì quả vị Giác ngộ tối
cao rất khó đạt được, nên những hạng ác tuệ, lười biếng, kém tinh tấn, hiểu
biết cạn cợt chẳng có khả năng chứng đắc.
Kiều Thi Ca! Do duyên cớ này, nếu
các thiện nam, thiện nữ phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao, tinh cần tu
tập, hướng đến Bồ tát hạnh, muốn an trụ bậc Bất thối chuyển, mau chứng quả vị Giác
ngộ tối cao mà không bị lưu nạn, nên đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm như
thế luôn luôn lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, lại ưa thưa hỏi thầy, thích giảng
cho người khác, làm việc này rồi, lại còn phải sao chép, dùng các thứ vật báu
để trang nghiêm cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen v.v…
Kiều Thi Ca! Ngoài ra các thiện nam,
thiện nữ, đối với tất cả các thiện pháp thù thắng nhiếp vào Bát nhã Ba
la mật thậm thâm cũng nên lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu tập, đúng
như lý suy nghĩ, lại ưa thưa hỏi thầy, vui vì kẻ khác mà thuyết.
Các thiện pháp thù thắng khác gồm
thâu trong Bát nhã Ba la mật là những pháp gì? Đó là lục Ba la mật; hoặc cái
không nội đến cái không không tánh tự tánh; hoặc chơn như, hoặc pháp giới, pháp
tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế…; hoặc tứ Thánh đế đến 37 pháp trợ đạo; hoặc
Phật mười lực, hoặc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại
bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc tất cả pháp môn Đà la ni,
Tam ma địa; hoặc Nhất thiết trí, hoặc Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; hoặc
vô lượng, vô biên Phật pháp khác, đó gọi là các thiện pháp thù thắng thâu nhiếp
trong Bát nhã Ba la mật thậm thâm.
Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ ấy,
đối với vô lượng pháp môn khác như uẩn, xứ, giới v.v... tùy thuận Bát nhã Ba la
mật thậm thâm, cũng phải lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy, chẳng nên
hủy báng, làm cho quả vị Giác ngộ tối cao bị trở ngại. Vì sao? Kiều Thi Ca!
Thiện nam, thiện nữ ấy, nên nghĩ: Xưa kia, đức Như Lai lúc tu Bồ tát đạo, vì
thường tinh cần tu học lục Ba la mật nên chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Xưa
kia, Như Lai thường tinh cần an trụ 18 pháp không, thường tinh cần an trụ chơn
như, pháp giới, pháp tánh… cho đến vô lượng vô biên các thiện pháp thù thắng
nên chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Xưa kia, khi Như Lai tu Bồ tát đạo vì
thường tinh cần an trụ vô lượng pháp môn khác tùy thuận Bát nhã Ba la mật như
uẩn, xứ, giới v.v... nên chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. (Q.103, ĐBN)
Nay đây, chúng ta vì cầu quả vị Giác
ngộ tối cao, nên đối với pháp Bát nhã Ba la mật thậm thâm này, cũng phải theo
Phật tinh cần tu học, an trụ. Pháp Bát nhã Ba la mật như thế, nhất định là bậc Đại
sư chơn thật của chúng ta, thường tinh cần theo học thì sở nguyện đều viên mãn.
Pháp Bát nhã Ba la mật như thế, là pháp ấn(5) chơn thật của các đức Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cũng là pháp ấn chơn thật của tất cả quả Độc giác, A
la hán, Bất hoàn, Nhất lai, Dự lưu v.v... Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác
đối với pháp Bát nhã Ba la mật như thế, vì thường tinh cần tu học, nên đã
chứng, sẽ chứng, hiện chứng quả vị Giác ngộ tối cao. Tất cả quả Độc giác, A la
hán, Bất hoàn, Nhất lai, Dự lưu v.v… đối với pháp Bát nhã Ba la mật như thế, vì
thường tinh cần tu học, nên đã đến, sẽ đến và hiện đến bờ giác. (Q.104, ĐBN)
Kiều Thi Ca! Vì duyên cớ ấy, nên các
thiện nam, thiện nữ, hoặc lúc Phật trụ thế, hoặc sau khi Niết bàn, cần phải y
cứ vào Bát nhã Ba la mật, thường tinh cần tu học; cần phải y cứ vào tịnh lự,
tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật, thường tinh cần tu học. Vì sao?
Vì Bát nhã Ba la mật, tịnh lự Ba la mật v.v... như thế là chỗ y cứ an lạc lợi
ích của tất cả Thanh văn, Độc giác, đại Bồ tát và các trời, người, A tu la
v.v...
Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ
hoặc khi Phật trụ thế, hoặc sau khi Niết bàn, cần phải y cứ vào 18 pháp không,
chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế… cho đến vô lượng
vô biên các thiện pháp thù thắng khác, mà thường tinh cần tu học. Vì sao? Vì vô
lượng, vô biên Phật pháp khác như thế là nơi y cứ lợi ích an lạc của tất cả
Thanh văn, Độc giác, Bồ tát và các trời, người, A tu la v.v...
Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ
hoặc khi Phật còn trụ thế, hoặc sau khi Niết bàn, cần phải y cứ vào vô lượng
pháp môn tùy thuận Bát nhã Ba la mật thậm thâm như uẩn, xứ,giới v.v... mà
thường tinh cần tu học. Vì sao? Vì vô lượng pháp môn tùy thuận Bát nhã Ba la
mật thậm thâm như uẩn, xứ, giới v.v... như thế là nơi y cứ lợi ích an lạc của
tất cả Thanh văn, Độc giác, đại Bồ tát và các trời, người, A tu la v.v...
Lúc bấy giờ, trời Đế Thích bạch
Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí,
lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát nhã Ba la mật này, chí tâm lắng
nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, lại vì hữu tình mà tuyên thuyết,
truyền bá rộng rãi, hoặc sao chép, rồi thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường,
tôn trọng ngợi khen v.v… thì thiện nam thiện nữ ấy, do nhân duyên này, được bao
nhiêu phước đức?
Phật hỏi Kiều Thi Ca! Ta lại hỏi
ngươi, tùy theo ý người mà trả lời. Có thiện nam thiện nữ sau khi Như Lai vào
Niết bàn, để cúng dường xá lợi Phật, nên dùng bảy thứ báu xây Bảo tháp,
lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột, y phục, tràng phan v.v… tuyệt
diệu của cõi trời suốt cả cuộc đời, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen.
Theo ý ông thiện nam, thiện nữ ấy, do nhân duyên này, phước đức phát sanh có
nhiều chăng?
Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn!
Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.
Phật dạy: Kiều Thi Ca! Nếu thiện
nam, thiện nữ chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện,
đối với Bát nhã Ba la mật này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh
cần tu học, lại vì hữu tình mà tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi, hoặc sao chép,
rồi thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen v.v… thì thiện
nam, thiện nữ ấy, do nhân duyên này phước đức đã sanh ra, so với những người
kia nhiều hơn vô lượng, vô biên.
Kiều Thi Ca! Ngoài việc này ra, lại
có thiện nam, thiện nữ đối với các đức Như Lai sau khi nhập Niết bàn, để cúng
dường xá lợi Phật, đã dùng bảy thứ báu xây Bảo tháp khắp cả bốn châu thiên
hạ, hoặc khắp cả các tam thiên đại thiên thế giới, không còn chỗ trống; lại
dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột, y phục, tràng phan v.v… tuyệt
diệu của cõi trời suốt cả cuộc đời, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen.
Theo ý ông thiện nam tín nữ ấy, do nhân duyên này, phước đức phát sanh có nhiều
chăng?
Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn!
Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.
Phật dạy: Kiều Thi Ca! Nếu thiện
nam, thiện nữ chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện,
đối với Bát nhã Ba la mật này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh
cần tu học, lại vì hữu tình mà tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi, hoặc sao chép,
rồi thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Thế Tôn thì
thiện nam, thiện nữ ấy, do nhân duyên này phước đức đã sanh ra, so với những
người kia nhiều hơn vô lượng, vô biên.
Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch Phật:
Đúng vậy! Đúng như Thế Tôn đã dạy. Nếu thiện nam, thiện nữ cung kính cúng
dường, tôn trọng ngợi khen Bát nhã Ba la mật như thế, thì thiện nam, thiện
nữ ấy, nên biết như thế tức là đã cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư
Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai, hiện tại. Giả sử tất cả các hữu tình ở vô số thế
giới mười phương, đối với Như Lai sau khi nhập Niết bàn, để cúng dường xá
lợi Phật, dùng bảy báu xây Bảo tháp, khắp tất cả tam thiên thế giới, không
còn chỗ trống; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột, y phục, tràng
phan v.v… của cõi trời, hoặc trải qua một kiếp, hoặc hơn một kiếp, cung kính
cúng dường, tôn trọng ngợi khen Thế Tôn, thì các hữu tình ấy, do nhân duyên này
phước đức đã có được nhiều chăng?
Phật dạy: Rất nhiều!
Trời Đế Thích bạch: Nếu thiện nam,
thiện nữ chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối
với Bát nhã Ba la mật này, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu
học, vì các hữu tình, tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi, hoặc sao chép, rồi
thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen; lại dùng các thứ
tràng hoa, hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc v.v… tuyệt diệu để cúng dường,
thì thiện nam thiện nữ ấy, do nhân duyên này phước đức có được, đối với
những người kia, nhiều hơn vô lượng, vô biên, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể
tính đếm. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Do Bát nhã Ba la mật này, có thể bao gồm
chứa nhóm tất cả thiện pháp. Đó là mười thiện nghiệp đạo, hoặc là bốn tịnh
lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc là tám giải thoát, tám thắng xứ, chín
định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc 37 pháp trợ đạo; hoặc là pháp môn giải thoát
không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện; hoặc tứ
Thánh đế; hoặc là năm loại mắt, sáu phép thần thông; hoặc là bốn sự hiểu biết
thông suốt; hoặc là lục Ba la mật; hoặc là 18 pháp không; hoặc là chơn như,
pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế…; hoặc là tất cả pháp môn Đà
la ni, Tam ma địa; hoặc là Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết
thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc
là pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc là Nhất thiết trí, Đạo tướng
trí, Nhất thiết tướng trí; hoặc là vô lượng, vô biên Phật pháp khác, đều thu
nhiếp trong Bát nhã Ba la mật thậm thâm này.
Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật thậm
thâm như thế là pháp ấn chơn thật của các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cũng
là pháp ấn chơn thật của tất cả Thanh văn, Độc giác.
Bạch Thế Tôn! Tất cả các đức Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác, vì đối với Bát nhã Ba la mật đều thường tinh cần tu học,
nên đã chứng, sẽ chứng, hiện chứng quả vị Giác ngộ tối cao.
Bạch Thế Tôn! Vì tất cả Thanh văn,
Độc giác đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, đều thường tinh cần tu
học, nên đã đạt, sẽ đạt và hiện đạt đến bờ giác.
Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên đây, nên
các thiện nam thiện nữ chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc làm
phương tiện, đối Bát nhã Ba la mật đa đây chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc
tụng, tinh cần tu học, rộng vì hữu tình tuyên thuyết lưu khắp, lại dùng các thứ
trang nghiêm cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen như tràng hoa, hương
xoa, hương bột, y phục, tràng phan, bảo cái v.v… mà cúng dường. Các thiện nam
thiện nữ này, nhờ nhân duyên đây sanh ra nhóm phước, rất nhiều so với những
người kia vô lượng vô biên, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng kể. (Q.104, ĐBN)
Thích nghĩa cho Đoạn một này:
(1). Xá lợi của Phật: Xá lợi (C:
fóshèlì; J: butsushari): Phần còn lưu lại của nhục thân Phật sau khi trà tì
(thiêu), chính là Phật cốt hay tro ( s: buddha-dhātu, jina-dhātu)- Từ điển Đạo
Uyển.
(2). và (3). Năm kiết (hay
kết) thuận hạ phần và năm kiết thuận thượng phần: Xem lại thích nghĩa ở phẩm
“Vô Sanh”.
(4). Hạnh Bồ đề: Cũng gọi là Bồ tát
hạnh hay Bồ tát đạo: 1- Tự lợi, lợi tha, giác hạnh viên mãn; 2- Thượng cầu Phật
đạo, hạ hóa chúng sanh.
(5). Pháp ấn (Phạm: Dharma-mudrà)
Chỉ cho dấu ấn (ấn là con mộc bằng cây hay kim loại có khắc tín hiệu hay chữ ký
thí dụ dấu ấn của vua) đóng trên văn kiện hay Kinh Phật. Ấn cũng có nghĩa là
chân thực bất biến, là chuẩn mực chứng minh sự chân chính của Phật pháp, cho
nên gọi là Pháp ấn.
Lược giải:
(cho riêng Đoạn một này)
Nếu có người chỉ biên chép Kinh
Bát nhã Ba la mật này mà thờ chớ không cần phải thọ trì, đọc tụng hay giảng
thuyết... tất cả hàng Nhơn, Phi Nhơn không thể tới đó phá hoại được. Vì Bát nhã
Ba la mật này được tất cả chư Thiên Vương, chư Phạm Vương cùng chư Thiên trong
đại thiên thế giới mười phương đồng ủng hộ. Chỗ thờ Bát nhã Ba la mật này, chư
Thiên thảy đều tôn trọng đến đó cúng dường, đi nhiễu, lễ lạy.
Đó là chỉ nói về công đức của người
biên chép Bát nhã Ba la mật huống chi người thọ trì, đọc tụng vì
người giảng nói…công đức gấp bội phần. Vì Bát Nhã là nơi xuất sanh chư
Phật, chư Bồ tát và tất cả thiện pháp thế gian, xuất thế gian. Công đức biên
chép, thọ trì, chánh ức niệm, cung kính cúng dường, tán thán Bát nhã Ba la mật
còn hơn xây tháp bảy báu khắp thế giới mười phương để cúng dường xá lợi.
Bát nhã Ba la mật cùng vô lượng
thiện pháp là chỗ tôn quý, là pháp ấn của chư Phật, cũng là pháp ấn của Thanh
văn, Bích Chi Phật. Thanh văn, Bích Chi Phật học Bát nhã Ba la mật nhẫn đến
Nhất thiết trí trí mà có thể sang được bờ kia. Chư Phật chư Bồ tát cũng do học Bát
nhã Ba la mật nhẫn đến Nhất thiết trí trí mà sang được bờ kia.
Thật ra đoạn một này chỉ nêu lên hai
đối tượng để so sánh: 1- Là Kinh Bát Nhã và 2- Là xá lợi Phật. Kinh Bát Nhã
sanh ra chư Phật, chư Bồ tát và tất các thiện pháp thế gian, xuất thế gian. Nếu
không có Bát Nhã thì không có Phật và nếu không có Bát Nhã huân tu thì ai cung
kính tôn trọng cúng dường xá lợi Phật? Vậy xá lợi chỉ là hạng thứ, vì xá lợi
không thể gột rửa cho chúng sanh sạch hết phiền não triền phược và chứng Niết
bàn, chỉ có người hành trì Bát Nhã mới có Bát Nhã Trí, đạt Nhất thiết trí trí,
thành tựu Vô thượng Chánh giác mới có thể cứu độ chúng sanh qua được bờ kia.
2. Đoạn hai: Phần cuối
quyển 104, Hội thứ I, ĐBN
(Tương đương với phẩm “Thuật Thành”
quyển thứ 10, MHBNBLMĐ).
Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:
Đúng vậy! Đúng như ông đã nói! Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam thiện nữ chẳng lìa
tâm Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát nhã Ba la
mật này, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, vì các hữu
tình, tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi, hoặc sao chép, rồi thiết bày lễ vật,
cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen; lại dùng các thứ tràng hoa, hương
xoa, hương bột, y phục, tràng phan v.v… để cúng dường, thì thiện nam thiện nữ
ấy, do nhân duyên này phước đức có được, so với những người kia, nhiều hơn vô
lượng, vô biên, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể tính đếm. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì
do Bát nhã Ba la mật này mà tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh
lự, trí tuệ được phát sanh.
Kiều Thi Ca! Vì do Bát nhã Ba la mật
này mà tất cả 18 pháp không từ không nội đến không không tánh tự tánh; từ chơn
như đến thật tế v.v… được xuất hiện. Vì do Bát nhã Ba la mậtnày mà tất cả tứ
Thánh đế, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát, tám thắng
xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, 37 pháp trợ đạo được phát sanh. Vì do Bát
nhã Ba la mật này mà tất cả Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết
thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất
thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí được phát sanh.
Kiều Thi Ca! Vì do Bát nhã Ba la mật
này mà tất cả đại Bồ tát thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật được thành
tựu.Vì do Bát nhã Ba la mật này mà tất cả Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Vô
thượng thừa được phát sanh.Vì do Bát nhã Ba la mật này mà quả vị Giác ngộ tối
cao và Bát Niết bàn của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác xuất hiện.
Kiều Thi Ca! Do duyên cớ này, nếu
thiện nam thiện nữ chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương
tiện, đối với Bát nhã Ba la mật này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh
cần tu học, vì các hữu tình, tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi, hoặc sao chép,
rồi thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen; lại dùng các
thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột, y phục, tràng phan v.v… để cúng dường,
phước đức đã tạo Bảo tháp trước kia, so với phước đức này thì trăm phần chẳng bằng
một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một, ức phần chẳng
bằng một, trăm ức phần chẳng bằng một, cho đến vô số phần, toán phần, cực số
phầntính đếm chẳng bằng một. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì nếu Bát nhã Ba la mật này
trụ trong cõi người ở châu Thiệm bộ(1), thì Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo trong
thế gian này đều trụ chẳng diệt.
Kiều Thi Ca! Nếu Bát nhã Ba la mật này
trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có mười thiện nghiệp
đạo và thí, giới, tri ơn, báo ơn, cúng dường Hiền thánh... không bao giờ dứt
diệt.
Kiều Thi Ca! Nếu Bát nhã Ba la mật này
trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có lục Ba la mật, 18
pháp không, thường có chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật
tế v.v… Nếu Bát nhã Ba la mật này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế
gian thường có tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế đến 37 pháp trợ đạo hoặc Phật
mười lực hoặc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi,
đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc tất cả pháp môn Đà la ni, Tam
ma địa hoặc Nhất thiết trí, hoặc Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cho đến vô
lượng, vô biên Phật pháp khác.
Kiều Thi Ca! Nếu Bát nhã Ba la mật này
trụ trong loài người châu Thiệm bộ thì thế gian thường có dòng họ lớn Sát đế
lợi, dòng họ lớn Bà la môn Trưởng giả, Cư sĩ; có chúng trời Tứ đại vương, trời
Ba mươi ba, trời Dạ ma, trời Đỗ sử đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại;
có các trời Phạm, trời Quang, trời Tịnh, trời Quảng, trời Vô phiền, trời Vô
nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh; có các trời vô sắc:
Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ(2).
Kiều Thi Ca! Nếu Bát nhã Ba la mật này
trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có Thanh văn thừa, Độc
giác thừa, Vô thượng thừa; có Dự lưu hướng, Dự lưu quả, Nhất lai hướng, Nhất
lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A la hán hướng, A la hán quả, Độc giác
hướng, Độc giác quả.
Kiều Thi Ca! Nếu Bát nhã Ba la mật này
trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có đại Bồ tát tu Bồ
tát hạnh, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật.
Kiều Thi Ca! Nếu Bát nhã Ba la mật này
trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác, chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô
lượng chúng sanh.
Thích nghĩa cho Đoạn hai này:
(1). Châu Thiệm bộ còn gọi là Diêm
Phù Đề, danh từ cũ gọi là Uế châu, một trong bốn châu nằm ở phía Nam núi Tu di,
cho nên cũng gọi là Nam Diêm Phù Đề (Phạm: Dakwiịa-jambu-dvìpa). Có sách gọi
Diêm Phù Đề là Cõi Sa bà (Phạm:Sahàlokadhàtu) hay Ta Bà tức thế giới mà chúng
ta đang sống, do đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo hóa. Đã thích nghĩa rồi, chỉ lặp
lại để nhớ.
(2). Xem lại 25 cảnh giới hiện hữu,
phần thứ I Tổng luận.
Lược giải:
(cho riêng Đoạn hai này)
Phật bảo Thiên Đế Thích:“Các thiện
nam, thiện nữ biên chép Bát nhã Ba la mật nầy, học tập, thọ trì, đọc tụng,
giảng thuyết, chánh ức niệm, lại thêm dùng hoa hương, chuỗi ngọc, phan cái, kỹ
nhạc cúng dường..., sẽ được vô số vô lượng bất khả tư nghì, bất khả xưng lượng
phước đức. Vì sao? Vì lục Ba la mật, tứ niệm xứ đến mười tám pháp Phật bất
cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí đến quả vị Giác ngộ
tối cao đều xuất sinh từ Bát Nhã. Và chính nhờ Bát nhã Ba la mật nầy mà có hàng
đại tộc, trưởng giả, cư sĩ, trời Tứ Thiên Vương đến trời Sắc Cứu Cánh, A La Hán
đến Bích Chi Phật, Bồ Tát đến chư Phật xuất hiện thế gian chuyển pháp luân,
thành tựu chúng sanh, thanh tịnh Phật độ”.
Ngày nào nếu Bát nhã Ba la mật còn
tồn tại thời ngày ấy Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo trọn chẳng thể đoạn diệt.
Thế nên phước đức biên chép, thọ trì đến cúng dường Bát nhã Ba la mật này hơn
phước đức cúng dường bảo tháp chứa xá lợi trăm ngàn phần, muôn ngàn phần chẳng
bằng một phần, nhẫn đến toán số thí dụ đều chẳng thể bằng được.
Thật ra, phẩm “Thuật Thành” nầy chỉ
là kết quả tóm lược của việc thọ trì, đọc tụng, vì người giảng nói Bát nhã Ba
la mật mà thôi. Các công đức do thọ trì, đọc tụng… đã trình bày quá đầy đủ ở
phẩm nói trên, nên không cần lặp lại nữa!
3. Đoạn ba: Mở đầu
quyển 105, Hội thứ I, ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Khuyến Trì”
quyển thứ 10, MHBNBLMĐ).
Bấy giờ, ở thế giới Tam thiên đại
thiên đây có bao nhiêu trời Bốn đại vương chúng, trời Ba mươi ba, trời Dạ ma,
trời Đổ sử đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại, trời Phạm phụ, trời Phạm
hội, trời Đại Phạm, trời Quang, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực
quang tịnh, trời Tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh, trời Quảng, trời
Thiểu quảng, trời Vô lượng quảng, trời Quảng quả. Trời Vô phiền, trời Vô nhiệt,
trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh, đồng thanh cùng thưa Thiên
Đế Thích rằng:
Thưa Đại tiên! Nên lãnh thọ Bát nhã
Ba la mật như thế. Thưa Đại tiên! Nên phụng trì, nên đọc, nên tinh siêng tu
học, nên như lý suy nghĩ, nên cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen Bát nhã
Ba la mật như thế. Vì sao? Thưa Đại tiên! Vì nếu năng thọ trì đọc tụng, tinh
siêng tu học, như lý suy nghĩ, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen Bát
nhã Ba la mật như thế, thời khiến tất cả ác pháp tổn giảm, thiện pháp tăng
thêm, cũng khiến tất cả thiên chúng tăng lên, các bè lũ A tu la tổn giảm, cũng
khiến mắt Phật, Pháp, Tăng chẳng diệt. Nếu có thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu
học, như lý suy nghĩ, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen Bát nhã Ba la
mật như thế, thời khiến giống Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo chẳng dứt.
Thưa Đại tiên! Phải biết, do hạt
giống Tam bảo chẳng dứt diệt, nên mới có lục Ba la mật xuất hiện thế gian. Phải
biết, do hạt giống Tam bảo chẳng dứt diệt, nên mới có 18 pháp không; chơn như,
pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly
sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế…xuất hiện thế gian. Do hạt giống Tam
bảo chẳng dứt diệt nên tứ Thánh đế, bốn tĩnh lự, bốn định vô sắc, tám giải
thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, 37 pháp trợ đạo, tam giải
thoát môn, Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại
hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng xuất hiện thế gian. Do hạt giống Tam
bảo chẳng dứt diệt, nên mới có tất cả Đà la ni, Tam ma địa môn cho đến Nhất
thiết tướng trí xuất hiện thế gian v.v...
Vậy nên, Đại tiên phải thọ trì đọc
tụng, tinh siêng tu học, như lý suy nghĩ, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi
khen Bát nhã Ba la mật như thế.
Bấy giờ, Phật bảo Thiên Đế Thích
rằng: Kiều Thi Ca! Ngươi nên lãnh thọ, xướng đọc, tụng niệm, tinh siêng tu học,
như lý suy nghĩ, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen Bát nhã Ba la mật
thậm thâm đây. Vì sao? Kiều Thi Ca! Nếu bè lũ A tu la khởi ác niệm quyết cùng
trời Ba mươi ba giao chiến. Bấy giờ các ngươi Chư thiên quyến thuộc, nếu đều
thành tâm niệm tụng Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế và cúng dường cung
kính, tôn trọng ngợi khen, khi ấy ác tâm của bè lũ A tu la hung ác tức khắc bị
tiêu diệt, chẳng tái sanh nữa. Kiều Thi Ca! Nếu các thiên tử, hoặc các thiên nữ
hiện năm tướng suy(1), tâm kia kinh hoàng run sợ đọa ác thú. Bấy giờ các ngươi
chư thiên quyến thuộc nên an trụ, chăm lòng tụng niệm Bát nhã Ba la mật như
thế. Khi đó các thiên tử hoặc các thiên nữ vì nghe sáu thiện căn Bát nhã Ba la
mật đa này, nên đối Bát nhã Ba la mật đây sanh lòng tịnh tín, năm tướng suy kia
liền mất, thân ý được thư thái, đến khi mệnh chung, sanh lại bản xứ hưởng vui
cõi trời giàu bội hơn trước. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì nghe tin Bát nhã Ba la mật
được công đức oai lực rất rộng lớn vậy.
Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam thiện
nữ hoặc các thiên tử và các thiên nữ nghe Bát nhã Ba la mật này, vì được công
đức nên lần lần sẽ được Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Kiều Thi Ca! Chư
Phật và các đệ tử quá khứ, vị lai, hiện tại tất cả đều học Bát nhã Ba la mật
như thế đã chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vào cõi Vô dư y Bát Niết bàn. Vì
sao? Kiều Thi Ca! Do Bát nhã Ba la mật đây, khắp nhiếp tất cả Bồ đề phần pháp,
hoặc pháp Thanh văn, hoặc pháp Độc giác, hoặc pháp Bồ tát, hoặc pháp Như Lai
đều nhiếp đủ vậy.
Bấy giờ, Thiên Đế Thích thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế là đại thần chú. Bát nhã
Ba la mật như thế là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú. Bát
nhã Ba la mật như thế là tất cả chú vương, rất thượng rất diệu, năng dẹp tất cả
mà chẳng bị tất cả uốn dẹp lại. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế
năng trừ tất cả pháp ác bất thiện, năng nhiếp sanh trưởng các thiện pháp vậy.
Bấy giờ, Phật bảo Thiên Đế Thích
rằng: Như vậy, như vậy. Như lời ngươi đã nói. Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật
như thế là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng
chú, là chú vương rất thượng rất diệu, năng dẹp tất cả mà chẳng bị tất cả uốn
dẹp lại. Vì sao? Vì chư Phật quá khứ đều nương Bát nhã Ba la mật đại chú vương
thậm thâm như thế, nên đã chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Các Phật vị lai,
hiện tại đều nương Bát nhã Ba la mật đại chú vương thậm thâm như thế, nên hiện
chứng, sẽ chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Kiều Thi Ca! Nhân nương Bát
nhã Ba la mật đại chú vương thậm thâm như thế, nên mười thiện nghiệp đạo(2) mới
xuất hiện thế gian. Nhân nương Bát nhã Ba la mật đại chú vương thẳm sâu như
thế, ơn thí, thọ trai, trì giới các pháp xuất hiện thế gian. Kiều Thi Ca! Nhân
nương Bát nhã Ba la mật đại chú vương thậm thâm như thế, nên tất cả pháp Phật
xuất hiện thế gian.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nhân nương Bát
nhã Ba la mật đại chú vương thậm thâm như thế, nên có đại Bồ tát hiện ra, vì có
Bồ tát hiện ra nên tất cả thiện pháp thế gian, xuất thế gian hiện ra.
Kiều Thi Ca! Thí như nương mặt trăng
tròn đầy, nên tất cả dược vật tinh sao núi biển đều được rõ thêm. Nhân nương
đại Bồ tát trăng tròn đầy như thế, nên tất cả thế gian mười thiện nghiệp đạo
dược thảo vật loại đều được rõ thêm. Nhân nương đại Bồ tát trăng tròn đầy như
thế, nên tất cả thế gian ơn thí, thọ trai, trì giới các pháp dược thảo vật loại
đều được rõ thêm. Nhân nương đại Bồ tát trăng tròn đầy như thế, nên tất cả thế
gian bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn địnhvô sắc, năm thần thông thảy dược thảo
vật loại đều được rõ thêm. Nhân nương đại Bồ tát trăng tròn đầy như thế, nên
tất cả thế gian sáu pháp Ba la mật, 18 pháp không, chơn như, pháp giới, pháp
tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp
định, pháp trụ, thật tế… dược thảo vật loại đều được rõ thêm. Nhân nương đại Bồ
tát trăng tròn đầy như thế, nên tất cả thế gian tứ Thánh đế, tám giải thoát,
tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, 37 pháp trợ đạo, tam giải thoát môn,
năm nhãn, sáu thần thông dược thảo vật loại đều được rõ thêm. Nhân nương đại Bồ
tát trăng tròn đầy như thế, nên tất cả thế gian Phật mười lực, bốn vô sở úy,
bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng,
tất cả Đà la ni, tất cả Tam ma địa môn dược thảo vật loại đều được rõ thêm.
Nhân nương đại Bồ tát trăng tròn đầy như thế, nên tất cả thế gian Nhất thiết
trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí dược thảo vật loại đều được rõ thêm.
Nhân nương đại Bồ tát trăng tròn đầy như thế, nên tất cả thế gian Dự lưu hướng
Dự lưu quả, Nhất lai hướng Nhất lai quả, Bất hoàn hướng Bất hoàn quả, A la hán
hướng A la hán quả, Độc giác hướng, Độc giác Bồ đề cho đến đại Bồ tát, Như Lai
Ứng Chánh Đẳng giác, các núi biển cả đều được rõ thêm.
Kiều Thi Ca! Khi Đức Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác chưa ra đời, đại Bồ tát cũng có đủ phương tiện khéo léo, vì các
hữu tình tuyên nói tất cả pháp thế gian, xuất thế gian không trái ngược. Vì
sao? Kiều Thi Ca! phải biết, vì đại Bồ tát này năng sanh ra tất cả Nhân thừa.
Thiên thừa, Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Vô thượng thừa vậy.
Kiều Thi Ca! Đại Bồ tát có bao nhiêu
phương tiện khéo léo đều từ Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế mà được sanh
trưởng. Kiều Thi Ca! Đại Bồ tát trọn nên sức phương tiện khéo léo, mới năng
hành Bố thí Ba la mật, cho đến Bát nhã Ba la mật.
Kiều Thi Ca! Đại Bồ tát trọn nên sức
phương tiện khéo léo, mới năng hành tất cả các thiện pháp.
Kiều Thi Ca! Đại Bồ tát trọn nên sức
phương tiện khéo léo, mới năng được ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp
tùy hảo trang nghiêm. Đại Bồ tát trọn nên sức phương tiện khéo léo, mới chẳng
đọa bậc Thanh văn, chẳng chứng bậc Độc giác. Đại Bồ tát trọn nên sức phương
tiện khéo léo, mới năng thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Đại Bồ tát
trọn nên sức phương tiện khéo léo, mới năng nhiếp lấy thọ lượng viên mãn, năng
nhiếp lấy vật dụng viên mãn, tịnh độ viên mãn, chủng tánh viên mãn, sức lực
viên mãn, quyến thuộc viên mãn. Đại Bồ tát trọn nên sức phương tiện khéo léo,
mới năng hành các hạnh thập địa Bồ tát, năng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Kiều Thi Ca! Như thế là đại Bồ tát và bao nhiêu phương tiện khéo léo, đều do Bát
nhã Ba la mật mà được trọn nên.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện
nam tử, thiện nữ, đối Bát nhã Ba la mật đây chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc
tụng, tinh siêng tu học… rộng khiến lưu khắp, thì sẽ được trọn nên công đức
thắng lợi hiện tại và vị lai.
Bấy giờ, Thiên Đế Thích thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Thế nào là được trọn nên công đức thắng lợi hiện tại?
Phật nói: Kiều Thi Ca! Nếu các thiện
nam tử thiện nữ, đối Bát nhã Ba la mật đây chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc
tụng tinh siêng tu học… rộng khiến lưu khắp, các thiện nam thiện nữ này hiện
tại chẳng bị trúng phải độc, đao binh làm hại, lửa đốt cháy, nước làm chìm cho
đến chẳng bị chết yểu bởi bốn trăm lẻ bốn bệnh, ngoại trừ định nghiệp đời
trước, đời này phải chịu. Các thiện nam, thiện nữ này nếu gặp quan sự hay oán
giặc bức bách, chăm lòng tụng niệm Bát nhã Ba la mật như thế, nếu phải đến các
chỗ ấy trọn chẳng bị khiển trách, gia hại. Vì sao? Vì oai đức thế lực Bát nhã
Ba la mật như thế. Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ này nếu có đến các chỗ
quốc vương, vương tử, đại thần chăm lòng tụng niệm Bát nhã Ba la mật như thế,
chắc được quốc vương thảy vui vẻ hỏi han cung kính khen ngợi. Vì sao? Vì các
thiện nam thiện nữ này thường đối hữu tình chẳng rời tâm từ bi hỷ xả vậy. Kiều
Thi Ca! Nếu các thiện nam thiện nữ, đối Bát nhã Ba la mật đây chăm lòng lóng
nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học… rộng khiến lưu khắp, sẽ được trọn
nên các việc như thế, tức là các thứ công đức thắng lợi đời hiện tại vậy.
Khi ấy, Thiên Đế Thích lại thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Thế nào là sẽ được trọn nên công đức thắng lợi đời vị
lai?
Phật nói: Kiều Thi Ca! Nếu các thiện
nam, thiện nữ, đối Bát nhã Ba la mật đây chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng,
tinh siêng tu học… rộng khiến lưu khắp. Các thiện nam, thiện nữ này tùy sanh ở
chỗ nào thường chẳng xa lìa mười thiện nghiệp đạo. Các thiện nam, thiện nữ này
tùy sanh ở chỗ nào thường chẳng xa lìa ơn thí, thọ trai, trì giới các pháp. Các
thiện nam, thiện nữ tùy sanh ở chỗ nào thường chẳng xa lìa tất cả pháp mầu Phật
đạo.
Các thiện nam, thiện nữ này hẳn
chẳng rơi đọa địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, ngoại trừ bản nguyện vãng sanh thú
kia để thành thục hữu tình. Các thiện nam, thiện nữ này tùy sanh ở chỗ nào
thường đủ các căn không khuyết. Các thiện nam, thiện nữ này hẳn chẳng sanh vào
nhà bần cùng hạ tiện, thợ thuyền tạp loại, khiêng thây chết, chẳng sanh nhà
hàng thịt, đánh cá, đi săn, trộm cướp, quan ngục. Các thiện nam tử, thiện nữ
này thường sanh vào nhà hào quý, hoặc Sát đế lợi, hoặc Bà la môn, hoặc Trưởng
giả, Cư sĩ thảy, trọn chẳng sanh nhà làm ruộng đồng. Các thiện nam, thiện nữ
này tùy sanh ở chỗ nào đều được ba mươi hai vẽ đẹp, tám mươi tùy hảo trang
nghiêm nơi thân, tất cả hữu tình thấy đều vui mừng. Các thiện nam, thiện nữ này
phần nhiều sanh trong cõi có Phật nghiêm tịnh hóa sanh nơi hoa sen, chẳng gây
ác nghiệp. Các thiện nam, thiện nữ này thường chẳng xa lìa thần thông, từ một
nước Phật đến một nước Phật cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen các Phật
Thế Tôn, lóng nghe chánh pháp, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, dần
dần chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam thiện
nữ, đối Bát nhã Ba la mật đây chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng
tu học… rộng khiến lưu bố, sẽ được trọn nên các thứ công đức thắng lợi đời vị
lai như vậy.
Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam,
thiện nữ muốn được công đức thắng lợi hiện tại vị lai như thế, cho đến Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thường đem tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, dùng vô sở
đắc làm phương tiện đối Bát nhã Ba la mật đây chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc
tụng, tinh siêng tu học… rộng khiến lưu khắp. Lại đem các thứ thượng diệu tràng
hoa, hương xoa, hương bột thảy, y phục, anh lạc, bảo tràng, phan cái, các đồ
diệu kỳ quý lạ, kỹ nhạc và đèn sáng mà vì cúng dường.(Q. 105, ĐBN)
Thích nghĩa cho Đoạn ba này:
(1). Năm tướng suy: Năm tướng hiện
ra khi chư Thiên(Thiên tử hay Thiên nữ) ở các cõi trời đã hưởng hết phước đức,
sắp phải xả thân để sanh về một cảnh giới khác. Năm tướng suy đó là: 1- Quần áo
thường dơ bẩn; 2- Đầu tóc rối bời, hoa trên đầu tàn tạ; 3- Thân thể hôi hám và
nhơ nhớp; 4- Dưới nách thường ra mồ hôi; 5- Không ưa thích ngôi vị.
(2). Mười thiện nghiệp đạo hay thập
thiện đạo là ba nghiệp lành của thân: Không sát(giết hại), đạo(trộm cắp),
dâm(tà dâm); bốn nghiệp lành của khẩu: Không nói dối, không nói thêu dệt, không
nói lưỡi hai chiều, không nói lời hung ác; và ba nghiệp lành của ý: Không tham,
không sân, không si. Xemlại phần thứ ITổng luận.
Lược giải:
(cho riêng Đoạn ba này)
Phần này của Kinh ĐBN khuyên thiện
nam, tín nữ, các thiên tử, thiên nữ nên thọ trì, đọc tụng, tinh siêng tu học… rộng
khiến lưu bố Bát nhã Ba la mật thì được các công đức rộng lớn. Vì Bát nhã Ba la
mật sanh tất các pháp thế gian và xuất thế gian, và cũng sanh ra Bồ tát, sanh
ra chư Phật. Nên nói Bát Nhã là mẹ sanh, mẹ dưỡng của chư Phật, chư Bồ tát. Vì
vậy, những aichăm lòng lóng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh siêng tu học, đúng
như lý suy nghĩ, thơ tả giảng nói, rộng khiến lưu bố thì những vị đó được rất
nhiều công đức rộng lớn trong hiện tại và vị lai. Ngoài ra, Kinh còn tán tụng Bát
Nhãlà đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng thượng chú, là vô đẳng đẳng
chú. Bát nhã Ba la mật như thế là chú vương rất thượng rất diệu, năng dẹp tất
cả mà chẳng bị tất cả uốn dẹp lại được.
Vì vậy, phẩm “Khuyến Trì”, Kinh MHBNBLMĐ,
nói rằng:
“Chính nhờ thọ trì đến chánh ức niệm Bát nhã Ba la mật này mà Phật
chủng, Pháp chủng, Tăng chủng chẳng dứt. Vì Phật chủng, Pháp chủng và Tăng
chủng chẳng dứt, nên mới có lục Ba la mật, thập thiện đạo, tứ thiền, tứ vô
lượng tâm, tứ vô sắc định, có Đàn na Ba la mật đến pháp bất cộng, có pháp tánh,
pháp trụ, pháp vị, thật tế..., có ngũ nhãn, lục thần thông, quả Tu Đà Hoàn đến
Nhất thiết chủng trí xuất hiện trong thế gian.
Thiện
nam, thiện nữ hay là Thiên tử, Thiên nữ nghe Bát nhã Ba la mật này, vì được
công đức nên lần lần sẽ được Vô thượng Chánh giác. Vì quá khứ chư Phật và hàng
đệ tử đều học Bát nhã Ba la mật này mà được Vô Thượng Bồ đề, nhập vô dư Niết
Bàn. Vị lai và hiện tại chư Phật cùng hàng đệ tử cũng đều học Bát nhã Ba la mật
này mà được Vô Thượng Bồ đề. Bát nhã Ba la mật này nhiếp thọ tất cả pháp lành
như là pháp Thanh Văn, pháp Bích Chi Phật, pháp Bồ Tát và pháp Phật.
Và cũng
chính nhờ thọ trì đến chánh ức niệm Bát nhã Ba la mật mà các thiện nam tín nữ
được công đức hiện tại và vị lai:
- Công
đức hiện đời là chẳng bị trúng độc mà chết, đao thương chẳng hại được, nước
chẳng nhận chìm, lửa chẳng đốt cháy, nhẫn đến bốn trăm lẻ bốn thứ bịnh chẳng
xâm hại được. Nếu mắc việc quan gia cũng không bị khiển trách v.v…
- Công
đức đời sau là trọn chẳng sa vào ba ác đạo. Trọn chẳng sanh vào nhà nghèo hèn
hạ tiện. Thường được thân tướng hoàn hảo. Thường được hóa sanh trong nước có
Phật. Trọn chẳng lìa Bồ Tát thần thông. Nếu muốn từ một Phật quốc đến một Phật
quốc để cúng dường chư Phật và nghe Phật thuyết pháp thời được như ý.
Vì thế
nên thiện nam, thiện nữ phải thọ trì, thân cận, đọc tụng, chánh ức niệm Bát nhã
Ba la mật này, dùng hươnghoa, phan cái, kỹ nhạc cúng dường, thường chẳng rời
tâm Nhất thiết trí trí. Thiện nam, thiện nữ nầy được thành tựu công đức đời
này, đời sau nhẫn đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.
Tóm lại, đoạn Kinh này chỉ tán tụng
công đức của những ai đã từng thọ trì đọc tụng vì người giảng nói Kinh Đại Bát
Nhã và lại dùng hoa quả thượng diệu mà vì cúng dường như các đoạn Kinh đã được
trích giảng trước đây để khuyến khích những người con Phật đọc tụng thọ trì Bát
Nhã, nên đoạn Kinh này có tên là khuyến trì, nghĩa là khuyên bảo và thọ
trì tức là hoằng dương rộng rãi, không để Bát nhã Ba la mật diệt mất.
4. Đoạn bốn: Phần cuối
của quyển thứ 105 đến quyển 106, phẩm “So Lường Công Đức”, Hội
thứ I, ĐBN. (Tương đương với phẩm “Khiển Trừ Ma Ngoại”, MHBNBLMĐ)
Lúc bấy giờ, số đông Phạm chí ngoại
đạo xấu ác, vì muốn tìm sở đoản của Phật nên đến chỗ Phật. Khi ấy, trời Đế
Thích thấy vậy, nên nghĩ: Bọn Phạm chí ngoại đạo này đi đến pháp hội rình tìm
sở đoản của Phật, phải chăng là đểgây trở ngại Bát nhã Ba la mật? Ta nên tụng
niệm Bát Nhã đã học từ Phật, khiến cho bọn tà độc kia lui đi. Nghĩ rồi, liền
tụng Bát Nhã. Ngay lúc đó, các Phạm chí ngoại đạo đang đi đến, từ xa hiện tướng
cung kính, đi vòng bên phải đức Thế Tôn rồi lui về chỗ cũ.
Xá Lợi Tử thấy lạ liền nghĩ: Tại sao
bọn họ vì duyên cớ gì mới đến lại rút lui ngay?
Phật biết ý, liền bảo Xá Lợi Tử: Bọn
ngoại đạo ấy, vì muốn tìm sở đoản của Ta, mới rủ nhau đến, nhưng trời Đế Thích
đã tụng niệm Bát Nhã, do sức của đại chú vương này khiến bọn họ lui về.
Xá Lợi Tử! Ta hoàn toàn chẳng thấy bọn
ngoại đạo ấy có một chút thiện ý, mà chỉ có dã tâm, vì muốn tìm sở đoản của Ta
mà đến đây. Ta hoàn toàn chẳng thấy Trời, hoặc Ma, hoặc Phạm, hoặc Sa môn, hoặc
Bà la môn, hoặc ngoại đạo v.v… các loài hữu tình ở thế gian, dám mang ác ý đến
phá hoại Bát Nhã mà có thể đạt được ý nguyện. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì tất cả
chúng trời từ cõi Dục cho đến trời Sắc cứu cánh, hay tất cả Thanh văn, tất cả
Độc giác, Bồ tát, tất cả long thần, Dược xoa, Kiền đạt phược, A tu la, Yết lộ
đồ, Khẩn nại lạc, Mạc hô lạc già, người, chẳng phải người v.v... có thế lực lớn
ở trong tam thiên đại thiên thế giới đều cùng thủ hộ Bát Nhã, chẳng để bọn ác
gây trở ngại. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì chư thiên v.v... ấy đều từ Bát nhã Ba la
mật mà xuất sanh.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tất cả Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác, tất cả Thanh văn, tất cả Độc giác, Bồ tát và tất cả trời,
long thần, Dược xoa, người, chẳng phải người v.v... ở vô số thế giới chư Phật
mười phương đều cùng thủ hộ Bát Nhã chẳng để bọn ác kia gây trở ngại. Vì sao?
Xá Lợi Tử! Vì chư Phật v.v... ấy cũng đều từ Bát Nhã mà xuất sanh.
Lúc bấy giờ, ác ma thấy Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác có bốn chúng và các trời, người v.v… trong cõi Dục và cõi Sắc
đều cùng tụ hội, tuyên thuyết Bát Nhã liền nghĩ trong ấy chắc chắn có đại Bồ
tát được thọ ký sẽ chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Ta phải đi đến để phá đạo
tâm của họ. Nghĩ rồi liền hóa bốn binh chủng tinh nhuệ rầm rộ kéo đến chỗ Phật.
Trời Đế Thích thấy rồi liền nghĩ:
Chẳng lẽ ác ma hóa ra việc này, muốn đến làm não hại Phật và gây trở ngại cho Bát
Nhã? Vì sao? Vì bốn binh chủng trang sức đẹp lạ như thế, bốn binh chủng đẹp của
đại vương Ảnh Kiện(1) nước Ma kiệt đà(2), bốn binh chủng đẹp của đại vương
Thắng Quân(3) nước Kiều tát la(4), bốn binh chủng đẹp của dòng họ vua Thích Ca
nước Kiếp tỷ la(5), bốn binh chủng đẹp của dòng Lật thiếp tỳ(6) nước Phệ xá
lê(7), bốn binh chủng đẹp của dòng vua Lực sĩ(8) nước Kiết tường mao(9) cũng
chẳng bì kịp. Nhất định là binh chủng của ác ma biến hóa ra. Ác ma luôn luôn
rình tìm chỗ sơ hở của Phật, phá hoại thắng nghiệp đã tu của hữu tình, ta phải
tụng Bát nhã Ba la mật, khiến cho đám ác ma ấy rút lui. Trời Đế Thích nghĩ rồi,
liền tụng Bát Nhã; ngay khi ấy đám ác ma lui về chỗ cũ, vì thần lực của đại chú
vương Bát nhã Ba la mật thậm thâm làm xoay chuyển chúng. (Q.106, ĐBN)
Lúc bấy giờ, trong hội có chúng trời
Tứ đại vương cho đến trời Sắc cứu cánh, cùng lúc biến hóa ra các thứ hoa, y
phục, anh lạc v.v… rải cúng Phật, rồi các thiên chúng ấy đồng chấp tay cung
kính bạch Phật: Nguyện cho Bát nhã Ba la mật này tồn tại lâu dài trong cõi châu
Thiệm bộ. Vì sao? Vì nếu Bát nhã Ba la mật được truyền bá rộng rãi trong cõi
châu Thiệm bộ, thì nên biết, chẳng những ở nơi này Phật bảo, Pháp bảo và Tăng
bảo tồn tại lâu dài mà đối với tam thiên đại thiên thế giới này cho đến vô
lượng, vô số, vô biên cõi Phật trong mười phương cũng được như vậy.
Bạch Thế Tôn! Tùy theo địa phương có
thiện nam, thiện nữ đem lòng tin thanh tịnh sao chép, thọ trì Bát nhã Ba la mật,
rồi cung kính, cúng dường, thì nên biết, vùng ấy, xứ ấy có ánh sáng mầu nhiệm,
trừ diệt mê mờ, sanh các điều lợi ích thù thắng.
Đức Phật xác nhận lời Đế Thích và
các thiên chúng: Đúng vậy! Đúng như các ông đã nói.
Các chúng trời lại biến hóa ra các
thứ hoa v.v… của cõi trời để rải cúng Phật, rồi lại bạch Phật: Nếu thiện nam,
thiện nữ đối với Bát nhã Ba la mật này, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng,
tinh cần tu học, vì loài hữu tình, tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi thì thiện
nam, thiện nữ nhơn ấy, chẳng bị ma và quyến thuộc của ma làm hại. Chư thiên
chúng con thường đi theo thiện nam, thiện nữ ấy, hết lòng ủng hộ khiến không
tổn hại. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy, chư thiên chúng con cung kính
phụng sự như Phật.
Trời Đế Thích liền bạch Phật: Bạch
Thế Tôn! Muốn chứng đắc Nhất thiết trí trí của chư Phật, phải cầu Bát nhã Ba
la mật; muốn chứng đắc Bát nhã Ba la mật, phải cầu Nhất thiết trí trí. Vì
sao? Vì Nhất thiết trí trí của chư Phật đã chứng đắc, đều phát sanh từ Bát
Nhã; vì Bát Nhã như thế đều phát sanh từ Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì
Nhất thiết trí trí của chư Phật đã chứng chẳng khác Bát Nhã; Bát Nhã như thế
chẳng khác Nhất thiết trí trí; Nhất thiết trí trí của chư Phật đã chứng cùng
với Bát Nhã này, nên biết, không hai, cũng không hai phần.
Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:
Đúng vậy! Đúng như ông đã nói! Kiều Thi Ca! Muốn chứng đắc Nhất thiết trí trí
của chư Phật, phải cầu Bát Nhã; muốn chứng đắc Bát Nhã, phải cầu Nhất thiết trí
trí. Vì sao? Vì Nhất thiết trí trí của chư Phật đã chứng đắc, đều phát sanh từ Bát
Nhã; Bát Nhã như thế đều phát sanh từ Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì Nhất thiết
trí trí của chư Phật đã chứng chẳng khác Bát Nhã; Bát Nhã như thế chẳng khác
Nhất thiết trí trí. Nhất thiết trí trí của chư Phật đã chứng cùng với Bát Nhã
này, nên biết, không hai, cũng không hai phần. Vì vậy nên công đức oai thần của
Bát nhã Ba la mật thật là hy hữu. (Q.106,
ĐBN)
Thích nghĩa cho Đoạn bốn này:
(1). Đại vương Ảnh kiện có lẽ dịch
âm Phạn ngữ Ajàtazàtru, Pāli: Ajàtassattu, tức vua A Xà Thế, người cai trị nước
Ma kiệt đà, con vua Tần Bà Sa La (Phạm, Pàli: Bimbisàra), sống cùng thời với
đức Thích Tôn. Vua Tần Bà Sa la sau bị con là A Xà Thế soán ngôi, bỏ vào ngục
thất, cho chết đói. Sau đó A Xà Thế bành trướng bá quyền tại trung Ấn độ, có
quân đội hùng mạnh. Xin nhắc thêm rằng: Về sau A Xà Thế hối hận, xám hối với
Phật và trở thành một Phật tử thuần thục, cũng là một vị hộ pháp đắc lực cho
lần kết tập Kinh điển lần thứ nhất tại đỉnh Linh Thứu, thuộc thành Vương Xá,
nước Ma kiệt đà. TB
(2). Ma kiệt đà(skt & p:
Magadha): Còn gọi là Ma Ha Đà—Ma Kiệt Đề—Ma Già Đà—Một trong mười sáu vương
quốc cổ ở Ấn Độ trong thời Phật còn tại thế, nằm về phía Đông Bắc Ấn, trong đó
có Bồ đề Đạo Tràng, một trung tâm Phật giáo thời cổ, nơi có nhiều tịnh xá gọi
là Bahar. Thời Đức Phật còn tại thế, Ma Kiệt Đà là một vương quốc hùng cường,
dưới quyền cai trị của vua Tần Bà Sa La (khoảng từ năm 543-493 trước Tây Lịch),
có Kinh đô trong thành Vương Xá. Sau đó A Xà Thế soán ngôi và cai trị xứ này-
như đã trần thuật ở trên. Vua A Dục cũng đã từng ngự trị xứ nầy vào khoảng thế
kỷ thứ III trước Tây Lịch. Nước Ma Kiệt Đà nay thuộc các quận Patna và Gaya,
tiểu bang Bihar, miền Đông Bắc Ấn Độ. Thành Vương Xá, núi Linh Thứu, và Trúc
Lâm Tịnh xá đều nằm trong xứ Ma Kiệt Đà. (Phỏng theo Từ điển Phật học Việt Anh
- Thiện Phúc)
(3). Đại vương Thắng Quân có lẽ là
vua Ba Tư Nặc (Phạm: Prasenajit, Pàli: Pasenadi), vì Kinh có nhắc đến xứ Kosala
(Phạm: Kauzàla), một quốc gia lớn thuộc Trung Ấn, cùng thời với đức Thế tôn.
Vua cùng hoàng hậu và thái tử Kỳ Đà là những cư sĩ quan trọng trongTăng đoàn
Phật giáo thời bấy giờ. Vua Ba Tư Nặc trong Kinh Lăng Nghiêm về sau đi tu,
làmTỳ kheo của Phật, một trong 1250 đệ tử Phật.
(4). Kiều tát la(Phạm: Kozàlà,
Kauzàla. Pàli:Kosalà) cũng gọi Câu xá la quốc,Kiều Tát La Quốc. Một Vương quốc
xưa thuộc Trung Ấn độ, nằm về mạn Tây Bắc Ca tì la vệ, phía Bắc nước Ba la nại.
Pháp hiển truyện gọi là Câu tát la quốc, là 1 trong 16 nước lớn có quân đội
hùng mạnh ở Ấn độ vào thời đức Phật còn tại thế. Kinh đô của nước này là thành
Xá vệ (Phạm:Zrà-vasti), là nơi đức Phật đã thuyết pháp giáo hóa trong suốt 25 năm.
(5). Kiếp tỷ la gọi đủ là Kiếp Tỷ La
Phạt Tốt Đổ, dịch âm từ Phạn ngữ (s: Kapilavastu, p: Kapilavatthu), còn gọi là
Ca tỳ la vệ, một vương quốc lớn mạnh thời bấy giờ, do dòng họ ThíchCa cai trị.
Vua Tịnh Phạn là thân phụ của đức Thích Ca Mâu Ni cai trị quốc gia này. Dòng họ
Thích Ca sau bị vua Tỳ Lưu Ly (s: Virūḍhaka) của nước Kiều Tát La (s: Kauśala,
Kośalā, p: Kosala) thảm sát, thành Ca Tỳ La Vệ đi đến tình trạng suy vong, vùng
đất này dần dần bị hoang phế.
(6). Lật thiếp tỳ(Phạm, Pàli:
Licchavi, Lecchavi) cũng gọi Li xa, Lật chiếp bà, Li xa tử, Lợi xa, Lê xương,
Tùy xá lợi, Luật xa, Li xiết, Lí gia, Lật sa. Chủng tộc Sát đế lợi ngự trị một
quốc gia phồn thịnh, tên Tì xá li (Phạm:Vaizàli) thuộc Trung Ấn. Vaizàli cũng
là thành đô của quốc gia này.
(7). Phệ xá lê (Phạm: Vaizàli) cũng
gọi Tì già li, Tì xá li, Bệ xá li. Tên 1 nước ở Trung Ấn độ đời xưa, 1 trong 16
nước lớn, cũng là 1 trong 6 đại đô thành thời bấy giờ, là chỗ ở của chủng tộc
Li xa tử (Phạm: Licchavi). Cứ theo Kinh Du hành trong Trường a hàm quyển 3 thì
khi đức Phật còn tại thế, dân chúng Li xa ở nước này rất phồn vinh, đức Phật đã
nhiều lần đến đây thuyết pháp, dân chúng đều kính tin Phật giáo.
(8). Vua Lực sĩ: Đây chỉ cho dòng
Mạt la ở thành Câu thi na yết la. Khi đức Phật nhập Niết bàn, dòng Mạt la
này khiêng kim quan của Ngài, vì thế nên Kinh Trường a hàm gọi Lực sĩ là Mạt
la. (xt. Mạt La).
(9). Kiết tường mao: Kauzàmbi, Pàli:
Kosambì Kusinagara (skt)—Kusinara (p)—Còn gọi là Câu Di Na Kiệt, Cứu Thi, Câu
Thi Na Kiệt, Câu Thu Yết La, Giác Thành—Kinh đô của vương quốc Mạt La nằm về
phía Bắc Ấn Độ, một trong 16 vương quốc lớn tại Ấn Độ thời Đức Phật. Bây giờ là
tỉnh Kasia, khoảng 35 dậm về phía Đông thành phố Gorakhupur thuộc bang Uttar
Pradesh vùng Bắc Ấn. Nơi Đức Phật nhập Niết bàn trong vườn Ta La.
Tất cả thích nghĩa từ (1). đến (9).
chúng tôi tra cứu cẩn thận. Tuy nhiên, lối chuyễn ngữ từ Phạn sang Hán, rồi từ
Hán sang Việt, âm từ khác nhau, có thể gây rối rắm cho chúng ta. Chỉ cần nghĩ
một cách giản tiện là: Kinh so sánh binh chủng của ác ma đẹp đẽ, hùng mạnh còn
hơn binh chủng của các quốc gia hưng thịnh như Ma kiệt đà của vua A xà thế,
Kiều tát la của vua Ba tư nặc, Ca tì la vệ của dòng Thích Ca v.v… vào thời Thế
Tôn còn tại thế, là đủ!
Lược giải:
(cho riêng Đoạn bốn này)
Phẩm nầy có 2 ý:
1- Nói về sức mạnh huyền diệu của Bát nhã Ba la mật.
Không những người thọ trì, đọc tụng Bát Nhã tránh được tai ương, bệnh
tật mà cả đến những người thuyết giảng Bát nhã Ba la mật bị bọn Ma, Phạm chí,
hoặc trong chúng Sa Môn, Bà La Môn, có ai ác tâm muốn đến phá hoại cũng không
thể phá hoại được.
Nếu có thiện nam, thiện nữ thọ trì Bát nhã Ba la mật nhẫn đến chánh ức
niệm thời ma chúa, ma dân không làm hại được. Trời, Thần, chư Thiên ủng hộ, bảo
vệ những người này, xem họ như đức Phật hoặc kế thừa đức Phật. Vì phải biết
những người này đời trước ở chỗ đức Phật đã có công đức, đã thân cận cúng dường
chư Phật, được bậc thiện tri thức hộ niệm. Vì vậy, nên nói Bát nhã Ba la mật có
thể “Khiển Trừ Ma Ngoại” là ý nghĩa chính của đoạn Kinh này. Có Bát Nhã là
không có bọn ác ma, ma vương, ma dân, ma xó, quỷ thần nào có thể hủy hoại Bát
Nhã cùng những người thọ trì Bát nhã Ba la mật được. Vì chư Phật, chư Bồ tát,
chư Thần Tiên, người không phải người khắp mười phương thế giới đều hộ niệm…
2- Nói về sự liên hệ giữa Bát nhã Ba la mật và Nhất
thiết trí trí.
Kinh MHBNBLMĐ nói: “Nhất thiết trí trí của chư Phật phải tìm cầu trong Bát nhã Ba la mật. Bát
nhã Ba la mật cũng phải tìm cầu trong Nhất thiết trí trí. Vì Bát Nhã chẳng khác
Nhất thiết trí trí. Nhất thiết trí trí chẳng khác Bát Nhã. Bát Nhã cùng Nhất
thiết trí trí chẳng phải hai, chẳng phải khác”.
Hay nói khác, Bác nhã Ba la mật và Nhất thiết trí trí không hai không
khác. Do tu tập Bát Nhã mà Bồ tát hay Phật chứng đắc giác ngộ, và khi giác ngộ
thì đạt được trí tuệ tối cao gọi là Bát Nhã Trí hay Nhất thiết trí trí.
Vì vậy, quyển 106,phẩm “So Lường Công Đức”,Hội thứ I, ĐBN, nói:
Phật bảo trời Đế Thích: “Muốn chứng đắc Nhất thiết trí của chư Phật,
phải cầu Bát Nhã; muốn chứng đắc Bát Nhã, phải cầu Nhất thiết trí. Vì sao? Vì
Nhất thiết trí của chư Phật đã chứng, đều xuất sanh từ Bát Nhã; Bát Nhã như thế
đều xuất sanh từ Nhất thiết trí. Vì sao? Vì Nhất thiết trí của chư Phật đã
chứng chẳng khác Bát Nhã; Bát Nhã như thế chẳng khác Nhất thiết trí. Nhất thiết
trí đã chứng cùng với Bát Nhã này, nên biết, không hai, không khác. Vì vậy, nên
công đức oai thần của Bát nhã Ba la mật thật là hy hữu”.
Quyển 130, phẩm “So Lường Công Đức”, Hội thứ I, ĐBN:
“Kiều Thi Ca! Nên biết Bát nhã Ba la mật tức là Ứng Chánh Đẳng Giác, nên
biết Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tức là Bát nhã Ba la mật; nên biết Bát nhã Ba
la mật chẳng khác Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác; nên biết Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác chẳng khác Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì chư Phật quá khứ, vị
lai, hiện tại đều y nơi Bát nhã Ba la mật tinh cần tu học, mà chứng đắc quả vị Giác
ngộ tối cao”.
Qua ba đoạn Kinh trên ta cho phép kết luận: Bát Nhã là Nhất thiết trí
trí và Nhất thiết trí trí tức là Giác ngộ. Bát Nhã, Nhất thiết trí trí, Chánh
giáchay Giác ngộ không hai không khác. Tánh Không của Bát nhã Ba la mật, Tánh
Không của Nhất thiết trí trí và Tánh Không của quả vị Giác ngộ không hai, không
khác. Đó là kết quả tất nhiên của những người thọ trì, tu tập và thực hành Bát
nhã Ba la mật.
5. Đoạn năm: Phần kế
tiếp sau đây của Phẩm “So Lường Công Đức” từ quyển 106 đến phần đầu
quyển 127, Hội thứ I, ĐBN. (Tương đương với Phẩm “Tôn Đạo” quyển
thứ 10, MHBNBLMĐ).
Gợi ý:
Kinh Bát nhã Ba la mật xác định vị
trí cao tột, gọi là tôn đạo của nó trong tất cả các pháp môn Phật học. Vì tất
cả pháp môn Phật học đều nhiếp thọ vào Bát nhã Ba la mật. Phẩm “So Lường Công
Đức” từ quyển 106 đến đầu quyển 127 của ĐBN, lấy Bát Nhã Trí làm tâm điểm,
giống như mặt trời nằm chính giữa và tất cả các pháp Phật từ uẩn, xứ, giới, lục
Ba la mật, tứ Thánh đế, thập nhị nhân duyên, 37 pháp trợ đạo, tứ thiền, tứ vô
lượng, tứ vô sắc định, tám giải thoát, các pháp môn Đà la ni, Tam ma địa, Nhất
thiết trí v.v... cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, ví như các hành tinh và vệ
tinh xoay quanh mặt trời, tạo thành một hệ thống mà chúng ta gọi là Thái
dương hệ. Không có mặt trời là không có Thái dương hệ, không có sự sống. Ánh
sáng của mặt trời là sức sống của muôn loài, muôn vật, không có nó tất cả đều
khô cạn giá băng!
Vì mặt trời được xem là trung tâm
của Thái vương hệ. Cũng vậy, Bát Nhã là trung tâm của tất cả pháp, là mẹ sanh
mẹ dưỡng của chư Phật, chư Bồ tát xuất sanh tất cả các thiện pháp thế gian và
xuất thế gian. Nên giáo lý của đoạn Kinh này chỉ cốt xưng tán tính cách
thượng tôn của Bát Nhã Trí. Kết cấu của phẩm này không có gì khó hiểu, chỉ
cần giản lược để tránh trùng tụng thì có thể đọc, có thể hiểu không cần luận
giải dài dòng nữa.
Tóm lược:
Lúc bấy giờ, cụ thọ Khánh Hỷ(tức
Ngài A Nan) bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì duyên cớ gì chẳng xưng tán bố thí,
tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự mà chỉ xưng tán rộng rãi Bát nhã Ba la
mật?
Vì duyên cớ gì chẳng xưng tán 18
pháp không từ không nội cho đến không không tánh tự tánh; vì duyên cớ vì chẳng
xưng tán chơn như, pháp giới đến cảnh giới bất tư nghì; vì duyên cớ vì chẳng
xưng tán tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế đến 37 pháp trợ đạo; hoặc Phật mười
lực, hoặc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại
hỷ, đại xả đến mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc tất cả pháp môn Đà la ni, Tam
ma địa; hoặc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí… cho đến quả
vị Giác ngộ tối caomà chỉ xưng tán rộng rãi Bát nhã Ba la mật?
Phật dạy: Khánh Hỷ! Khánh Hỷ! Nên
biết, vì Bát nhã Ba la mật này không những đối với lục Ba la mật, bố thí, trì
giới, an nhẫn, tinh tấn, thiền định mà cả đến đối với tất cả pháp Phật từ
18 pháp khôngcho đến quả vị Giác ngộ tối cao là pháp tôn quí hơn cả, là
hướng đạo, cho nên Ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát nhã Ba la mật.
Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông, nếu
chẳng hồi hướng Nhất thiết trí trí mà tu bố thí thì có thể gọi là tu hành đúng
đắn bố thí Ba la mật chăng?
Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!
Phật dạy: Khánh Hỷ! Chủ yếu là do
hồi hướng Nhất thiết trí trí mà tu bố thí Ba la mật thì mới có thể gọi là tu
hành đúng đắn bố thí Ba la mật.
Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông, nếu
chẳng hồi hướng Nhất thiết trí trí mà tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự,
Bát Nhã thì có thể gọi là tu hành đúng đắn tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh
lự, Bát Nhã chăng?
Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!
Phật dạy: Khánh Hỷ! Chủ yếu là do
hồi hướng Nhất thiết trí trí mà tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát
Nhã thì mới có thể gọi là tu hành đúng đắn tịnh giới đến Bát Nhã. Cho nên Bát
nhã Ba la mật này đối với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự kia là
pháp tôn quí, là hướng đạo nên Ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát nhã Ba la mật.
Khánh Hỷ! Cũng như vậy, trọng tâm là
do hồi hướng Nhất thiết trí trí mà tu hành tất cả các pháp Phật thì mới có thể
gọi là tu hành đúng đắn tất cả pháp Phật. Cho nên Bát nhã Ba la mật này đối với
tất cả pháp Phật là pháp tôn quí, là hướng đạo, nên Ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát
nhã Ba la mật.
Cụ thọ Khánh Hỷ lại bạch Phật: Bạch
Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng Nhất thiết trí trí để tu bố thí Ba la mật?
Phật dạy: Khánh Hỷ! Lấy vô nhị
làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bố
thí Ba la mật thì gọi là hồi hướng Nhất thiết trí trí tu bố thí Ba la mật.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng
Nhất thiết trí trí để tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la
mật?
Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương
tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tập tịnh giới, an
nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã thì gọi là hồi hướng Nhất thiết trí trí để tu
tịnh giới cho đến Bát Nhã.
Cũng như vậy, lấy vô nhị làm phương
tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tập tất cả pháp
Phật từ tứ Thánh đế đến 37 pháp trợ đạo; Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn
sự hiểu biết thông suốt, từ đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả đến mười tám pháp
Phật bất cộng;tu tập tất cả các pháp môn Đà la ni, Tam ma địa, Nhất thiết trí,
Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí… đến quả vị Giác ngộ tối cao, thì gọi là
hồi hướng Nhất thiết trí trí để tu tất cả các pháp Phật nói trên.
Cụ thọ Khánh Hỷ lại bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Lấy vô nhị nào? Lấy vô
sanh nào? Lấy vô sở đắc nào làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, tu
tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã?
Bạch Thế Tôn! Lấy vô nhị nào? Lấy vô
sanh nào? Lấy vô sở đắc nào làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, an
trụ pháp không nội, cho đến pháp không không tánh tự tánh? Lấy vô nhị nào?
Lấy vô sanh nào? Lấy vô sở đắc nào làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí
trí, an trụ chơn như cho đến an trụ cảnh giới bất nghì? Lấy vô nhị nào? Lấy vô
sanh nào? Lấy vô sở đắc nào làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, an
trụ tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế, 37 pháp trợ đạocho đến... quả vị Giác ngộ
tối cao?
Phật dạy: Khánh Hỷ! Nay ông nên
biết, lấy vô nhị của sắc làm phương tiện, vô sanh của sắc làm phương
tiện, vô sở đắc của sắc làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, tu tập
bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã. Lấy vô nhị của thọ,
tưởng, hành, thức làm phương tiện; vô sanh của thọ, tưởng, hành, thức làm
phương tiện; vô sở đắc của thọ, tưởng, hành, thức làm phương tiện, hồi hướng
Nhất thiết trí trí, tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát
Nhã.
Khánh Hỷ! Nên biết, lấy vô nhị
của sắc làm phương tiện, vô sanh của sắc làm phương tiện, vô sở đắc của sắc
làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, an trụ pháp không nội đến
pháp không không tánh tự tánh.
Lấy vô nhị của sắc làm phương tiện,
vô sanh của sắc làm phương tiện, vô sở đắc của sắc làm phương tiện, hồi hướng
Nhất thiết trí trí, an trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Lấy
vô nhị của thọ, tưởng, hành, thức làm phương tiện, vô sanh của thọ, tưởng,
hành, thức làm phương tiện; vô sở đắc của thọ, tưởng, hành, thức làm phương
tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, an trụ 18 pháp không, an trụ chơn như
cho đến cảnh giới bất tư nghì.
Cũng như thế, lấy vô nhị, vô
sanh, vô sở đắc của 12 xứ, 18 giới làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết
trí trí, an trụ 12 xứ, 18 giới; lấy vô nhị, vô sanh, vô sở đắc của sáu pháp Ba
la mật, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát, chín thứ đệ
định, mười biến xứ, 37 pháp trợ đạo, tam giải thoát môn, bốn Thánh đế trí, năm
nhãn, sáu thần thông, Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ,
đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, pháp vô vong thất, tánh
hằng trụ xả, tất cả Đà la ni, Tam ma địa, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất
thiết chủng trí, quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, tất
cả Bồ tát hạnh và quả vị Giác ngộ tối cao làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết
trí trí, an trụ tất cả pháp Phật.
Kinh cứ lấy một pháp để tu một pháp,
cho đến hoàn thành tất cả các pháp Phật (từ căn trần xứ giới đến quả vị Giác
ngộ tối cao hay nói khác từ một khoa danh tướng cho đến hết 81 khoa danh tướng Bát
Nhã)để chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nhưng phải lấy vô nhị, vô
sanh, vô sở đắc của từng pháp một làm phương tiện tu hành, và hồi hướng Nhất
thiết trí trí mà an trụ tất cả các pháp Phật.
Để tránh trùng tụng trong phần tóm
lược này, chúng tôi không lặp lại nguyên văn mà chỉ lấy một vài đoạn như đoạn
Kinh trích dẫn ở quyển 109, ĐBN dưới đây, làm thí dụ:
“Khánh Hỷ! Nên biết, lấy vô nhị của
vô minh làm phương tiện, vô sanh của vô minh làm phương tiện, vô sở đắc của vô
minh làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, tu tập bố thí, tịnh
giới, an nhẫn,tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã. Lấy vô nhị của hành, thức, danh
sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não(12
duyên khởi) làm phương tiện, lấy vô sanh của 12 duyên khởi làm phương tiện,
vô sở đắc của 12 duyên khởi làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, tu
tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã.
Khánh Hỷ! Nên biết, lấy vô nhị, vô
sanh, vô sở đắc của 12 duyên khởi làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí
màan trụ 18 pháp không, an trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh..., an trụ tứ
Thánh đế, 37 pháp trợ đạo,tu tập bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tu
hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Tu hành không, vô tướng, vô nguyện
giải thoát môn. Tu hành các bậc Bồ Tát. Tu hành tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa
môn. Tu hành Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu hành pháp
vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất
thiết chủng trí... cho đến quả vị Giác ngộ tối cao.(Q. 109, ĐBN)
Cứ tiếp nối như vậy cho đến lấy vô
nhị của quả vị Giác ngộ tối cao, vô sanh của quả vị Giác ngộ tối cao, vô sở đắc
của quả vị Giác ngộ tối cao làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, tu
tập tất cả pháp Phật.
Kinh lấy một pháp như uẩn, xứ, giới,
12 duyên khởi, lần lượt tu từng pháp một từ 18 pháp không, chơn như, pháp giới,
pháp tánh, tứ Thánh đế, 37 pháp trợ đạo, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô
sắc, tám giải thoát, v.v… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, nghĩa là tu từng
pháp từng pháp một cho đến tu hết tất cả pháp Phật như đã liệt kê ở trên.
Cụ thọ Khánh Hỷ lại bạch Phật: Bạch
Thế Tôn! Vì sao lấy vô nhị của sắc làm phương tiện, vô sanh của sắc làm
phương tiện, vô sở đắc của sắc làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí,
tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã?
Phật dạy: Khánh Hỷ! Sắc và tánh
của sắc là không. Vì sao? Vì tánh không của sắc cùng với bố thí, tịnh giới,
an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã không hai, không khác.
Bạch Thế Tôn! Vì sao lấy vô nhị của thọ,
tưởng, hành, thức làm phương tiện, vô sanh của thọ, tưởng, hành, thức làm
phương tiện, vô sở đắc của thọ, tưởng, hành, thức làm phương tiện, hồi hướng
Nhất thiết trí trí, tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát
Nhã?
Này Khánh Hỷ! Thọ, tưởng, hành,
thức và tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Vì sao? Vì tánh không của
thọ, tưởng, hành, thức cùng với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát
Nhã không hai, không khác.
Này Khánh Hỷ! Do đó nên nói là lấy
vô nhị của ngũ uẩn làm phương tiện, vô sanh của ngũ uẩn làm phương tiện, vô sở
đắc của ngũ uẩn làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, tu tập bố thí,
tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã.
Bạch Thế Tôn! Vì sao lấy vô nhị của ngũ
uẩn làm phương tiện, vô sanh của ngũ uẩn làm phương tiện, vô sở đắc của ngũ
uẩn làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, an trụ pháp không nội đến
pháp không không tánh tự tánh?
Này Khánh Hỷ! Ngũ uẩn và tánh của
ngũ uẩn là không. Vì sao? Vì tánh không của ngũ uẩn cùng với pháp không nội cho
đến pháp không không tánh tự tánh kia không hai, không khác.
Này Khánh Hỷ! Do đó nên nói là lấy
vô nhị của ngũ uẩn làm phương tiện, vô sanh của ngũ uẩn làm phương tiện, vô sở
đắc của ngũ uẩn làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, an trụ pháp
không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Vì sao lấy vô nhị của 12 xứ, 18
giới làm phương tiện, vô sanh của 12 xứ, 18 giới làm phương tiện, vô sở đắc
của 12 xứ, 18 giới làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, tu tập bố
thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã?
Vì 12 xứ, 18 giới và tánh của 12 xứ,
18 giới là không. Vì sao? Vì tánh không của 12 xứ, 18 giới cùng với lục Ba la
mật không hai, không khác.
Do đó, nên nói là lấy vô nhị của 12
xứ, 18 giới làm phương tiện, vô sanh của 12 xứ, 18 giới làm phương tiện, vô sở
đắc của 12 xứ, 18 giới làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, tu tập
bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã.
Cũng như vậy, Kinh lần lượt đặt câu
hỏi:
Vì sao lấy vô nhị của bốn tĩnh
lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát v.v... cho đến quả vị Giác
ngộ tối cao làm phương tiện, lấy vô sanh của bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn
định vô sắc, tám giải thoát v.v... cho đến quả vị Giác ngộ tối cao làm phương
tiện, lấy vô sở đắc của bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải
thoát, cho đến quả vị Giác ngộ tối cao làm phương tiện hồi hướng Nhất thiết trí
trí tu tập tất cả pháp Phật?
Vì bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn
định vô sắc, tám giải thoát v.v... cho đến quả vị Giác ngộ tối cao là không. Vì
sao? Vì tánh Không của bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải
thoátv.v... cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cùng với lục Ba la mật không hai
không khác.
Do đó, nên nói lấy vô nhị của bốn
tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoátv.v... cho đến quả vị Giác
ngộ tối cao làm phương tiện, lấy vô sanh của bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn
định vô sắc, tám giải thoát v.v... cho đến quả vị Giác ngộ tối cao làm phương
tiện, lấy vô sở đắc của bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải
thoát v.v... cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, hồi hướng Nhất thiết trí trí, tu
tập tất cả pháp Phật.
Này Khánh Hỷ! Nên biết, do Bát nhã
Ba la mật này nên có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lại do hồi hướng
Nhất thiết trí trí nên có khả năng tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn,
tịnh lự, Bát Nhã đạt đến cứu cánh. Cho nên Bát nhã Ba la mật này đối với bố
thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự kia là pháp tôn quí, là hướng đạo.
Này Khánh Hỷ! Nên biết, do Bát nhã
Ba la mật này nên có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lại do hồi hướng
Nhất thiết trí trí nên có khả năng an trụ pháp không nội đến pháp không
không tánh tự tánh đạt đến cứu cánh. Cho nên Bát nhã Ba la mật này đối với
pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh kia là pháp tôn quí, là
hướng đạo.
Này Khánh Hỷ! Nên biết, do Bát nhã
Ba la mật này nên có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lại do hồi hướng
Nhất thiết trí trí nên có khả năng an trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, định
pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì đạt đến cứu
cánh. Cho nên Bát nhã Ba la mật này đối với chơn như cho đến cảnh giới bất tư
nghì kia là pháp tôn quí, là hướng đạo.
Này Khánh Hỷ! Nên biết, do Bát nhã
Ba la mật này nên có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lại do hồi hướng
Nhất thiết trí trí nên có khả năng an trụ tất cả pháp Phật. Cho nên Bát
nhã Ba la mật này đối với tất cả pháp Phật nói trên là pháp tôn đạo.
Phẩm “Tôn Đạo” quyển thứ 10,
Kinh MHBNBLMĐ bằng đoạn Kinh ngắn sau đây mà có thể tóm lược hơn 15 quyển(từ
quyển 110 đến quyển 125)của phẩm “So Lường Công Đức”, Hội thứ I, ĐBN như vừa
trích dẫn ở trên.
“Đức Phật
nói: Này A Nan! Vì sắc không hai pháp(bất nhị), vì thọ, tưởng, hành, thức không
hai pháp, nhẫn đến vì Vô Thượng Bồ đề không hai pháp vậy. Tại sao vậy? Vì sắc
sắc tướng rỗng không. Đàn na Ba la mật và sắc không hai, không khác, nhẫn đến
Vô Thượng Bồ đề và Đàn na Ba la mật không hai, không khác. Năm Ba la mật kia
cũng như vậy. Vì thế nên, này A Nan! Chỉ ca ngợi Bát nhã Ba la mật là tôn đạo
của năm Ba la mật đến Nhất thiết chủng trí”.
Chỉ có 5 dòng mà có thể tóm tắt 15
quyển kinh có giáo lý tương tự thật quá thần kỳ. Nghiên cứu kỹ mới thấy điểm
này!
Quyển 126, Đại Bác Nhã thuyết
tiếp:
Này Khánh Hỷ! Nên biết, thí như đại
địa lấy hạt giống rải trên đó, nếu các duyên hòa hợp thì được sanh trưởng. Nên
biết, đại địa đối với hạt giống là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển. Như
vậy, Bát nhã Ba la mật và nơi hồi hướng Nhất thiết trí trí đối với bố thí,
tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát
triển, khiến được sanh trưởng, nên Bát nhã Ba la mật này đối với bố thí cho đến
tịnh lự kia là pháp tôn quí, là hướng đạo. Cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát
nhã Ba la mật. (Q.126, ĐBN)
Này Khánh Hỷ! Nên biết, thí như đại
địa lấy hạt giống rải trên đó, nếu các duyên hòa hợp thì được sanh trưởng. Nên
biết, đại địa đối với hạt giống sanh trưởng, là chỗ nương tựa, là nơi có thể
phát triển. Như vậy, Bát nhã Ba la mật và nơi hồi hướng Nhất thiết trí trí đối
với pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh kia là chỗ
nương tựa, là nơi có thể phát triển, khiến được hiển hiện, nên Bát nhã Ba la
mật này đối với pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh kia là
pháp tôn quí, là hướng dẫn, cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát nhã Ba la mật.
Này Khánh Hỷ! Nên biết, thí như đại
địa lấy hạt giống rải trên đó, nếu các duyên hòa hợp thì được sanh trưởng. Nên
biết, đại địa đối với hạt giống sanh trưởng, là chỗ nương tựa, là nơi có thể
phát triển. Như vậy, Bát nhã Ba la mật và nơi hồi hướng Nhất thiết trí trí, đối
với chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi
khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư
không, cảnh giới bất tư nghì kia là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển,
khiến được hiển hiện, nên Bát nhã Ba la mật này đối với chơn như cho đến cảnh
giới bất tư nghì kia là pháp tôn quí, là hướng đạo. Cho nên ta chỉ xưng tán
rộng rãi Bát nhã Ba la mật.
Này Khánh Hỷ! Nên biết, thí như đại
địa lấy hạt giống rải trên đó, nếu các duyên hòa hợp thì được sanh trưởng. Nên
biết, đại địa đối với hạt giống sanh trưởng, là chỗ nương tựa, là nơi có thể
phát triển. Như vậy, Bát nhã Ba la mật và nơi hồi hướng Nhất thiết trí trí đối
với tứ Thánh đế, thập nhị nhân duyên đến 37 pháp trợ đạo; 18 pháp bất cộng,
Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao là chỗ nương tựa, là nơi có
thể phát triển, khiến được hiển hiện, nên Bát nhã Ba la mật này đối với tứ
Thánh đế cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, là tôn đạo. Cho nên ta chỉ xưng tán
rộng rãi Bát nhã Ba la mật.
Đến đây Kinh tán thán những người
hành trì Bát Nhã:
Lúc bấy giờ, trời Đế Thích bạch
Phật: Bạch Thế Tôn! Nay đây Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với tất cả công đức
của Bát nhã Ba la mật này, nói còn không hết. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật mà
con đã lãnh thọ từ Thế Tôn, với công đức rộng sâu, không bờ bến. Các thiện nam,
thiện nữ đối Bát nhã Ba la mật này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh
cần tu học, vì các hữu tình tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi thì công đức có
được cũng không bờ bến. Nếu có người sao chép Bát nhã Ba la mật này rồi
dùng các thứ trang trí như hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan
v.v… cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen thì công đức có được cũng không
bờ bến.
Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát
nhã Ba la mật thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu
học, giảng thuyết, sao chép, truyềnbá rộng rãi, thì do đó mới có mười thiện
nghiệp đạo xuất hiện ở thế gian, nhờ đó mới có bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn
định vô sắc, sáu Ba la mật, v.v… hay nói rộng ra tất cả pháp Phật xuất hiện thế
gian.
Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát
nhã Ba la mật thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu
học, giảng thuyết, sao chép, truyền bá rộng rãi, thì do đó mới có dòng dõi lớn
Sát đế lợi, dòng dõi lớn Bà la môn, Trưởng giả, Cư sĩ; nhờ đó mới có chúng trời
Tứ đại vương, chúng trời cõi sắc, vô sắc xuất hiện ở thế gian.
Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát
nhã Ba la mật thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu
học, giảng thuyết, sao chép, truyền bá rộng rãi, thì do đó mới có Dự lưu hướng,
Dự lưu quả, Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A la
hán hướng, A la hán quả; mới có Độc giác và quả vị Độc giác, mới có đại Bồ tát
và Bồ tát hạnh, mới có tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và quả vị Giác ngộ
tối cao xuất hiện ở thế gian.
Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:
Này Kiều Thi Ca! Ta không thuyết Bát nhã Ba la mật mà chỉ thuyết riêng về
công đức của người hành trì Bát Nhã. Tại sao? Vì Bát nhã Ba la mật như thế
có đầy đủ vô lượng vô biên công đức thù thắng. Nếu thiện nam, thiện nữ chẳng
lìa tâm Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát nhã Ba
la mật này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, vì các hữu
tình tuyên thuyết truyền bá rộng rãi, hoặc lại sao chép, trang trí bằng vô
lượng tràng hoa, các thứ hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan v.v…
cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen thì thiện nam, thiện nữ ấy thành
tựu vô lượng giới uẩn thù thắng, thành tựu vô lượng định uẩn thù thắng, thành
tựu vô lượng tuệ uẩn thù thắng, thành tựu vô lượng giải thoát uẩn thù thắng,
thành tựu vô lượng giải thoát tri kiến uẩn thù thắng.
Này Kiều Thi Ca! Nên biết, thiện
nam, thiện nữ nhơn ấy như Phật. Vì sao? Vì đã quyết định hướng đến quả vị Giác
ngộ tối cao. Thiện nam, thiện nữ ấy vượt qua bậc Thanh văn và Độc giác. Vì sao?
Vì đã cởi bỏ tất cả tâm hạ liệt của Thanh văn, Độc giác.
Này Kiều Thi Ca! Tất cả sự thành tựu
về giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn(1) của
Thanh văn, Độc giác đối với sự thành tựu về giới uẩn, định uẩn v.v… của thiện
nam, thiện nữ này thì trăm ngàn ức phần chẳng bằng một, trăm ngàn ức ức phần
chẳng bằng một, phần toán số, phần tính đếm, phần thí dụ cho đến phần cực số
cũng chẳng bằng một. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì thiện nam, thiện nữ ấy vượt qua
tất cả tâm hạ liệt của Thanh văn, Độc giác, nên đối với các pháp của Thanh văn,
Độc giác thừa chẳng bao giờ khen ngợi; đối với tất cả pháp, không pháp nào là
không biết, nghĩa là có khả năng biết đúng đắn rằng tất cả là vô sở hữu.
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam,
thiện nữ chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối
với Bát nhã Ba la mật này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu
học, như lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết truyền bá rộng rãi, hoặc lại
sao chép, trang trí đẹp đẽ, rồi dùng vô lượng tràng hoa, các thứ hương xoa,
hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan v.v… cung kính cúng dường, tôn trọng
ngợi khen thì thiện nam, thiện nữ ấy, Ta nói, có được vô lượng vô biên công
đức thù thắng trong hiện tại và vị lai.
Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ làm được như vậy, thì chư thiên chúng con
thường theo ủng hộ, chẳng để tất cả loài nhơn phi nhơn, các thứ ác duyên nhiễu
hại.
Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí,
dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát nhã Ba la mật này thọ trì, đọc tụng
vì người giảng thuyết, thì khi ấy có vô lượng trăm ngàn chư Thiên, Thiên tử vì
muốn nghe pháp nên vui mừng tụ tập ra mắt, kính thọ Bát Nhã. Các chư Thiên,
Thiên tử lại còn dùng oai lực của mình khiến người thuyết pháp tăng thêm biện
tài, thuyết pháp bất tận, thuyết pháp không sơ hở, dù có vấn nạn cũng chẳng bị
trở ngại.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Hoặc có thiện
nam, thiện nữ ở trong bốn chúng(2) tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật thậm thâm như
vậy, tâm không hề khiếp sợ. Vì sao? Vì những người ấy nhờ sự gia hộ của Bát Nhã
Ba la thậm thâm. Lại trong tạng bí mật Bát nhã Ba la mật này, đã phân biệt các
pháp rộng rãi, đầy đủ, đó là hoặc pháp thiện, pháp bất thiện, pháp vô ký, hoặc
pháp quá khứ, pháp vị lai, pháp hiện tại, hoặc pháp thuộc dục giới, pháp thuộc
sắc giới, pháp thuộc vô sắc giới, hoặc pháp học, pháp vô học, pháp phi học phi
vô học, hoặc pháp kiến sở đoạn, pháp tu sở đoạn, pháp phi sở đoạn, hoặc pháp
thế gian, pháp xuất thế gian, hoặc pháp hữu lậu, pháp vô lậu, hoặc pháp hữu vi,
pháp vô vi, hoặc pháp hữu kiến, pháp vô kiến, hoặc pháp hữu sắc, pháp vô sắc,
hoặc pháp cộng, pháp bất cộng, hoặc pháp Thanh văn, hoặc pháp Độc giác, hoặc
pháp Bồ tát, hoặc pháp Như Lai. Vô lượng trăm ngàn pháp môn như vậy, đều tóm
thâu trong đó. Lại do các thiện nam, thiện nữ ấy khéo trụ pháp không nội đến
khéo trụ pháp không không tánh tự tánh, hoàn toàn chẳng thấy có người vấn nạn,
cũng chẳng thấy có kẻ bị vấn nạn, cũng chẳng thấy có Bát nhã Ba la mật được
thuyết. (Q.126, ĐBN)
Vì vậy cho nên, này Kiều Thi Ca,
thiện nam, thiện nữ này do được đại oai thần lực của Bát nhã Ba la mật hộ trì,
chẳng bị khuất phục, tâm của họ chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng khiếp, chẳng chìm
đắm, cũng chẳng lo lắng, ăn năn. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy chẳng thấy
có pháp có thể khiến kinh hoàng, sợ sệt, khiếp hãi, chìm đắm hay lo lắng, ăn
năn.
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam,
thiện nữ nào muốn được vô biên công đức thắng lợi hiện tại như vậy, thì nên đối
với Bát nhã Ba la mật thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh
cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết truyền bá rộng rãi,
hoặc lại sao chép, trang trí đẹp đẽ, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen
như đã nói trên.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Thiện nam,
thiện nữ ấy thường được cha mẹ, Sư trưởng, bà con, bạn bè, trí thức, quốc
vương, đại thần và các Sa môn, Bà la môn v.v… thương kính, cũng được tất cả Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đại Bồ tát, Độc giác, A la hán, Bất hoàn, Nhất lai, Dự
lưu v.v… ở vô biên thế giới trong mười phương nhớ nghĩ. Lại được chư Thiên, ma,
phạm, nhơn và phi nhơn, A tu la v.v… trong thế gian thương giúp. Thiện nam,
thiện nữ ấy thành tựu biện tài tối thắng vô đoạn. Thiện nam, thiện nữ ấy tu
hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã thường không ngừng
nghỉ. Thiện nam, thiện nữ ấy an trụ pháp không nội đến pháp không không tánh tự
tánh thường không ngừng nghỉ. Thiện nam, thiện nữ ấy an trụ chơn như, pháp giới
đến cảnh giới bất tư nghì thường không ngừng nghỉ. Thiện nam, thiện nữ ấy an
trụ tứ Thánh đế, tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc thường
không ngừng nghỉ. Thiện nam, thiện nữ ấy tu hành tám giải thoát, tám thắng xứ,
chín định thứ đệ, mười biến xứ, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết
trí… đến quả vị Giác ngộ tối cao thường không ngừng nghỉ. Thiện nam, thiện nữ
ấy thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật thường không ngừng nghỉ. Thiện
nam, thiện nữ ấy thành tựu thần thông thù thắng của đại Bồ tát, dạo chơi các
cõi Phật tự tại vô ngại. Thiện nam, thiện nữ ấy chẳng bị tất cả luận thuyết
ngoại đạo hàng phục, mà có khả năng hàng phục các luận thuyết của ngoại đạo.
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam,
thiện nữ muốn được công đức thắng lợi không dứt, không hết trong hiện tại, vị
lai như thế, thì nên đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm ấy, chí tâm lắng nghe,
thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết
truyền bá rộng rãi, lại nên sao chép, trang trí, cúng dường v.v… thì nơi ấy trở
nên tôn quí thanh tịnh như có chư Phật hiện diện, khi ấy các chúng trời Dục,
sắc, Sắc cứu cánh vì đã phát tâm cầu quả vị Giác ngộ tối cao, nên thường lui
tới, chiêm ngưỡng, lễ bái, đọc tụng Bát nhã Ba la mật ấy, cung kính cúng dường,
tôn trọng ngợi khen, đi nhiễu, lễ bái, rồi quay về. Các rồng, Dược xoa, Kiền
đạt phược, A tu la, nhơn phi nhơn v.v… trong thế giới này, có đại oai đức cũng
thường đến đó chiêm ngưỡng, lễ bái, đọc tụng, cung kính cúng dường, đi nhiễu,
lễ bái rồi quay về.
Các chúng trời cõi Dục, cõi Sắc cứu
cánh ở vô biên thế giới trong mười phương cùng các rồng, Dược xoa, Kiền
đạt phược, A tu la, nhơn phi nhơn v.v… cũng thường đến đó chiêm ngưỡng, lễ bái,
đọc tụng Bát nhã Ba la mật ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, đi
nhiễu, lễ bái rồi quay về.
Tất cả các chúng trời đó cùng các
rồng, Dược xoa, nhơn phi nhơn v.v... cũng thường đến nơi đó ủng hộ, chẳng để ác
sự ác duyên, nhơn phi nhơn làm não hại thiện nam, thiện nữ ấy.
Này Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ
ấy, do oai thần lớn của Bát nhã Ba la mật này, mà có được các thứ công đức
thắng lợi trong đời như thế.
Quyển thứ 10, phẩm “Tôn Đạo”, Kinh MHBNBLMĐ,
ghi:
Thiên Đế
thưa: “Bạch Thế Tôn! Các thiện nam, thiện nữ nầy làm sao biết được chư Thiên
trong thế giới đây cùng chư Thiên trong những thế giới mười phương đều ra mắt Bát
nhã Ba la mật để thọ trì, đọc tụng, giảng nói, cúng dường, lễ lạy?”
Đức Phật
nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Nếu có thiện nam, thiện nữ thấy quang minh thanh tịnh
lớn, thời biết chắc là lúc có chư Thiên đến ra mắt Bát nhã Ba la mật để thọ
trì, đọc tụng, giảng thuyết, cúng dường, lễ lạy.
Lại nếu
các thiện nam, thiện nữ nghe mùi hương lạ vi diệu, cũng biết chắc là có
chư Thiên đến ra mắt để thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết, cúng dường, lễ lạy.
Lại nầy
Kiều Thi Ca! Vì các thiện nam, thiện nữ công hạnh tịnh khiết, nên chư Thiên đến
ra mắt Bát nhã Ba la mật để thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết, cúng dường hoan hỉ
lễ lạy.
Trong chỗ
đó nếu có hàng tiểu quỉ liền biến đi, vì họ chẳng kham nổi oai đức lớn của chư
Thiên.
Do hàng
chư Thiên thường lui tới, nên chỗ nào có Bát nhã Ba la mật, thời bốn phía phải
sạch sẽ. Phải thắp đèn, đốt hương thơm, rải những hoa đẹp, dầu thơm rưới đất,
nghiêm sức với những bảo cái, tràng phan.
Lúc
thuyết pháp, các thiện nam, thiện nữ nầy trọn không mỏi mệt, tự cảm thấy thân
thể thơ thới, tâm thần an vui. Đúng pháp nằm nghỉ, an ổn không ác mộng. Trong
giấc mơ thấy Phật ba mươi hai tướng tốt, tám mươi tùy hảo. Chúng Tỳ Kheo cung
kính vây quanh. Đức Phật vì chư Tăng mà thuyết pháp.
Các thiện
nam, thiện nữ nầy nghe và lãnh thọ giáo pháp. Những là lục Ba la mật, tứ niệm
xứ đến mười tám pháp bất cộng. Cũng phân biệt nghĩa của lục Ba la mật đến nghĩa
của pháp bất cộng.
Trong
giấc mơ, các thiện nam, thiện nữ nầy cũng thấy cây
Bồ đề trang nghiêm rất đẹp. Thấy chư Bồ Tát đến cội cây Bồ đề thành Đẳng
Chánh Giác, chuyển pháp luân. Cũng thấy trăm ngàn muôn Bồ Tát đồng kết tập
chánh pháp, luận nghị rằng: Phải cầu Nhất thiết trí như vậy, phải thành tựu
chúng sanh như vậy, phải tịnh Phật quốc độ như vậy. Cũng thấy mười phương vô số
trăm ngàn muôn ức chư Phật. Cũng nghe danh hiệu của chư Phật ấy ở mười phương
nào, nước nào, hiệu là gì, có bao nhiêu Bồ Tát, bao nhiêu Thanh Văn vây quanh
cung kính, đức Phật ấy vì đại chúng mà thuyết pháp. Lại thấy mười phương vô số
trăm ngàn muôn ức chư Phật nhập Niết Bàn. Lại thấy vô số trăm ngàn muôn ức tháp
thất bảo của chư Phật. Lại thấy cúng dường bảo tháp với những hương hoa nhẫn đến
phan lọng, cung kính, tôn trọng, tán thán.
Này Kiều
Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ nầy chiêm bao thấy những cảnh lành như vậy, nên
lúc ngủ cũng yên lành, lúc thức cũng yên lành. Chư Thiên giúp thêm khí lực, nên
người nầy tự cảm thấy thân thể nhẹ nhàng, chẳng quá ham muốn những đồ uống ăn,
y phục, đồ nằm, thuốc men. Đối với tứ sự cúng dường(3), người nầy coi nhẹ. Như
Tỳ Kheo tọa thiền, sau khi xuất thiền định, tâm hiệp với thiền định, chẳng ham
uống ăn, thân tâm họ nhẹ nhàng, thư thái. Tại sao vậy? Vì chư Thiên tự nhiên
dùng tinh chất của món ăn để thêm khí lực cho người nầy.
Mười
phương chư Phật và hàng Thiên, Long, Quỷ thần, A tu la, Càn thát bà, Ca lâu na,
Khẩn na la, Ma hầu la già cũng giúp thêm khí lực cho người nầy.
Này Kiều
Thi Ca! Vì thế nên các thiện nam, thiện nữ muốn được công đức đời hiện tại như
vậy, thời phải thọ trì, thân cận, đọc tụng, giảng thuyết, chánh ức niệm Bát nhã
Ba la mật, cũng chẳng rời tâm Nhất thiết trí.
Nếu không
thể thọ trì đến chánh ức niệm, các thiện nam, thiện nữ phải biên chép quyển
Kinh rồi cung kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường hoa hương, anh lạc,
tràng phan, bảo cái.
Này Kiều
Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ nghe Bát nhã Ba la mật nầy, rồi thọ trì,
đọc tụng, giảng thuyết, chánh ức niệm, biên chép quyển Kinh, cung kính, tôn
trọng, tán thán, cúng dường hoa hương, anh lạc, phan cái thời công đức tứ sự
cúng dường mười phương chư Phật và hàng đệ tử, cũng xây tháp bảy báu sau khi
chư Phật và đệ tử nhập Niết Bàn”.
Thích nghĩa cho Đoạn năm này:
(1). Giới phẩm, định phẩm, huệ
phẩm, giải thoát phẩm, giải thoát tri kiến phẩm gọi là Năm phần pháp thân
(Phạm: Asamasama-paĩcaskandha) cũng gọi là Vô lậu ngũ uẩn: Trong Đại thừa nghĩa
chương quyển 20, phần đầu,Ngài Tuệ Viễn giải thích năm phần pháp thân như sau:
1- Giới phẩm (Phạm: Zìla-skandha), cũng gọi Giới thân, Giới uẩn, Giới
chúng: Chỉ cho Giới pháp thân Như lai đã xa lìa hết thảy lỗi lầm của 3 nghiệp
thân, khẩu, ý; 2- Định phẩm (Phạm: Samàdhiskandha), cũng gọi Định thân,
Định uẩn, Định chúng: Trong Định pháp thân của Như lai, chân tâm vắng lặng, tự
tính không động, xa lìa tất cả vọng niệm; 3- Huệ phẩm
(Phạm:Prajĩà-skandha), cũng gọi Huệ thân, Huệ uẩn, Huệ chúng: Huệ pháp thân của
Như lai thể chân tâm tròn sáng, tự tính sáng tỏ, quán xét thấu suốt hết thảy
pháp tính, tức chỉ cho căn bản trí; 4- Giải thoát phẩm (Phạm:
Vimuktiskandha), cũng gọi Giải thoát thân, Giải thoát uẩn, Giải thoát chúng:
Giải thoát pháp thân của Như lai tự thể không bị câu thúc, giải thoát khỏi tất
cả sự trói buộc; 5- Giải thoát tri kiến phẩm (Phạm: Vimukti-jĩàna-darzana-skandha),
cũng gọi Giải thoát tri kiến thân, Giải thoát tri kiến uẩn, Giải thoát tri kiến
chúng: Giải thoát tri kiến pháp thân của Như lai tự thể chứng biết xưa nay vốn
thanh tịnh vô nhiễm, đã thực sự giải thoát. Đó là năm thứ công đức trong tự thể
của Phật hay A la hán. Thân tức là thể, 5 thứ trên là thể của chư Phật, cho nên
gọi là thân; thân cũng có nghĩa là chỗ tích tụ mọi công đức, vì thế gọi là
thân. Về thứ tự của Ngũ phần pháp thân thì rất rõ ràng, từ giới sinh định,
từ định phát huệ, do huệ mà được giải thoát, do giải thoát mà có giải thoát tri
kiến. Đó là lối giải thích của Đại thừa. (Phỏng theo tự điển Phật Quang).
Đây là thứ tự tu hành quan trọng trong việc tu tập giải thoát. Nên nhắc lại để
nhớ!
(2). Bốn bộ chúng: Cũng gọi
là Bốn chúng (Tứ chúng), bao gồm hai chúng xuất gia là Tỳ kheo và
Tỳ kheo ni, hai chúng tại gia là cư sĩ nam (ưu bà tắc) và cư sĩ nữ (ưu bà
di).
(3). Tứ sự cúng dường: Bốn thứ cúng
dường gồm thức ăn thức uống, chỗ ở, y phục, thuốc men. Đã giải thích nhiều lần.
Lược giải:
(cho riêng Đoạn năm này)
Kinh nói nhiều, nhưng nội dung Đoạn
năm chỉ thuyết hai phần chánh: 1- Kinh ca tụng Bát nhã Ba la mật là tôn đạo
trong sáu Ba la mật kể cả các pháp môn Phật học khác và 2- Công đức của người
thọ trì, đọc tụng vì người diễn nói Bát nhã Ba la mật.
1- Tính cách tôn đạo của Bát nhã Ba la mật:
Phẩm “Tôn Đạo”, quyển thứ 10, MHBNBLMĐ, Phật bảo thị
giả của Phật:
“Này A Nan! Vì sắc không hai pháp, vì thọ,
tưởng, hành, thức không hai pháp, nhẫn đến vì Vô Thượng Bồ đề không hai pháp
vậy. Tại sao? Vì sắc sắc tướng rỗng không. Đàn na Ba la mật và sắc không hai,
không khác, nhẫn đến Vô Thượng Bồ đề và Đàn na Ba la mật không hai, không khác.
Năm Ba la mật kia cũng như vậy. Vì thế nên, này A Nan! Chỉ ca ngợi Bát nhã Ba
la mật là tôn đạo của năm Ba la mật đến Nhất thiết chủng trí.
Này A Nan! Ví như mặt đất, đem hột giống rải
lên trên, đủ nhơn duyên hòa hiệp bèn mọc lên. Các hột giống ấy nương nơi đất mà
mọc lên. Cũng vậy, năm Ba la mật nương Bát nhã Ba la mật mà sanh. Tứ niệm xứ
đến Nhất thiết chủng trí đều nương Bát nhã Ba la mật mà sanh. Thế nên Bát
nhã Ba la mật là tôn đạo của năm Ba la mật đến mười tám pháp bất cộng”(1).
Phẩm “Khen Bát Nhã” quyển 172, Hội thứ I, ĐBN, cũng
nói:
“Các đại Bồ Tát sở học Bát nhã Ba la mật vượt hơn bố thí, tịnh giới, an
nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự vô số lượng. Thí như bọn người mùbẩm sinh, có cả trăm
ngàn mà không có một kẻ sáng mắt dắt dẫn đi, cố nhiên chẳng thể gần tới đường
chính, huống là đi xa thấu đại thành phong phú an vui. Bố thí, tịnh giới, an
nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự như thế là bọn người mù, nếu không có Bát nhã Ba la
mật là kẻ sáng mắt dẫn đường, chẳng thể đạt Bồ Tát Chánh đạo, huống là năng vào
được đại thành Nhất thiết trí trí.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lựnhư
thế, do Bát nhã Ba la mật đây nhiếp thọ, nên bố thí, trì giới v.v… tất cả đều
được “đến bờ kia”.
(…)Vì chẳng phải do bố thí Ba la mật nhiếp thọ, mà năm cái khác được gọi
là đến bờ kia; vì chẳng phải do tịnh giới Ba la mật nhiếp thọ, mà năm cái khác
được tên là đến bờ kia; vì chẳng phải do an nhẫn Ba la mật nhiếp thọ v.v…mà năm
cái khác được tên là đến bờ kia, chính do Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ, nên
năm cái khác được coi là đến bờ kia. Vì sao? Vì các Bồ tát cốt yếu là trụ Bát
nhã Ba la mật mới có khả năng viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn,
tịnh lự; chẳng phải trụ năm cái khác có thể thành tựu việc ấy. Vì vậy nên Bát
nhã Ba la mật đối với năm thứ trước là tối thắng, là tôn quí, là cao siêu, là
vi diệu… không gì bằng”.
Sáu Ba la mật được coi là “đáo bỉ ngạn” vì Bồ tát tu sáu pháp nầy sẽ
được giác ngộ và đến được bến bờ kia. Nếu tu bố thí không thôi thì có thể giải
trừ san tham, vì là xả kỷ, nên thân tâm thoát những trói buộc về vật chất cũng
như tinh thần; tu trì giới có thể trừ các ác nghiệp về thân khẩu ý thì thân tâm
thanh tịnh; tu nhẫn nhục có thể đối trị sân hận, khiến tâm an tịnh; tu tinh tấn
có thể đối trị tâm giải đãi, biếng nhác, làm tăng trưởng pháp lành; tu thiền
định có thể đối trị tán loạn, để được cảnh giới tịch lặng của tâm; riêng tu Bát
Nhã có thể phá trừ vô minh, phiền não mà trừ vô minh phiền não tức là giải
thoát. Vì vậy, Bát Nhã mới được coi là nguyên lý chỉ đạo của năm Ba la mật kia.
Năm Ba la mật bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định như
những người mù bẩm sanh cần có Bát Nhã là người sáng mắt hướng dẫn mới có thể
đạt được Nhất thiết trí trí.“Vì muốn đạt được Nhất thiết trí trí phải tìm cầu
trong Bát Nhã. Muốn đạt được Bát Nhã phải tìm cầu trong Nhất thiết trí trí”.
Một khi đạt được “Nhất thiết trí trí thời có thể xa lìa hết thảy lỗi lầm của 3
nghiệp thân, khẩu, ý (tức thành tựu vô lượng giới phẩm); xa lìa tất cả vọng
niệm điên đảo (tức thành tựu vô lượng định phẩm); chân tâm tròn đầy, thấu suốt
hết thảy pháp tánh (tức thành tựu huệ phẩm); tự thể không bị câu thúc, có nghĩa
là giải thoát khỏi tất cả sự trói buộc thế gian (tức thành tựu giải thoát
phẩm); tự thể chứng biết xưa nay vốn thanh tịnh vô nhiễm, đã thực sự giải thoát
mọi sở tri (tức giải thoát tri kiến phẩm). Nên Kinh nói phải coi người nầy như
Phật.
Vì vậy, Bát nhã Ba la mật được coi là tôn đạo. Do đó, nơi
nào có Kinh Bát nhã Ba la mật thì nơi đó thường có chư Thiên, người, A tu la…
đến lễ bái, đi nhiễu, cúng
dường”!(2)
Thế nên những ai muốn được công đức đời hiện tại, vị lai như vậy, thời
phải thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết, chánh ức niệm Bát Nhã và hồi hướng Nhất
thiết trí trí.
Đó chính là trụ trong Bát Nhã. Nhưng phải thấy biết tất cả pháp là
không, rỗng không, vô sở hữu bất khả đắc. Bát nhã Ba la mật cũng rỗng không, vô
sở hữu bất khả đắc. Trụ trong Bát Nhã lấy vô nhị, vô sanh, vô sở đắc làm phương
tiện, nên không thấy mình trụ, có pháp để trụ, chỗ trụ. Đó là trụ trong Bát Nhã
hay trụ trong Tánh Không. Trụ chỗ vô sở trụ mới được gọi là chân trụ.(3)
2- Công đức của người thọ trì.
Phật bảo Kiều Thi Ca:
- “Này Kiều Thi Ca!Nếu thiện nam, thiện nữ nào muốn được vô biên công
đức thắng lợi hiện tại như vậy, thì nên đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm này
chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các
hữu tình tuyên thuyết truyền bá rộng rãi, hoặc lại sao chép, trang trí đẹp đẽ,
cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen như đã nói trên.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ ấy thường được cha mẹ, sư
trưởng, bà con, bạn bè, trí thức, quốc vương, đại thần và các Sa môn, Bà la môn
v.v… thương kính, cũng được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đại Bồ tát, Độc
giác, A la hán, Bất hoàn, Nhất lai, Dự lưu v.v… ở vô biên thế giới trong mười
phương nhớ nghĩ. Lại được chư Thiên, ma, phạm, nhơn và phi nhơn, A tu la v.v…
trong thế gian thương giúp. Thiện nam, thiện nữ ấy thành tựu biện tài tối thắng
vô đoạn…”
Kết luận:
(cho riêng Đoạn năm này)
Xin lấy đoạn Kinh trong phẩm “Thí
Dụ” quyển 311 – 312, Hội thứ I, ĐBN để kết luận cho phẩm nầy:
Dù hữu tin, hữu nhẫn, hữu ái, hữu
dục, hữu giải, hữu hành, hữu hỉ, hữu lạc, hữu xả, hữu tinh tiến, hữu tôn trọng,
hữu tịnh tâm, ly phóng dật, bất tán loạn mà không nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật và
tất cả pháp Phật làm phương tiện thì cũng giống như người băng qua sa mạc hay
nơi hoang vắng đầy thú dữ trộm cướp mà không mang lương thực, khí giới, thì làm
sao thoát hiểm để đến chỗ lợi vui? Cũng giống như những người đi lấy nước dùng
bình bằng đất chưa nung, làm sao lấy được nước? Người đi biển không dùng phao
làm chỗ nương tựa, làm sao khỏi chết chìm? Người già một trăm hai mươi tuổi lại
bệnh tật, không có người xóc nách, làm sao lê thân được vài bước nói chi đi cả
dặm? Vì vậy, tu Bát nhã Ba la mật là phải biên chép, thọ trì, đọc tụng, suy
nghĩ, tu tập, vì người diễn nói thì mới không bị thối thất nửa đường, phải rơi
vào bậc Thanh văn hay Độc giác.
Bát nhã Ba la mật đóng vai trò quan
trọng trong việc luyện tâm luyện trí để trở thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
giác. Nên Bát Nhã là chỗ đáng nương tựa. Do đó, tùy thuận và nhiếp thọ Bát nhã
Ba la mật là phương tiện cần yếu nếu muốn được Nhất thiết trí trí, Chánh giác
hay Giác ngộ. Bát nhã Ba la mật như vậy mới được xem là thượng tôn trong tất cả
pháp và nhân cách hóa là mẹ, mẹ sinh mẹ dưỡng của chư Phật và chư Bồ tát. Vai
trò đó đáng được “tâng bốc” hơn bao giờ hết. Vì vậy, mà phải thọ trì đọc tụng
vì người tuyên thuyết, không những thế mà còn đem hương hoa, đèn sáng, phẩm vật
thượng diệu mà vì cúng dường…
Thích nghĩa cho phần lược giải của
Đoạn năm này:
(1). Chỉ một đoạn Kinh ngắn
nầy trong phẩm “Tôn Đạo” quyển thứ 10, Kinh MHBNBLMĐ mà tóm lược được gần 20
quyển thuộc phẩm “So Lường Công Đức”(từ quyển 106 đến hết quyển 125) của Kinh
ĐBN.
(2). Phẩm “Tôn đạo” nói trên.
(3). Giáo pháp nầy được lặp đi lặp
lại hàng trăm lần trong phẩm “So Lường Công Đức”, kéo dài suốt 66 quyển trong
Kinh ĐBN.
6. Đoạn sáu: Đoạn kế
tiếp của phẩm “So Lường Công Đức”, phần sau quyển 127 đến phần
đầu quyển 130, Hội thứ I, ĐBN. (Tương đương với phẩm “Xá Lợi”
quyển thứ 11, MHBNBLMĐ).
Gợi ý:
Trong phân đoạn này, Phật hỏi Đế
Thích “giữa Bát nhã Ba la mật và xá lợi Phật”, Đế Thích chọn cái nào? Đế Thích
bạch Phật là chọn Bát Nhã với lý do là Bát Nhã sanh ra Phật, còn xá lợi chỉ là
Phật thân. Nếu Phật không tu Bát Nhã và được Vô Thượng Chánh giác, thì xá lợi
chỉ là tro cốt cũng như tro cốt của bao chúng sanh khác. Nhờ tu Bát Nhã mà Phật
thành Vô Thượng Giác, cho nên được người trời hâm mộ, nên xá lợi cũng được tôn
kính. Kinh một lần nữa xưng tụng Bát Nhã hơn bao giờ hết. Bát nhã Ba la mật như
thế thành tựu công đức quảng đại thù thắng; thành tựu công đức quảng đại vô
lượng, vô biên, vô đối, vô tận, không gì bằng, không thể nói hết... “Bát Nhã là
Phật, Phật là Bát nhã Ba la mật không hai, không khác”.
Tóm lược:
“Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế
Thích: Này Kiều Thi Ca! Giả sử lấy xá lợi của Phật làm một phần, lấy việc sao
chép Bát Nhã làm một phần. Trong hai phần này, ông chọn phần nào?
Trời Đế Thích liền bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Giả sử xá lợi của Phật
đầy cả châu Thiệm bộ này lấy làm một phần,việc sao chép Bát Nhã, làm một phần,
trong hai phần này, theo ý con thì con chọn Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì con
đối với xá lợi của chư Phật chẳng phải chẳng tín thọ, chẳng phải chẳng ưa
thích, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Nhưng xá lợi đều do Bát Nhã
mà xuất sanh, đều là sự huân tu thế lực công đức của Bát Nhã.
Lúc bấy giờ, Xá Lợi Tử bảo trời Đế
Thích: Này Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật như thế đã chẳng thể nắm bắt được
vì nó không sắc, không thấy, không đối đãi, gọi là vô tướng thì ông làm sao nắm
bắt được! Vì sao? Vì Bát Nhã như thế không thủ không xả, không tăng không
giảm, không trụ không tán, không ích không tổn, không nhiễm không tịnh. Bát Nhã
như thế chẳng cùng pháp chư Phật, chẳng bỏ pháp phàm phu; chẳng cùng pháp Bồ
tát, chẳng bỏ pháp phàm phu; chẳng cùng cảnh giới vô vi, chẳng bỏ cảnh giới hữu
vi. Bát Nhã như thế chẳng cùng bố thí Ba la mật, chẳng cùng tịnh giới, an nhẫn,
tinh tấn, tịnh lự. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng 18 pháp không. Bát nhã
Ba la mật như thế chẳng cùng chơn như, chẳng cùng pháp giới, pháp tánh, định
pháp, trụ pháp, thật tế v.v… Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng tứ Thánh đế
khổ, chẳng cùng bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Bát nhã Ba la mật
như thế chẳng cùng tám giải thoát, chẳng cùng tám thắng xứ, chín định thứ đệ,
mười biến xứ đến Nhất thiết trí. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng Dự lưu
quả đến A la hán quả; chẳng cùng Độc giác quả đến quả vị Giác ngộ tối cao.
Bấy giờ Thiên Đế Thích trả lời Xá
Lợi Tử rằng: Như vậy, như vậy. Thật như lời Đại đức vừa nói. Bạch Đại đức! Bát
nhã Ba la mật như thế thật chẳng khá lấy, vì vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất
tướng, chỗ gọi vô tướng. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế vô thủ vô xả,
vô tăng vô giảm, vô tụ vô tán, vô ích vô tổn, vô nhiễm vô tịnh. Bạch Đại đức! Bát
nhã Ba la mật như thế, chẳng cùng pháp chư Phật, chẳng bỏ pháp Dị sanh; chẳng
cùng pháp Bồ tát, chẳng bỏ pháp Dị sanh; chẳng cùng pháp Độc giác, chẳng bỏ
pháp Dị sanh; chẳng cùng pháp Thanh văn, chẳng bỏ pháp Dị sanh; chẳng cùng vô
vi giới, chẳng bỏ hữu vi giới. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng
cùng bố thí Ba la mật, chẳng cùng tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát
nhã Ba la mật. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng 18 pháp
không, chẳng cùng thập nhị chơn như, chẳng cùng tứ Thánh đế, chẳng cùng bốn tĩnh
lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế
chẳng cùng tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, chẳng
cùng 37 pháp trợ đạo. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng tam
giải thoát môn, chẳng cùng năm nhãn, sáu thần thông, Phật mười lực, bốn vô sở
úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả, mười tám pháp Phật bất
cộng. Bạch đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng pháp vô vong thất,
tánh hằng trụ xả, chẳng cùng Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng
trí, chẳng cùng tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba
la mật như thế chẳng cùng Dự lưu quả, Nhất lai, Bất hoàn, A La Hán quả, chẳng
cùng Độc giác Bồ đề. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng hạnh Bồ
tát Ma ha tát, chẳng cùng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Bạch Đại đức! Nếu đối với Bát Nhã có
khả năng biết như thế, là nắm bắt đúng Bát Nhã, là tu hành đúng Bát Nhã. Vì
sao? Vì Bát Nhã chẳng phải hai pháp, vì không hai tướng(1). Như vậy tịnh
lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật cũng chẳng phải hai pháp, vì
không hai tướng.(Q.127, ĐBN)
Lúc bấy giờ, Phật khen trời Đế
Thích: Hay thay! Đúng như ông đã nói. Bát nhã Ba la mật thậm thâm chẳng phải
hai pháp. Vì sao? Vì Bát Nhã không có hai tướng. Như vậy, tịnh lự, tinh tấn, an
nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật cũng chẳng phải hai pháp. Vì sao? Vì tịnh lự,
tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật ấy cũng không hai tướng.
Này Kiều Thi Ca! Có những kẻ muốn
khiến Bát nhã Ba la mật thậm thâm có hai tướng, tức là muốn khiến chơn như cũng
có hai tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm cùng với chơn
như không hai, không khác.
Này Kiều Thi Ca! Có những kẻ muốn
khiến tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật có hai tướng, tức
là muốn khiến chơn như cũng có hai tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì tịnh
lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật cùng với chơn như không hai,
không khác.
Này Kiều Thi Ca! Có những kẻ muốn
khiến Bát nhã Ba la mật thậm thâm có hai tướng, tức là muốn khiến pháp giới
cũng có hai tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm cùng với
pháp giới không hai, không khác.
Này Kiều Thi Ca! Có những kẻ muốn
khiến tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật có hai tướng, tức
là muốn khiến pháp tánh cũng có hai tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì tịnh
lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật cùng với pháp tánh không
hai, không khác.Đối với pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh
giới bất tư nghì cũng lại như thế.
Bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế, trời, người, A tu la v.v... trong thế
gian, đều nên cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Nơi nào có thờ Bát nhã
Ba la mật thì Thiên chúng, người, A tu la v.v… đều đến nhóm hợp, nghe pháp, đi nhiễu,
lễ bái. Vì sao? Vì tất cả đại Bồ tát đều y nơi Bát nhã Ba la mật như thế mà
tinh cần tu học, đã chứng, sẽ chứng, đang chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề.
Bạch Thế Tôn! Như con ngồi ở trong
điện Thiện Pháp ở cõi trời Ba mươi ba, trên tòa Thiên Đế, vì các chúng trời
tuyên thuyết Chánh pháp. Khi ấy có vô lượng các Thiên vương, thiên tử v.v… đi
đến chỗ con để nghe thuyết pháp, cung kính cúng dường tôn trọng ngợi khen, đi
nhiễu, lễ bái. Khi con không ở đó, các Thiên vương, Thiên tử v.v… cũng đi đến
đó, tuy chẳng thấy con, nhưng xem như có con, cung kính cúng dường, hoặc nói,
chỗ này là tòa của trời Đế Thích, vì chư thiên mà thuyết pháp, chúng ta nên xem
như Thiên chủ có mặt, cúng dường, đi nhiễu, lễ bái.
Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế,
nếu có người sao chép, thọ trì, đọc tụng, vì các hữu tình tuyên thuyết truyền
bá rộng rãi, thì nên biết ngay ở chỗ ấy có vô lượng, vô số trời, rồng, Dược
xoa, Kiền đạt phược, A tu la v.v… ở cõi này và vô biên thế giới khác trong mười
phương đều đến tụ tập, dù không có người nói, nhưng vì kính trọng pháp nên cũng
cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, đi nhiễu, lễ bái. Vì sao? Vì tất cả
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều do Bát nhã Ba la mật như thế mà được sanh; tất
cả chúng đại Bồ tát, Độc giác, Thanh văn..., đều y nơi Bát nhã Ba la mật như
thế mà được sanh; xá lợi Phật cũng do Bát nhã Ba la mật như thế mà đượm nhuần
công đức, được cúng dường, tôn trọng.
Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát nhã Ba la
mật cùng Bồ tát hạnh và sở chứng Nhất thiết trí trí là nhân, là duyên, là sở
nương, là năng dẫn phát. Bạch Thế Tôn! Do duyên cớ này nên con tác thuyết đây:
Dù cho xá lợi Phật đầy dẫy châu Thiệm bộ lấy làm một phần, thơ tả Bát nhã Ba la
mật lấy làm một phần, trong hai phần này, ý con thà lấy Bát nhã Ba la mật còn hơn!
Bạch Thế Tôn! Đối Bát nhã Ba la mật
đây, thọ trì đọc tụng, chân chính nghĩ nhớ, tâm khế hợp với pháp nên đều chẳng
thấy các tướng sợ hãi. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm
không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết.
Bạch Thế Tôn! Do Bát nhã Ba la mật này
không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết, cho nên tịnh lự, tinh tấn,
an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật cũng không tướng, không trạng, không ngôn,
không thuyết. Bạch Thế Tôn! Do Bát nhã Ba la mật này không tướng, không trạng,
không ngôn, không thuyết, cho nên tất cả pháp cũng không tướng, không trạng,
không ngôn, không thuyết.
Bạch thế Tôn! Do Bát nhã Ba la mật này
không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết, cho nên Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác biết được thật tướng tất cả pháp là không tướng, không trạng, không
ngôn, không thuyết mà chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, vì các hữu tình thuyết
tất cả pháp là không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết.
Bạch Thế Tôn! Cho nên Bát nhã Ba la
mật đáng được nhận lãnh vô lượng tràng hoa, y phục, anh lạc, tràng phan v.v…
của tất cả trời, người, A tu la v.v… trong thế gian đem đến cung kính cúng
dường, tôn trọng ngợi khen!
Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện
nữ đối với Bát nhã Ba la mật này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần
tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết truyền bá rộng rãi, hoặc
lại sao chép, trang trí bằng nhiều vật báu, cung kính cúng dường, thì thiện
nam, thiện nữ ấy, nhất định chẳng đọa địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, nơi biên địa,
chỗ không Phật, chẳng rơi vào bậc Thanh văn và Độc giác, quyết hướng đến quả vị
Giác ngộ tối cao, thường thấy chư Phật, được nghe Chánh Pháp, chẳng lìa bạn
lành, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, từ cõi Phật này đến cõi Phật
khác, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn và các chúng
đại Bồ tát, thường đem vô lượng tràng hoa, hương xoa, hương bột, y phục, anh
lạc, tràng phan v.v… mà cúng dường.
Bạch Thế Tôn! Giả sử xá lợi Phật đầy
cả tam thiên thế giới này lấy làm một phần; sao chép Bát Nhã làm một phần.
Trong hai phần này, con chỉ chọn Bát Nhã. Vì sao? Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác và xá lợi Phật trong tam thiên thế giới đều từ Bát nhã Ba la mật xuất
sanh. Lại nữa, xá lợi Phật trong tam thiên thế giới đều vì do thế lực công đức
đã huân tu(2) Bát nhã Ba la mật nên được Chư thiên, người, A tu la v.v... cung
kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Do nhân duyên này nên các thiện nam,
thiện nữ v.v... cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen xá lợi Phật, nhất
định chẳng bị đọa vào ba ác đạo, theo sở nguyện lần lần do pháp Tam thừa mà
nhập Niết Bàn. (Q.127, ĐBN)
Vì thế nên, bạch Thế Tôn! Nếu có
người được thấy Phật, nếu có người thấy được quyển Kinh Bát nhã Ba la mật, cũng
đồng không khác. Vì Bát nhã Ba la mật với Phật không hai không khác vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Như đức Phật trụ
thế có ba sự thị hiện, nói mười hai bộ Kinh từ Tu Đa La đến Ưu Bà Đề Xá(3).
Có thiện nam, thiện nữ thọ trì, đọc
tụng, giảng thuyết Bát nhã Ba la mật nầy cũng đồng như đức Phật trụ thế
không khác. Tại sao vậy? Vì trong Bát nhã Ba la mật nầy xuất sanh ba sự thị
hiện và mười hai bộ Kinh vậy.
Bạch Thế Tôn! Hoặc thấy Phật, hoặc
thấy Kinh Bát nhã Ba la mật, hai công đức ấy như nhau không khác. Vì sao? Vì
Bát nhã Ba la mật, cùng với chư Phật đồng nhau, không hai, không khác.
Bạch Thế Tôn! Hoặc thiện nam, thiện
nữ dùng vô lượng các thứ tràng hoa, hương xoa, y phục, anh lạc, tràng phan,
lọng báu v.v… cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen tất cả Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác ở mười phương thế giới như cát sông hằng. Hoặc có thiện nam,
thiện nữ sao chép Bát nhã Ba la mật cũng dùng vô lượng tràng hoa, hương xoa, y
phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu v.v… cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi
khen. Hai công đức này ngang nhau không khác. Vì sao? Vì các đức Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác kia đều y nơi Bát nhã Ba la mật mà xuất sanh.
Bạch Thế Tôn! Nếu có thiện nam,
thiện nữ biên chép quyển Kinh Bát nhã Ba la mật này và thọ trì, đọc tụng, cung
kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường, thì sẽ xa lìa tất cả suy não sợ hãi.Ví
như người mắc nợ sợ chủ nợ mà kề cận phụng sự Quốc vương, thời chủ nợ trở lại
cung kính người này. Người này không còn lo sợ, vì nương oai lực của Quốc vương
vậy.
Cũng vậy, nhờ sự huân tu Bát nhã Ba
la mật mà xá lợi của chư Phật được cung kính cúng dường. Xá lợi ví như người
mắc nợ, còn Bát nhã Ba la mật ví như Quốc vương. Nương nhờ quốc vương mà người
mắc nợ được cung kính.
Nhất thiết chủng trí của chư Phật
cũng do Bát nhã Ba la mật huân tu mà được thành tựu. Vì những lý lẽ như trên,
nên trong hai phần, con lấy phần Bát nhã Ba la mật. Tại sao vậy? Bạch Thế Tôn!
Vì trong Bát nhã Ba la mật xuất sanh xá lợi và ba mươi hai tướng của chư Phật. Bát
nhã Ba la mật cũng xuất sanh mười trí lực, bốn vô úy, bốn vô ngại, mười tám
pháp Phật bất cộng, đại từ đại bi. Bát nhã Ba la mật xuất sanh năm Ba la mật,
được gọi là đáo bỉ ngạn. Bát nhã Ba la mật xuất sanh Nhất thiết chủng trí v.v…
Bạch đức Thế Tôn! Trong đại thiên
thế giới, nếu có ai thọ trì, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán Bát nhã
Ba la mật, chỗ đó tất cả người hoặc quỷ thần không làm hại được, người này lần
lần được nhập Niết Bàn. Bát nhã Ba la mật có lợi ích lớn như vậy, có thể làm
Phật sự trong Đại Thiên thế giới.
Bạch Thế Tôn! Nếu ở trong thế giới
nào lưu hành Bát nhã Ba la mật như thế thì nên biết nơi ấy chắc chắn có Phật
xuất hiện ở thế gian, làm lợi lạc tất cả.
Bạch Thế Tôn! Thí như đại thần
châu quí báu vô giá đầy đủ vô lượng các thứ oai đức thắng diệu, tùy nơi có
thần châu này, loài nhơn phi nhơn hoàn toàn không làm não hại được. Nếu có
người bị các thứ bệnh nhiệt, phong đàm… đem thần châu này đeo vào thân, thì các
thứ bệnh ấy, không bệnh nào mà không chữa khỏi. Châu này ở trong tối thì có khả
năng phát ra ánh sáng, ở chỗ nóng thì mát, ở chỗ lạnh thì ấm. Tùy địa phương có
thần châu này, thời tiết điều hòa, chẳng lạnh chẳng nóng. Nếu nơi nào có thần
châu này thì rắn, bò cạp v.v… các loài độc không dám ở. Nếu có nam tử hoặc nữ
nhân bị trúng phải độc, đau đớn không chịu nổi, có người cầm thần châu này đưa
cho họ thấy, thì do oai thế của thần châu, các độc liền tiêu mất. Nếu các hữu
tình thân bị hủi, lác, ghẻ lở, bị các bệnh mắt, tai, mũi, lưỡi, bệnh yết hầu,
bệnh thân… đeo thần châu này thì các bệnh đều lành. Nếu trong các ao, rãnh,
suối, giếng v.v... nước dơ bẩn, hoặc sắp khô cạn, đem thần châu thả vào thì nước
liền tràn đầy, thơm sạch, lóng trong đủ tám thứ công đức. Nếu dùng vật màu xanh
gói bửu châu nầy để vào nước, thời nước liền biến thành màu xanh. Nếu dùng vật
màu vàng, đỏ, trắng, hồng hay các màu hợp lại gói bửu châu nầy để vào nước,
thời nước liền thành các màu ấy. Đại thần châu quí báu vô giá như thế, oai đức
vô biên, nói chẳng hết được. Nếu đặt trong rương tráp thì cũng khiến rương tráp
ấy thành tựu đầy đủ oai đức vô biên v.v…
Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật cũng lại như vậy, là gốc của các đức, có khả
năng diệt trừ vô lượng pháp ác bất thiện. Nơi nào có nó thì khiến các loại khổ
não về thân tâm của các hữu tình đều được tiêu trừ, loài nhơn phi nhơn v.v...
chẳng thể làm hại được.
Bạch Thế Tôn! Đại thần châu quí báu
vô giá đã nói đó, chẳng những chỉ dụ cho Bát nhã Ba la mật mà cũng còn dụ cho
Nhất thiết trí trí của Như Lai.
Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật
như thế, đầy đủ vô lượng công đức thù thắng, cũng có khả năng dẫn phát vô lượng
công đức thanh tịnh thù thắng thế gian và xuất thế gian.
Sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, xá
lợi được cúng dường, đều là do đạo lực của Bát nhã Ba la mật, đạo lực của tịnh
lự đến Bố thí Ba la mật, nội không đến vô pháp hữu pháp không, pháp tướng, pháp
trụ, pháp vị, pháp tánh, thật tế, bất tư nghì giới đến 37 pháp trợ đạo, Nhất
thiết trí đến quả vị Giác ngộ tối cao.
Thiện nam, thiện nữ nghĩ rằng: Xá
lợi của Phật đây là chỗ Nhất thiết trí, đại từ đại bi, là chỗ những công đức
dứt diệt hẳn tất cả kiết sử và tập khí(4), do đây nên xá lợi được cung kính,
cúng dường.
Bạch đức Thế Tôn! Xá lợi là trụ xứ
của những công đức Ba la mật, là trụ xứ của bất cấu bất tịnh Ba la mật, là trụ
xứ của bất sanh bất diệt Ba la mật, là trụ xứ của bất nhập bất xuất Ba la mật,
là trụ xứ của bất tăng bất giảm Ba la mật, là trụ xứ của bất lai bất khứ Ba la
mật.
Bạch Thế Tôn! Vì xá lợi Phật là kết
quả huân tu cực kỳ viên mãn về thật tánh các pháp Ba la mật, là vật nương tựa
cực kỳ thanh tịnh của thật tánh các pháp Ba la mật, nên có thể nhận sự cung
kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen của tất cả trời, người, A tu la v.v...
trong thế gian.
Bạch đức Thế Tôn! Chẳng luận xá lợi
đầy cả Đại Thiên thế giới. Giả sử xá lợi của Phật đầy cả hằng sa thế giới làm
một phần. Lại có người chép quyển Kinh Bát nhã Ba la mật làm một phần. Trong
hai phần trên đây, con lấy phần Bát nhã Ba la mật. Tại sao vậy? Vì trong Bát
nhã Ba la mật nầy xuất sanh xá lợi của chư Phật. Do Bát nhã Ba la mật nầy huân
tu nên xá lợi được cúng dường vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu thiện nam,
thiện nữ cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán xá lợi, được công đức phước
báo vô biên, hưởng thọ phước lạc trong cõi thiên nhơn, nhẫn đến do nhơn duyên
phước đức này nên sẽ được dứt hết khổ.
Nếu thiện nam, thiện nữ thọ trì, đọc
tụng, giảng thuyết, chánh ức niệm Bát nhã Ba la mật nầy, sẽ được đầy đủ
Tịnh lự Ba la mật đến Bố thí Ba la mật, sẽ được đầy đủ tứ niệm xứ đến mười tám
pháp Phật bất cộng, hơn bực Thanh Văn, Bích Chi Phật mà an trụ bậc Bồ Tát. Đã
an trụ bậc Bồ Tát thì được thần thông Bồ Tát, từ một Phật quốc đến một Phật quốc,
cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật, thành thục chúng sanh, thanh tịnh
Phật độ.
Nếu thiện nam, thiện nữ cung kính
cúng dường, tôn trọng ngợi khen xá lợi Phật, thì thiện nam, thiện nữ ấy
do thiện căn này ở cõi người, trời, thọ hưởng giàu sang, sung sướng hoặc sanh
ra thuộc dòng Sát đế lợi, Bà la môn, Trưởng giả, Cư sĩ hoặc các chúng trời cõi
Dục, cõi Sắc cứu cánh v.v…
Bạch đức Thế Tôn! Chẳng phải khinh
mạn bất kính mà con chẳng lấy xá lợi. Vì cúng dường Bát nhã Ba la mật thời
chính là cúng dường xá lợi vậy.
Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện
nữ cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Bát nhã Ba la mật như thế, làm
tăng trưởng tất cả Phật pháp, cũng nhiếp thọ được tất cả sự giàu sang, an lạc,
tự tại của thế gian và xuất thế gian. Như vậy là đã cung kính cúng dường, tôn
trọng ngợi khen xá lợi Phật.(Q.128, ĐBN)
Lại nữa, Bạch Thế Tôn! Nếu thiện
nam, thiện nữ muốn được thường thấy pháp thân, sắc thân, trí tuệ thân v.v...
của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện thuyết diệu pháp ở vô số vô biên
thế giới trong mười phương, thì nên đối với Bát nhã Ba la mật như thế, cung
kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng,
tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết, truyền bá rộng
rãi.
Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện
nữ tu hành Bát nhã Ba la mật, thì nên lấy pháp tướng, tu tùy Phật niệm.
Bạch Thế Tôn! Có hai loại pháp
tướng: Những pháp tướng hữu vi và những pháp tướng vô vi:
Thế nào gọi là những pháp tướng
hữu vi? Đó là biết như thật về trí nội không nhẫn đến trí vô pháp
hữu pháp không, trí chơn như đến trí cảnh giới bất tư nghì; trí tứ Thánh đế
nhẫn đến trí mười tám pháp bất cộng; hoặc trí Nhất thiết trí đến trí của Vô
Thượng Giác ngộ; hoặc trí pháp thiện, trí pháp bất thiện, trí pháp vô ký; hoặc
trí pháp quá khứ, trí pháp vị lai, trí pháp hiện tại; hoặc trí pháp thuộc về
dục giới, trí pháp thuộc về sắc giới, trí pháp thuộc về vô sắc giới; hoặc trí
pháp học, trí pháp vô học, trí pháp phi học phi vô học; hoặc trí pháp kiến sở
đoạn, trí pháp tu sở đoạn, trí pháp phi sở đoạn; hoặc trí pháp hữu sắc, trí
pháp vô sắc, hoặc trí pháp hữu kiến, trí pháp vô kiến; hoặc trí pháp hữu đối,
trí pháp vô đối; hoặc trí pháp hữu lậu, trí pháp vô lậu; hoặc trí pháp hữu vi,
trí pháp vô vi; hoặc trí pháp hữu tội, trí pháp vô tội; hoặc trí pháp thế gian,
trí pháp xuất thế gian; hoặc trí pháp tạp nhiễm, trí pháp thanh tịnh. Vô lượng
các loại trí như vậy đều gọi là pháp tánh hữu vi.
Thế nào gọi là những pháp tướng
vô vi? Đó là tất cả pháp không sanh, không diệt, không trụ, không
dị, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, không tướng, không tạo
tác, không tánh tự tánh. Những gì là tự tánh không tánh? Đó là không có tánh
ngã, không có tánh hữu tình, cho đến không có tánh cái biết, cái thấy; hoặc
không có tánh sắc, không có tánh thọ, tưởng, hành, thức; hoặc không có tánh 12
xứ, 18 giới; hoặc không có tánh tứ Thánh đế đến không có tánh 18 pháp bất cộng;
hoặc không có tánh trí Nhất thiết trí đến không có tánh trí của Vô Thượng Giác
ngộ; hoặc không có tánh pháp thiện, không có tánh pháp bất thiện, pháp vô ký;
hoặc không có tánh pháp quá khứ, không có tánh pháp vị lai, hiện tại; hoặc
không có tánh pháp thuộc dục giới, không có tánh pháp thuộc sắc giới, không có
tánh pháp thuộc vô sắc giới; hoặc không có tánh pháp học, không có tánh pháp vô
học, phi học phi vô học; hoặc không có tánh pháp kiến sở đoạn, không có tánh
pháp tu sở đoạn, phi sở đoạn; hoặc không có tánh pháp hữu sắc, không có tánh
pháp vô sắc; hoặc không có tánh pháp hữu kiến, không có tánh pháp vô kiến; hoặc
không có tánh pháp hữu đối, không có tánh pháp vô đối; hoặc không có tánh pháp
hữu lậu, không có tánh pháp vô lậu; hoặc không có tánh pháp hữu vi, không có
tánh pháp vô vi; hoặc không có tánh pháp hữu tội, không có tánh pháp vô tội;
hoặc không có tánh pháp thế gian, không có tánh pháp xuất thế gian; hoặc không
có tánh pháp tạp nhiễm, không có tánh pháp thanh tịnh. Không có vô lượng các
loại tánh như vậy, rỗng không vô sở hữu, vô tướng, vô trạng, vô ngôn, vô
thuyết, vô giác, vô tri, như vậy gọi là tự tánh không tánh. Các
pháp tự tánh không tánh như vậy đều gọi là pháp tánh vô vi.
Đức Phật nói: Đúng như vậy. Này Kiều
Thi Ca! Chư Phật quá khứ do nơi Bát nhã Ba la mật mà được Vô Thượng Bồ đề. Hàng
đệ tử của chư Phật quá khứ cũng do nơi Bát nhã Ba la mật mà được quả Tu Đà Hoàn
đến quả A La Hán, quả Bích Chi Phật đến quả Phật. Chư Phật vị lai và hiện tại
cùng hàng đệ tử cũng như vậy.Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát nhã Ba la mật như
thế trong tạng bí mật, đã rộng nói pháp tương ưng Ba thừa. Nhưng vì pháp đã nói
là lấy vô sở đắc làm phương tiện, vô tánh, vô tướng làm phương tiện, vô sanh,
vô diệt làm phương tiện, vô nhiễm, vô tịnh làm phương tiện, vô tạo, vô tác làm
phương tiện, vô nhập, vô xuất làm phương tiện, vô tăng, vô giảm làm phương
tiện, vô thủ, vô xả làm phương tiện. Nói như vậy là do thế tục mà nói, chẳng
phải thắng nghĩa. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật như thế, chẳng phải Bát nhã Ba
la mật, chẳng phải chẳng Bát nhã Ba la mật, chẳng phải bờ bên này, chẳng phải
bờ bên kia, chẳng phải giữa dòng, chẳng phải đất liền, chẳng phải nước, chẳng
phải cao, chẳng phải thấp, chẳng phải bằng phẳng, chẳng phải chẳng bằng phẳng,
chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải thế gian, chẳng phải xuất
thế gian, chẳng phải hữu lậu, chẳng phải vô lậu, chẳng phải hữu vi, chẳng phải
vô vi, chẳng phải hữu tội, chẳng phải vô tội, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô
sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô
đối, chẳng phải thiện, chẳng phải bất thiện, chẳng phải vô ký, chẳng phải quá
khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại, chẳng phải thuộc dục giới, chẳng
phải thuộc sắc giới, chẳng phải thuộc vô sắc giới, chẳng phải học, chẳng phải
vô học, chẳng phải chẳng học, chẳng phải chẳng vô học, chẳng phải kiến sở đoạn,
chẳng phải tu sở đoạn, chẳng phải chẳng sở đoạn, chẳng phải hữu, chẳng phải
không, chẳng phải cảnh, chẳng phải trí.
Này Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật như
thế chẳng cùng pháp chư Phật, chẳng cùng pháp Bồ tát, chẳng cùng pháp Độc giác,
chẳng cùng pháp Dự lưu cho đến chẳng cùng pháp A la hán, chẳng bỏ pháp phàm
phu.(Q.129, ĐBN)
Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế là Ba la mậtlớn, là Ba la mậtvô thượng,
là Ba la mật không gì bằng.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát tu hành Bát
nhã Ba la mật như thế, tuy biết sự sai biệt về tâm hành cảnh giới của tất cả
hữu tình nhưng chẳng đắc ngã, chẳng đắc hữu tình cho đến chẳng đắc cái biết,
cái thấy. Đại Bồ tát ấy cũng chẳng đắc sắc, chẳng đắc thọ, tưởng, hành, thức.
Đại Bồ tát ấy cũng chẳng đắc 12 xứ, 18 giới. Đại Bồ tát ấy cũng chẳng đắc 12 duyên
khởi, lục Ba la mật, 18 pháp không, chơn như, pháp giới, pháp tánh v.v… cũng
chẳng đắc tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế đến 37 pháp trợ đạo, từ Nhất thiết
trí cho đến quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì chẳng phải Bát nhã Ba la mật
này do có sở đắc mà hiện tiền. Vì sao? Vì Bát Nhã hoàn toàn không có tự tánh,
cũng chẳng thể nắm bắt được; năng đắc, sở đắc hai chỗ nương, tánh, tướng đều
không, chẳng thể nắm bắt được.
Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:
“Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Vì sao? Kiều Thi Ca! Đại Bồ tát đem vô sở
đắc làm phương tiện, tu hành Bát Nhã thậm thâm chẳng đắc Bồ đề và Tát đỏa,
huống là đắc Bồ tát. Bồ tát nầy đã chẳng thể nắm bắt đượcthì đâu đắc pháp Bồ
tát. Bồ tát cùng pháp Bồ tát còn chẳng thể nắm bắt được, huống là đắc chư Phật
và pháp của chư Phật!”
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la
mật của đại Bồ tát là pháp tôn quí, là hướng đạo, tu tập tất cả Ba la mật khiến
mau viên mãn. Đại Bồ tát ấy khi tu hành bố thí, thì Bát nhã Ba la mật là pháp
tôn quí, là hướng đạo, đã tu bố thí Ba la mật không chấp trước thì mau được
viên mãn. Đại Bồ tát ấy khi tu hành tịnh giới, thì Bát nhã Ba la mật là pháp
tôn quí, là hướng đạo; đã tu tịnh giới Ba la mật không chấp trước thì mau được
viên mãn. Cũng như vậy, Đại Bồ tát ấy khi tu hành Bát nhã Ba la mật, thì Bát
Nhã là pháp tôn quí, là hướng đạo; đã tu Bát nhã Ba la mật không chấp trước thì
mau được viên mãn.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Đại Bồ tát ấy
đối với tất cả pháp, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập Bát nhã Ba la mật không
chấp trước, khiến sự tu tập mau được viên mãn. Đại Bồ tát ấy đối với sắc,
lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập Bát nhã Ba la mật; đối với thọ,
tưởng, hành, thức, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập Bát nhã Ba la mật. Do
duyên cớ không chấp trước này khiến sự tu hành mau được viên mãn. Đại Bồ tát ấy
đối với 12 xứ, 18 giới cho đến từ tứ Thánh đế, 12 duyên khởi... lấy vô sở đắc
làm phương tiện, tu tập Bát nhã Ba la mật; đối với Nhất thiết trí, Đạo tướng
trí, Nhất thiết chủng trí đến quả vị Giác ngộ tối cao, lấy vô sở đắc làm phương
tiện, tu tập Bát nhã Ba la mật. Do duyên cớ không chấp trước này khiến sự tu
tập mau được viên mãn.
Này Kiều Thi Ca! Như ở châu Thiệm Bộ
có các thứ cây, mà cành, nhánh, thân, gốc, hoa, lá, quả, hạt, tuy có đủ loại
hình sắc chẳng đồng nhưng bóng của nó hoàn toàn không sai khác. Như vậy, bố
thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, tuy mỗi pháp có sự sai
khác, nhưng vì do Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ, hồi hướng Nhất thiết trí trí,
lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên cũng không có sự sai khác.
Lúc bấy giờ, trời Đế Thích bạch
Phật: Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức quảng đại
thù thắng; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng vô
lượng, Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng vô biên,
Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng vô đối, Bát nhã
Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng vô tận, Bát nhã Ba la mật
như thế thành tựu công đức thù thắng vô giới hạn, Bát nhã Ba la mật như
thế thành tựu công đức thù thắng không gì bằng, Bát nhã Ba la mật như
thế thành tựu công đức thù thắng khó nghĩ bàn; Bát nhã Ba la mật như thế
thành tựu công đức thù thắng chẳng thể nói hết.
Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện
nữ sao chép Bát nhã Ba la mật như thế, trang trí bằng các vật báu thượng diệu,
lại cung kính cúng dường; lại có thiện nam, thiện nữ sao chép Bát nhã Ba la mật
như thế, biếu cho kẻ khác thọ trì, khiến cho truyền bá rộng rãi thì hai loại
phước này, loại nào có phước đức nhiều hơn?
Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Ta hỏi
lại ngươi, tùy theo ý ngươi mà trả lời: Nếu thiện nam, thiện nữ thỉnh được xá
lợi Phật, chứa trong hòm quí, tôn trí chỗ cao nhất, lại đem vô lượng tràng hoa,
hương xoa, y phục, anh lạc, tràng phan v.v… cúng dường, tôn trọng ngợi khen;
lại có thiện nam, thiện nữ thỉnh được xá lợi Phật, phân ra biếu cho người
khác, nhiều như hạt cải, khiến họ kính thọ, lại dùng vô lượng tràng hoa,
hương xoa, y phục, anh lạc, tràng phan v.v… cung kính cúng dường, tôn trọng
ngợi khen, thì theo ý ông hai loại phước đó, loại nào nhiều hơn?
Trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế
Tôn! Như con hiểu nghĩa pháp mà Phật đã nói, nếu thiện nam, thiện nữ thỉnh được
xá lợi Phật, chứa trong hòm quí, tôn trí nơi cao nhất, lại đem vô lượng tràng
hoa, hương xoa v.v… cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen; lại có thiện nam,
thiện nữ thỉnh được xá lợi Phật, phân chia biếu tặng cho người khác nhiều như
hạt cải, khiến họ kính thọ, lại dùng vô lượng tràng hoa, hương xoa v.v… cung
kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen thì trong hai loại phước này, loại sau
nhiều hơn. Vì sao? Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, vốn lấy đại bi
quán sát các loại hữu tình, nên đối với kẻ qui kính cúng dường chỗ tôn trí xá
lợi Phật, thì được cứu độ. Ngài dùng sức định Kim cang dụ nghiền nát thân Kim
cang nhỏ như hạt cải, lại dùng thần lực đại bi sâu rộng gia trì xá lợi Phật ấy,
khiến sau khi Như Lai nhập Niết bàn, ai có được một hạt xá lợi nhỏ như hạt cải,
dùng các thứ lễ vật cúng dường thì phước ấy vô biên. Cho nên, người biếu
tặng xá lợi cho kẻ khác, phước ấy rất nhiều.
Đức Phật nói: Đúng như vậy. Này Kiều
Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ biên chép quyển Kinh Bát nhã Ba la mật không
thôi. Nếu lại có người biên chép quyển Kinh Bát nhã Ba la mật đem cho người
khác học. Người sau này được phước rất nhiều.
Nếu có thiện nam, thiện nữ đúng với
nghĩa trong Bát nhã Ba la mật thư tả diễn nói cho người khác được hiểu biết.
Công đức của người này hơn người trước.
Những người theo nghe Bát nhã Ba la
mật phải xem người này như Phật. Cũng xem như chư vị phạm hạnh tôn quý. Tại sao
vậy? Vì phải biết Bát nhã Ba la mật tức là Phật. Bát nhã Ba la mật chẳng
khác Phật. Phật chẳng khác Bát nhã Ba la mật.(Q.130, ĐBN)
Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại
đều từ trong Bát nhã Ba la mật học mà được Vô Thượng Bồ đề, hàng Thanh văn học Bát
nhã Ba la mật này mà được A La Hán, người cầu Bích Chi Phật học Bát nhã Ba la
mật này mà được Bích Chi Phật, hàng Bồ Tát học Bát nhã Ba la mật mà được nhập
Bồ Tát vị.
Này Kiều Thi Ca! Vì thế nên thiện
nam, thiện nữ muốn cung kính, cúng dường chư Phật hiện tại, thời nên cúng dường
Bát nhã Ba la mật.
Này Kiều Thi Ca! Khi mới chứng đắc
quả vị Giác ngộ tối cao, Ta tự hỏi: Ta nương vào đâu mà trụ? Ai có thể nhận sự
cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen ta? Ta thấy trong tất cả thế gian,
những hàng chư Thiên, Ma Phạm, hoặc Sa Môn, Bà La Môn, chẳng có ai có thể sánh
bằng Phật cả, huống là có người hơn Phật. Ta lại tự nghĩ: Ta y nơi pháp này mà
đã chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, pháp này vi diệu thậm thâm tịch tịnh. Nên
ta trở lại y vào pháp này mà trụ, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen.
Pháp này là pháp gì? Đó chính là Bát nhã Ba la mật!
Này Kiều Thi Ca! Phật còn tự mình
cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán và y chỉ Bát nhã Ba la mật. Huống là
thiện nam, thiện nữ muốn được Vô Thượng Bồ đề mà chẳng cúng dường, cung kính,
tôn trọng, tán thán. Tại sao vậy? Vì trong Bát nhã Ba la mật xuất sanh chư đại
Bồ Tát. Chư đại Bồ Tát xuất sanh chư Phật.
Này Kiều Thi Ca! Thế nên thiện nam,
thiện nữ hoặc cầu Phật đạo, hoặc cầu Bích Chi Phật đạo, hoặc cầu Thanh văn đạo,
thời đều phải cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, cúng dường Bát nhã Ba
la mật với những hoa hương, anh lạc nhẫn đến phan lọng v.v… Vì sao? Vì người
cầu Thanh văn, đối với Bát nhã Ba la mật này, tinh cần tu học, thì cuối cùng
chứng đắc quả A la hán; người cầu Độc giác, đối với Bát nhã Ba la mật này, tinh
cần tu học, thì cuối cùng chứng đắc quả vị Độc giác; người cầu Đại thừa, đối
với Bát nhã Ba la mật này, tinh cần tu học, thì cuối cùng chứng đắc quả vị Giác
ngộ tối cao.
Thích nghĩa cho Đoạn sáu này:
(1). Chẳng phải hai pháp, vì không
hai tướng: Có bản Kinh khác lại dịch là “chẳng tùy hai hạnh vì không hai
tướng”, có bản lại dịch là “chẳng theo hai bên, không có hai tướng”. Kinh MHBNBLMĐ
dịch là “chẳng hiện hành hai pháp”. Không có hai pháp tức là pháp môn bất nhị.
Nhị nguyên pháp là pháp phân hai, đối đãi: Thủ và xả là hai, tăng và giảm, tụ
và tán, nhiễm và tịnh... là hai. Đó là hai tướng đối đãi. Kinh MBHNBLM nói:
Pháp chẳng hai là Bát nhã Ba la mật. Vì vậy, Bát Nhã được coi là “pháp môn bất
nhị”, nên nói “không hiện hai pháp, vì không hai tướng”. TB
(2). Huân tu: Dùng đức để trau giồi
cho thân được tốt đẹp như lấy hương hoa xông ướp y phục thì y phục được thơm.
Thích nghĩa rồi.
(3).Ba sự thị hiện, nói mười hai
phần giáo hay còn gọi là ba lần chuyển mười hai hành pháp luân (nguyên văn bằng
chữ Hán là “若nhược 三tam 示thị 導đạo .若nhược 所sở 宣tuyên 說 thuyết 十thập 二nhị 分phần/phân 教giáo”):
Ba sự thị hiện là ba thứ biến hóa
của chư Phật hay Bồ tát dùng để cứu độ chúng sanh. Từ điển Phật Quang giải
thích như sau (tam chuyển thập nhị
hành tướng, 三轉十二行相),
Phạm: Trì-parivarta-dvàdazàkàradharma-cakra-pravartana. Cũng gọi Đương tam
chuyển tứ luân thập nhị hành pháp luân, hoặc tứ Thánh đế pháp luân tam hội thập
nhị chuyển thuyết, hay Tam chuyển thập nhị hành pháp luân. Chỉ cho 3 lần đức
Phật chuyển pháp luân tứ Thánh đế, mỗi một lần chuyển đều có 4 hành tướng, cộng
chung thành 12 hành tướng. Còn Tam chuyển thì 4 đế mỗi đế đều có 3 chuyển: Thị
tướng chuyển (đây là khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế), Khuyến tướng
chuyển(đây là khổ đế nên biết, là tập đế nên dứt, là diệt đế nên chứng, là
đạo đế nên tu) và Chứng tướng chuyển (đây là khổ đế đã biết, là tập đế
đã dứt, diệt đế đã chứng, đạo đế đã tu). Ba chuyển này mỗi chuyển đều có 4 hành
tướng: Nhãn (Phạm: Cakwu= mắt), Trí (Phạm: Jĩàna), Minh (Phạm: Vidyà) và Giác
(Phạm: Buddhi), hoặc 3 vòng xoay quanh tứThánh đế, cho nên gọi là Thập nhị hành
tướng. Cứ theo luận Đại tì bà sa quyển 79 thì Nhân, Trí, Minh, Giác có 2 nghĩa:
1- Nhãn tức Pháp trí nhẫn, Trí tức các Pháp trí, Minh tức các loại Trí nhẫn và
Giác tức là các loại Trí. 2- Nhãn nghĩa là quán thấy; Trí nghĩa là quyết đoán;
Minh tức là chiếu rõ và Giác nghĩa là tỉnh biết. Trong mỗi đế đều có 3 chuyển
12 hành tướng, cho nên 4 đế cộng chung lại thì có 12 chuyển 48 hành tướng. Ba
chuyển này theo thứ tự có thể phối với Kiến đạo, Tu đạo và Vô học đạo, cứ như
thế chuyển từng món một, mỗi chuyển đều có 4 hành tướng Nhãn, Trí, Minh, Giác,
cho nên khổ đế có 3 chuyển 12 hành tướng, các đế khác cũng thế.[X. Kinh Tạp a
hàm Q.15; luật Tứ phần Q.32; luận Câu xá Q.24; luận Du già sư địa Q.95; Pháp
hoa Kinh huyền tán Q.4; Câu xá luận quang kí Q.24].
(4). Tập khí: (Phạm, Pàli:Vàsanà)
Cũng gọi Phiền não tập, Dư tập, Tàn khí, gọi tắt là Tập. Do tư tưởng, hành vi
(đặc biệt là phiền não) nảy sinh hằng ngày, rồi huân tập (xông ướp, tập tành)
thành những thói quen, hơi hướng lưu lại trong tâm, gọi là Tập khí, giống như
để nước hoa trong lọ thủy tinh, trúc hết ra, xúc sạch, nhưng lọ vẫn còn mùi
thơm. Nói cách nôm na là tất cả tư tưởng, hành động lặp đi lặp lại nhiều lần
đều được giữ lại trong tâm biến thành những kinh nghiệm và thói quen, đó chính
là Tập khí. Thích nghĩa rồi, lặp lại để nhớ.
Lược giải:
(cho riêng Đoạn sáu này)
1. Ý chính của
phẩm nầy là so sánh sự thờ kính xá lợi Phật với việc thọ trì Bát Nhã: Cúng
dường xá lợi Phật được nhiều công đức trong đời hiện tại cũng như vị lai, nhưng
không bằng thọ trì chánh ức niệm, vì người giảng nói Bát Nhã, công đức gấp vạn
lần. Nên Phật hỏi Thiên đế Thích trong hai phần: Một là lấy xá lợi Phật và hai
là lấy Bát Nhã, Thiên đế Thích sẽ chọn cái nào? Thiên đế Thích chọn Bát Nhã. Vì
lẽ:
“Nếu thiện nam thiện nữ cung kính,
tôn trọng, tán thán xá lợi sẽ được công đức vô lượng vô biên. Vì Bát nhã
Ba la mật xuất sanh xá lợi của chư Phật và cũng do Bát Nhã nầy huân tu nên xá
lợi được cúng dường.
Nhưng nếu thiện nam thiện nữ thọ
trì, đọc tụng, vì người giảng nói Bát nhã Ba la mật sẽ thành đạt sáu Ba la
mật, tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng, ngũ nhãn, lục thần thông đến Nhất
thiết trí, sẽ chứng Vô Thượng Bồ đề mang nhiều lợi ích cho toàn thể chúng sanh.
Do đó, Thiên đế Thích trình Phật:
“Bạch Thế Tôn! Chẳng phải khinh mạn bất kính mà con chẳng lấy xá lợi. Vì thiện
nam, thiện nữ cúng dường Bát nhã Ba la mật thời chính là cúng dường xá lợi
vậy”.
Nhờ có Bát nhã Ba la mật mà có 3 sự
thị hiện, 12 bộ Kinh xuất hiện, có Thanh văn, Bích chi Phật, Bồ tát, Phật xuất
hiện, các thiên tử, dòng Sát Đế Lợi, Bà La Môn v.v… xuất hiện thế gian. Chỗ nào
có Bát Nhã thì chỗ đó không có sự não hại, trái lại được nhiều an lạc, phúc lợi
giống như chỗ nào có thần châu Ma ni xuất hiện thì chỗ đó tránh được tai họa
bệnh tật v.v…”
Cho nên, Kinh luôn luôn kêu gọi “thiện nam,
thiện nữ hoặc cầu Phật đạo, hoặc cầu Bích Chi Phật đạo, hoặc cầu Thanh văn đạo,
thời đều phải cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán Bát nhã Ba la mật với
những hoa hương, anh lạc nhẫn đến phan lọng v.v...”
2. Kinh cũng
thường lưu ý hành giả Bát Nhã là chẳng vì “pháp cao” như Thanh văn, Bích chi
Phật hay Bồ tát mà lấy, chẳng vì “pháp hạ” như pháp phàm phu mà bỏ. Vì tất cả
pháp chẳng thể nắm bắt được. Bát nhã Ba la mật không phải vì có được có mất mà
xuất hiện thế gian. Bát Nhã là không, là tánh không, lấy vô tánh làm tự tánh,
nên gọi là vô sở hữu bất khả đắc. Muốn đắc là đắc cái bất khả đắc!
Phẩm “So Lường Công Đức” quyển 129,
Hội thứ I, ĐBN, Thiên Đế Thích bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như
thế là Đại Ba la mật, là Vô thượng Ba la mật, là Vô đẳng đẳng Ba la mật. Bồ tát
Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, tuy biết tâm hành cảnh
giới sai khác của tất cả hữu tình, mà bất đắc ngã, bất đắc hữu tình, mạng giả(dòng
sinh mạng), sanh giả(người sanh), dưỡng giả(người dưởng dục),
sĩ phu(người trưởng thành), bổ đặt già la(chủ thể luân hồi), ý
sanh(người do người sanh), nho đồng(ngã tối thắng), tác giả(người
tạo tác), thọ giả(người thọ), tri giả(người biết), kiến giả(người
thấy). Bồ tát Ma ha tát nầy cũng chẳng đắc sắc, chẳng đắc thọ tưởng hành
thức. Bồ tát Ma ha tát này cũng bất đắc tất cả xứ, giới, cũng chẳng đắc ngũ đại
chủng. Bồ tát ma ha tát này cũng chẳng đắc 12 nhân duyên, lục Ba la mật, chẳng
đắc chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình
đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư
nghì giới. Bồ tát Ma ha tát này cũng chẳng đắc bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn
vô sắc định. Bồ tát Ma ha tát này cũng chẳng đắc tám giải thoát, tám thắng xứ,
chín thứ đệ định, mười biến xứ. Bồ tát Ma ha tát này cũng chẳng đắc 37 phẩm trợ
đạo, tam giải thoát môn, năm nhãn, sáu thần thông. Bồ tát Ma ha tát này cũng
chẳng đắc Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại
hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Bồ tát Ma ha tát này cũng chẳng đắc
pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Bồ tát Ma ha tát này cũng bất đắc Nhất
thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, chẳng đắc tất cả Đà la ni môn,
tất cả Tam ma địa môn. Bồ tát Ma ha tát này cũng chẳng đắc bốn quả Thanh văn,
cũng chẳng đắc Độc giác Bồ đề, chẳng đắc Bồ tát cũng chẳng đắc Chánh đẳng Chánh
giác. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật đây, chẳng phải nhờ có sở đắc mà được
hiện tiền. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm đều vô tự tánh, cũng bất khả
đắc. Năng đắc, sở đắc hai chỗ gá nương, tánh tướng đều trống không bất khả đắc
vậy”.
Phật xác nhận: “Đúng vậy! Đúng như
lời ngươi nói. Vì sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát đem vô sở đắc làm phương
tiện, tu hành Bát Nhã chẳng đắc Bồ đề và Tát đỏa, huống là đắc Bồ tát Ma ha
tát. Bồ tát nầy đã chẳng thể nắm bắt được, thì đâu đắc pháp Bồ tát. Bồ tát cùng
pháp Bồ tát còn chẳng thể nắm bắt được, huống là đắc chư Phật và pháp của chư
Phật”!
“Vì là pháp vô tướng vậy, vì là pháp
vô sanh, vô diệt vậy, vì là pháp vô cấu, vô tịnh vậy. Vì là pháp vô tác, vô
khởi vậy. Vì là pháp bất nhập, bất xuất, bất tăng, bất tổn, bất thủ, bất xả
vậy. Bởi là thế tục pháp, chẳng phải là đệ nhất nghĩa. Tại sao vậy? Bát nhã Ba
la mật nầy chẳng phải bỉ thử, chẳng phải cao hạ, chẳng phải đẳng bất đẳng,
chẳng phải tướng phi tướng, chẳng phải thế gian xuất thế gian, chẳng phải hữu
lậu vô lậu, chẳng phải hữu vi vô vi, chẳng phải thiện bất thiện, chẳng phải quá
khứ, vị lai, hiện tại”(1).
Bát nhã Ba la mật cũng chẳng phải là
pháp phân hai, cũng chẳng phải là pháp phân biệt! “Bát nhã Ba
la mật chẳng khác Phật. Phật chẳng khác Bát nhã Ba la mật”.
Tục đế lúc nào cũng nói “có”, có
tịnh có uế, có sanh có diệt, có thường có đoạn. Thắng nghĩa đế lúc nào cũng nói
“không”, không tịnh không uế, không sanh không diệt v.v… Nhưng, nói có nói
không vẫn không thoát khỏi ngõ cụt hai đầu, nghĩa là vẫn không thoát khỏi sự
chi phối của nhị nguyên đối đãi. Muốn giải thoát cảnh trầm luân sâu dầy đó thì
phải vượt qua có không, phải siêu vượt qua nhị nguyên đối đãi. Nên Kinh nói: “Bát
nhã Ba la mật này không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết, chẳng
phải có tướng, có trạng, có ngôn, có thuyết, cho nên Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác biết tất cả pháp là không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết mà
chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, vì các hữu tình thuyết tất cả pháp là không
tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết”.
Vì Bát Nhã là không, là Tánh Không: “Không sở
hữu, không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết, không hiểu, không
biết, như vậy gọi là tự tánh không tánh”.
Bát Nhã nhìn vạn hữu bằng đôi mắt
khước từ hay chối bỏ chăng? Bát Nhã soi thấy thế giới này là giả hợp, là duyên
sanh, là không tự tánh, là huyễn hóa giống như những mộng mị xa vời. Vậy, Bát
Nhã thấy cái gì, biết cái gì? Và với giáo pháp không đó làm sao dẫn dắt chúng
sanh ra khỏi những mây mù, huyễn hoặc? Kinh nói: “Vì Bát nhã
Ba la mật như thế trong tạng bí mật, đã rộng nói pháp tương ưng Ba thừa. Nhưng
vì pháp đã nói là lấy vô sở đắc làm phương tiện, vô tánh, vô tướng làm phương
tiện, vô sanh, vô diệt làm phương tiện, vô nhiễm, vô tịnh làm phương tiện, vô
tạo, vô tác làm phương tiện, vô nhập, vô xuất làm phương tiện, vô tăng, vô giảm
làm phương tiện, vô thủ, vô xả làm phương tiện. Nói như vậy là do thế tục,
chẳng phải thắng nghĩa. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật như thế, chẳng phải Bát
nhã Ba la mật, chẳng phải chẳng Bát nhã Ba la mật(phi, chẳng
phi), chẳng phải bờ bên này, chẳng phải bờ bên kia, chẳng phải giữa dòng,
chẳng phải đất liền, chẳng phải nước, chẳng phải cao, chẳng phải thấp, chẳng
phải bằng phẳng, chẳng phải chẳng bằng phẳng, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải
vô tướng, chẳng phải thế gian, chẳng phải xuất thế gian, chẳng phải hữu lậu,
chẳng phải vô lậu, chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, chẳng phải hữu tội,
chẳng phải vô tội, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến,
chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, chẳng phải thiện,
chẳng phải bất thiện, chẳng phải vô ký, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai,
chẳng phải hiện tại, chẳng phải thuộc dục giới, chẳng phải thuộc sắc giới,
chẳng phải thuộc vô sắc giới, chẳng phải học, chẳng phải vô học, chẳng phải
chẳng học, chẳng phải chẳng vô học, chẳng phải kiến sở đoạn, chẳng phải tu sở
đoạn, chẳng phải chẳng tu sở đoạn, chẳng phải hữu, chẳng phải không, chẳng phải
cảnh, chẳng phải trí”(3).
Bát Nhã như vậy không phải phủ nhận
tất cả vạn hữu, mà chính vạn hữu là không, là rỗng không. Nên nói “Bát Nhã là
vô tri” như một số học giả đã gán, và quan niệm này đã gây một chấn động không
ít dưới thời Tăng Triệu. Bát Nhã chỉ là Bát Nhã khi soi thấy vạn hữu trong lăng
kính “bất thực” như thế. Ai muốn nắm bắt Bát Nhã hãy như hư không mà bắt!
Trong nhà Thiền có câu chuyện:
Thạch Củng Huệ Tạng ở Phúc Châu hỏi
Trí Tạng Tây Đường:
- Sư đệ biết bắt hư không chăng?
Trí Tạng:
- Biết bắt.
- Làm sao mà bắt được?
Trí Tạng lấy tay chụp hư không.
Thạch Cửng:
- Làm thế ấy đâu bắt được hư không!
Trí Tạng:
- Sư huynh làm sao bắt được?
Thạch Củng liền nắm mũi Trí Tạng kéo
mạnh, Trí Tạng đau quá kêu lớn:
- Giết chết lỗ mũi người ta! Buông
ngay!
Thạch Củng:
- Không còn cách nào khác để bắt hư
không.
“Bát nhã Ba la mật chẳng thể nắm bắt
được vì nó không sắc, không thấy, không đối đãi, gọi là vô tướng thì làm sao
nắm bắt được! Vì sao? Vì Bát Nhã như thế không thủ không xả, không tăng không
giảm, không trụ không tán, không ích không tổn, không nhiễm không tịnh v.v…”.
Đạt tới cứu cánh tức cứu cánh bị
giới hạn, thì cứu cánh không còn là cứu cánh nữa. Nắm bắt được Bát Nhã thì Bát
Nhã không còn là Bát Nhã nữa! Đừng mong nắm bắt Bát Nhã mà bị Thạch Củng vặn
tréo mũi như trường hợp của Trí Tạng.
Thích nghĩa cho lược giải này:
(1). Phẩm “Xá Lợi”, quyển 11, MHBNBLMĐ.
(2) và (3). Phẩm “So Lường Công Đức”
quyển 129, Hội thứ I, ĐBN.
7. Đoạn bảy: Phẩm “So
Lường Công Đức” thuộc phần đầu quyển 130 đến phần cuối quyển
135, Hội thứ I, ĐBN (Tương đương với phẩm “Pháp Thí”(1),
quyển thứ 11, MHBNBLMĐ).
Gợi ý:
Đoạn 7: Phần trên nói về so lường
công đức trong việc giáo hóa pháp Phật, phần dưới nói nhiều về công đức của
người truyền bá Bát Nhã, coi đó như là một loại bố thí mà Kinh MHBNBLMĐ gọi là “pháp
thí”. Nhưng muốn được vô vàn công đức trong việc bố thí pháp thì phải lấy vô sở
đắc làm phương tiện. Đó là châm ngôn tu hành Bát nhã Ba la mật.
Tóm lược:
Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ dạy các loại hữu tình trong châu Thiệm
bộ, khiến đều tu học mười thiện nghiệp đạo, thì theo ý ông thế nào,
thiện nam, thiện nữ v.v... ấy, do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn!
Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!
Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện
nam, thiện nữ sao chép Bát nhã Ba la mật
như thế, biếu tặng kẻ khác đọc tụng, rồi chuyền nhau sao chép truyền bá
rộng rãi, thì thiện nam, thiện nữ ấy, phước đức có được sẽ hơn người trước rất
nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát nhã Ba la mậtnhư thế, trong tạng bí mật,
rộng nói tất cả pháp vô lậu, bậc chủng tánh(2) Thanh văn tu học pháp này, mau
nhập Chánh tánh ly sanh của Thanh văn, đắc quả Dự lưu, Nhất laihay Bất hoàn
hoặc đắc quả A la hán; bậc chủng tánh Độc giác tu học pháp này, mau nhập Chánh
tánh ly sanh của Độc giác, lần luợt chứng đắc quả vị Độc giác; bậc chủng tánh
Bồ tát tu học pháp này, mau nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ tát, lần luợt tu
hành Bồ tát hạnh chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao.
Này Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật như
thế, trong tạng bí mật(3), rộng nói tất cả pháp vô lậu, đó là sáu pháp Ba la
mật; pháp không nội đến pháp không không tánh tự tánh; chơn như, pháp giới,
pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế v.v…; bốn Thánh đế trí,; bốn tịnh lự vô
lậu, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ
đệ, mười biến xứ; 37 pháp trợ đạo; pháp môn giải thoát không, pháp môn giải
thoát vô tướng, vô nguyện; năm loại mắt, sáu phép thần thông; Phật mười lực,
bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả,
mười tám pháp Phật bất cộng; pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; Nhất thiết
trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa
và vô lượng, vô biên Phật pháp khác, đều là tất cả pháp vô lậu.
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam,
thiện nữ dạy một hữu tình trụ quả Dự lưu, thì phước đức có được vượt hơn sự
giáo hóa các loại hữu tình trong cả châu Thiệm Bộ, khiến đều tu học mười thiện
nghiệp đạo. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì các hữu tình tu hành mười thiện nghiệp đạo
chẳng thoát khỏi địa ngục, bàng sanh, quỷ giới. Nếu các hữu tình trụ quả Dự lưu
thì vĩnh viễn được thoát ba đường ác, huống là giáo hóa khiến trụ quả Nhất lai,
Bất hoàn, A la hán, thì phước đức có được chẳng hơn kia sao?
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam,
thiện nữ giáo hóa các loại hữu tình trong châu Thiệm bộ đều trụ quả Dự lưu
đến A la hán, thì phước đức có được chẳng bằng có người giáo hóa một hữu
tình khiến họ an trụ quả vị Độc giác. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì công đức của quả
vị Độc giác hơn Dự lưu v.v... gấp trăm, ngàn lần.
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam,
thiện nữ giáo hóa các loại hữu tình trong châu Thiệm bộ, khiến đều an trụ
quả vị Độc giác, thì phước đức có được chẳng bằng người giáo hóa một hữu
tình khiến hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì nếu giáo
hóa hữu tình khiến hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao, thì khiến cho Phật đạo
trong thế gian chẳng dứt. Vì sao? Vì do có đại Bồ tát nên mới có quả Dự lưu,
quả A la hán, đến quả vị Độc giác. Vì do có đại Bồ tát nên mới có Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác, chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Vì do có đại Bồ tát nên mới
có Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo, tất cả thế gian quy y cúng dường. Vì vậy cho
nên, này Kiều Thi Ca! Tất cả thế gian, hoặc trời, hoặc ma, hoặc phạm, hoặc Sa
môn, hoặc Bà la môn, A tu la, nhơn phi nhơn v.v... nên dùng vô lượng tràng hoa,
hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu v.v… cung kính cúng
dường, tôn trọng ngợi khen đại Bồ tát.
Này Kiều Thi Ca! Do đó nên biết, nếu
thiện nam, thiện nữ sao chép Bát nhã Ba la mật như thế, biếu tặng người
khác đọc tụng, hoặc chuyền nhau sao chép, truyền bá rộng rãi, thì phước đức có
được hơn phước đức người trước vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật như
thế, trong tạng bí mật, rộng nói tất cả pháp thiện thù thắng của thế gian và
xuất thế gian. Vì do pháp đã nói trong tạng bí mật Bát nhã Ba la mật này nên
thế gian mới có được sự hiện hữu của dòng dõi lớn Sát đế lợi, Bà la môn, Trưởng
giả, Cư sĩ; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật Bát nhã Ba la mật này nên thế
gian mới có được sự hiện hữu của chúng trời cõi Dục, Sắc và Vô sắc; do pháp đã
nói trong tạng bí mật Bát nhã Ba la mật này nên thế gian mới có Phật, Pháp,
Tăng bảo, có 4 thiền, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, có 6 Ba la mật, có 4
Thánh đế, 12 nhân duyên, có 37 pháp trợ đạo, có Nhất thiết trí v.v... cho đến
quả vị Giác ngộ tối cao.
Lại nữa, nếu thiện nam, thiện nữ
giáo hóa các loại hữu tình không những trong bốn châu thiên hạ, mà giáo hóa tất
cả hữu tình khắp thế giới mười phương như cát sông Hằng khiến đều tu học mười
thiện nghiệp đạo, cũng không bằng công đức của một người sao chép Bát Nhã,
biếu tặng kẻ khác đọc tụng, rồi chuyền nhau sao chép truyền bá rộng rãi, thì
người này phước đức có được hơn kẻ trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát
Nhã như thế, trong tạng bí mật, rộng nói tất cả pháp vô lậu, bậc chủng tánh
Thanh văn tu học pháp này, mau nhập Chánh tánh ly sanh của Thanh văn, đắc quả A
la hán; bậc chủng tánh Độc giác tu học pháp này, mau nhập Chánh tánh ly sanh
của Độc giác, lần luợt chứng đắc quả vị Độc giác; bậc chủng tánh Bồ tát tu học
pháp này, mau nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ tát, lần luợt tu hành Bồ tát hạnh,
chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao.
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam,
thiện nữ giáo hóa một hữu tình trụ quả Dự lưu, thì phước đức có được, còn hơn
giáo hóa các loại hữu tình trong mười phương thế giới như số cát sông Hằng tu
học mười thiện nghiệp đạo. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì các loại hữu tình tu hành
mười thiện nghiệp đạo chẳng thoát khỏi địa ngục, bàng sanh, quỷ giới; nhưng nếu
các hữu tình trụ quả Dự lưu thì được vĩnh viễn thoát khỏi ba đường ác, huống là
giáo hóa, khiến trụ quả vị Giác ngộ tối cao phước đức có được thật vô biên. Vì
sao? Kiều Thi Ca! Vì công đức của quả vị Giác ngộ tối cao hơn Dự lưu gấp trăm
ngàn vạn ức lần.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam,
thiên nữ giáo hóa các loại hữu tình trong châu Thiệm bộ, khiến đều tu học bốn
tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm phép thần thông. Nếu thiện nam,
thiện nữ sao chép Bát nhã Ba la mật biếu tặng người khác đọc tụng, hoặc chuyền
nhau sao chép, truyền bá rộng rãi, thì những người này phước đức có được, hơn
kẻ trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát nhã Ba la mật như thế, trong
tạng bí mật, rộng nói tất cả pháp vô lậu, bậc chủng tánh Thanh văn tu học pháp
này, mau nhập Chánh tánh ly sanh của Thanh văn, đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất
hoàn, hoặc đắc quả A la hán; bậc chủng tánh Độc giác tu học pháp này, mau nhập
Chánh tánh ly sanh của Độc giác, lần luợt chứng đắc quả vị Độc giác; bậc chủng
tánh Bồ tát tu học pháp này, mau nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ tát, lần luợt
tu hành Bồ tát hạnh chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao.
Tất cả pháp vô lậu, đã rộng nói
trong tạng bí mật Bát nhã Ba la mật như thế, đó là 6 pháp Ba la mật, là chân
như, pháp giới, là 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến
quả vị Giác ngộ tối cao.
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam,
thiện nữ giáo hóa một hữu tình trụ quả Dự lưu, thì phước đức có được, còn hơn
giáo hóa các loại hữu tình trong bốn châu thiên hạ cả đến khắp thế giới mười
phương như cát sông Hằng tu học
bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm phép thần thông. Vì sao?
Kiều Thi Ca! Vì các hữu tình tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô
sắc, năm phép thần thông chẳng thoát khỏi địa ngục, bàng sanh, quỷ giới; nhưng
nếu các hữu tình trụ quả Dự lưu thì được vĩnh viễn thoát khỏi ba đường ác,
huống chi trụ quả vị Giác ngộ tối cao.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam,
thiện nữ đối với Bát nhã Ba la mật này thọ trì đọc tụng, như lý tư duy,
thì thiện nam, thiện nữ nhơn ấy, phước đức có được hơn sự giáo hóa các loại hữu
tình cả bốn châu thiên hạ cho đến tất cả thế giới 10 phương như cát sông Hằng
khiến đều an trụ mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô
sắc, năm phép thần thông.
Này Kiều Thi Ca! Ở đây nói như lý tư
duy ấy, có nghĩa là dùng hạnh phi nhị phi bất nhị(4) để hiểu Bát nhã Ba
la mật này mà thọ trì đọc tụng, như lý suy nghĩ; lại dùng hạnh phi nhị phi bất
nhị để hiểu tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật, thọ trì
đọc tụng, như lý suy nghĩ.
Này Kiều Thi Ca! Lại dùng hạnh phi
nhị phi bất nhị để hiểu pháp không nội, như lý suy nghĩ; lại dùng hạnh
phi nhị phi bất nhị để hiểu pháp không ngoại đến pháp không không tánh tự tánh,
như lý suy nghĩ.
Này Kiều Thi Ca! Lại dùng hạnh phi
nhị phi bất nhị để hiểu chơn như, như lý suy nghĩ; lại dùng hạnh phi nhị
phi bất nhị để hiểu pháp giới, pháp tánh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh
giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, như lý suy nghĩ.
Này Kiều Thi Ca! Lại dùng hạnh phi
nhị phi bất nhị để hiểu bốn Thánh đế, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô
sắc, 37 pháp trợ đạo, ba giải thoát môn, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết
thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất
thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, như lý suy nghĩ.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam,
thiện nữ đối với Bát nhã Ba la mật này, dùng vô lượng phương pháp vì người khác
rộng nói, chỉ bày, khai diễn, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ
dễ hiểu, thì phước đức có được, hơn công đức tự thọ trì, hoặc đọc, hoặc tụng,
như lý tư duy Bát nhã Ba la mật như thế.
Này Kiều Thi Ca! Cái gọi là nghĩa
thú của Bát nhã Ba la mật này, là Bát Nhã phi nhị phi bất nhị, phi hữu tướng
phi vô tướng, phi nhập phi xuất, phi tăng phi giảm, phi nhiễm phi tịnh, phi
sanh phi diệt, phi thủ phi xả, phi chấp phi bất chấp, phi trụ phi bất trụ, phi
thật phi hư, phi tương ưng phi bất tương ưng, phi hòa hợp phi bất hòa hợp, phi
nhân duyên phi phi nhân duyên, phi pháp phi phi pháp, phi chơn như phi phi chơn
như, phi thật tế phi phi thật tế. Nghĩa thú như vậy có vô lượng pháp môn. (Q.135, ĐBN)
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam,
thiện nữ thường giáo huấn rộng rãi cho những người khác về nghĩa thú thậm thâm
của Bát Nhã như thế, khiến họ dễ hiểu, thì phước đức có được, hơn công đức tự
thọ trì, hoặc đọc, hoặc tụng, như lý tư duy Bát nhã Ba la mật như thế, gấp
vô lượng lần, so với phước đức có được của những người nói trước vô biên.
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam,
thiện nữ thường dùng các thứ văn nghĩa khéo léo sâu sắc tuyên thuyết, khai thị Bát
nhã Ba la mật như thế, thì thiện nam, thiện nữ ấy thành tựu vô lượng, vô số, vô
biên đại công đức chẳng thể nghĩ bàn.
Này Kiều Thi Ca! Nếu có thiện nam,
thiện nữ suốt cả cuộc đời dùng vô lượng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương
bột, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu v.v… cung kính cúng dường, tôn trọng
ngợi khen tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở vô lượng, vô số thế giới trong
mười phương; lại có thiện nam, thiện nữ đối với Bát nhã Ba la mật tự thọ trì,
đọc tụng, như lý tư duy, lại nương vào các thứ văn nghĩa khéo léo sâu sắc dùng
vô lượng phương pháp vì người khác rộng nói, chỉ bày, khai diễn giải thích rõ
ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì thiện nam, thiện nữ nhơn ấy,
phước đức có được, hơn kẻ trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì tất cả Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, vị lai và hiện tại đều do học Bát nhã Ba
la mật nên đã chứng, sẽ chứng và đang chứng quả vị Giác ngộ tối cao.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu có thiện
nam, thiện nữ trong vô lượng, vô số, vô biên đại kiếp dùng hữu sở đắc làm
phương tiện, tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã
Ba la mật; lại có thiện nam, thiện nữ đối với Bát nhã Ba la mật này, lấy vô
sở đắc làm phương tiện, thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy, lại dùng các thứ
văn nghĩa khéo léo sâu sắc, chỉ trong khoảnh khắc vì người khác biện thuyết,
chỉ bày, khai diễn, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu,
thì phước đức có được, hơn kẻ trước rất nhiều.
Kẻ dùng sở đắc làm phương tiện là vì
ngã, ngã sở nên có chấp(chấp ngã, chấp pháp v.v…), vì vậy không thể viên
mãn sáu pháp đáo bỉ ngạn, nghĩa là không thể qua bờ bên kia. Nếu đại Bồ tát khi
tu hành bố thí, chẳng thấy có người cho, kẻ nhận, sự cho, kết quả sự cho và vật
cho, vì đã dùng vô sở đắc làm phương tiện, thì có thể viên mãn bố thí Ba
la mật. Nếu đại Bồ tát khi tu hành tịnh giới, chẳng thấy có người thọ trì, kết
quả sự hộ giới và giới được trì, lại dùng vô sở đắc làm phương tiện, thì có thể
viên mãn tịnh giới Ba la mật. Nếu đại Bồ tát khi tu hành an nhẫn, không chấp có
thân thọ nhục, chẳng thấy có người nhẫn, kết quả sự nhẫn và tự tánh của sự
nhẫn, vì đã dùng vô sở đắc làm phương tiện, thì có thể viên mãn an nhẫn Ba la
mật. Nếu đại Bồ tát khi tu hành tinh tấn, chẳng thấy có người siêng năng, kết
quả của siêng năng và tự tánh của tinh tấn, vì đã dùng vô sở đắc làm phương
tiện, thì có thể viên mãn tinh tấn Ba la mật. Nếu đại Bồ tát khi tu hành tịnh
lự, chẳng thấy có người định, cảnh định, kết quả của định và tự tánh của tịnh
lự, lại dùng vô sở đắc làm phương tiện, thì có thể viên mãn tịnh lự Ba la mật.
Nếu đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã, chẳng thấy có người tu tuệ, cảnh tuệ, kết
quả sự tu tuệ và tự tánh của Bát Nhã, lại dùng vô sở đắc làm phương tiện, thì
có thể viên mãn Bát nhã Ba la mật.
Này Kiều Thi Ca! Các thiện nam,
thiện nữ nên dùng tuệ vô sở đắc như thế và dùng các thứ văn nghĩa khéo
léo thậm thâm mà tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật. Kiều Thi Ca! Nếu đời vị lai,
có thiện nam, thiện nữ vì người khác tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật tương
tợ(5); người sơ phát tâm Vô Thượng Bồ đề nghe người ấy nói pháp Bát nhã Ba la
mật tương tợ, tâm liền mê lầm, làm mất Trung đạo(6). Cho nên, phải dùng tuệ vô
sở đắc và các thứ văn nghĩa khéo léo thậm thâm, vì người sơ phát tâm Vô Thượng
Bồ đề mà tuyên nói Bát nhã Ba la mật.
Thích nghĩa cho Đoạn bảy này:
(1). Pháp thí (s: dharma-deśanā, p:
dhamma-desanā): Bố thí pháp, tức tuyên thuyết giáo pháp, làm lợi ích chúng sanh;
còn gọi là pháp cúng dường, thuyết giáo, thuyết pháp, thuyết Kinh, đàm nghĩa,
khuyến hóa. Như trong Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh (Taishō Vol. 12, No. 360)
quyển Thượng giải thích rằng: “Khấu pháp cổ, xuy pháp loa, chấp pháp kiếm, kiến
pháp tràng, chấn pháp lôi, diệu pháp điện, chú pháp vũ, diễn pháp thí, thường
dĩ pháp âm giác chư thế gian: Đánh trống pháp, thổi ốc pháp, cầm kiếm pháp, lập
cờ pháp, chấn sấm pháp, rực điện pháp, rưới mưa pháp, diễn pháp thí, thường lấy
âm pháp để tỉnh thức các thế gian”. Hay trong Pháp Giới Thánh Phàm Thủy Lục
Thắng Hội Tu Trai Nghi Quỹ (Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1497) quyển 5 lại có
đoạn: “Kim tắc đặc khai thắng hội, phổ độ mê lưu, nguyện nhân Phật nhật chi
quang, lai phó đàn gia chi cúng, thân thừa pháp thí, hoát ngộ Tánh Không: Nay
tất khai mở thắng hội, độ kẻ lầm mê, nguyện nhờ trời Phật hào quang, đến dự thí
chủ dâng cúng, nương vào pháp thí, chợt ngộ Tánh Không”. (Phật Học Tinh Tuyển)
(2). Chủng tánh: Có thể nói là tánh
có được do huân tu nhiều kiếp như Thanh văn có chủng tánh Thanh văn, Bồ
tát có chủng tánh Bồ tát. Tánh này không thể nói do bẩm sanh (thiên bẫm hay
“thiên phú”), tánh này cũng không thể giải thích theo đạo Khổng “là nhân chi sơ
tánh bổn thiện”. Theo Duy thức Học, chủng tử(hạt giống do mình gieo trong quá
khứ hay hiện tại) tốt hay xấu tích tụ nhiều kiếp trong A lại da thức(thức thứ
tám còn gọi là tàng thức), nên tùy theo chủng tử nầy mà thọ sanh và tiếp nối
cuộc sống. Bồ tát trụ chủng tánh là Bồ tát có nhiều chủng tử vô lậu huân
tập nhiều kiếp trong A lại da thức, hay nói khác là Bồ tát có căn tánh Đại thừa
vững chắc, khi thọ sanh có khả năng chứng đắc Bồ đề. Chủng tánh thường được
chia làm năm loại là: 1- Vô chủng tánh(không có giống vô lậu), 2/. Thanh văn
chủng tánh, 3- Duyên giác chủng tánh, 4- Đại thừa chủng tánh(Bồ tát, Phật) và
Bất định chủng tánh(không nhất định Tiểu thừa hay Đại thừa).
(3). Tạng bí mật hay bí mật tạng:
Pháp tạng (kho pháp) rất sâu xa bí ẩn, duy có Phật với Phật mới biết rõ được,
chứ chẳng phải pháp môn phổ thông mà mọi người đều có thể hiểu biết. Lại vì là
pháp kín nhiệm được đức Như lai đặc biệt hộ niệm, nếu không phải người có căn
khí, thì không thể gìn giữ, cho nên gọi là Bí mật tạng. Bởi vậy, Bí mật tạng là
tên chung của các Kinh hiển bày nghĩa thú rất sâu, bí ẩn. Trong Hiển giáo, Kinh
Niết bàn quyển 2 (bản Nam và bản Bắc) lấy pháp thân, Bát Nhã, giải thoát là
chẳng một chẳng khác làm Bí mật tạng. Nhưng, theo ý của Mật giáo, thì tất cả
giáo pháp do hóa thân đức Thích Ca nói là Hiển giáo, còn riêng giáo pháp do
pháp thân đức Đại Nhật nói mới là Bí mật tạng, cũng là tên gọi chung Chân ngôn
nhất thừa. Không chỉ là pháp môn sâu kín, mà còn là pháp nội chứng cực kỳ bí
mật của Như lai, vì thế, đối với người chưa quán đính(có lẽ là quán đỉnh đúng
hơn?), quyết không tuyên nói chỉ bày. Cũng giống như Thanh văn thừa, đối với
người chưa thụ giới, không thể nói giới Kinh cho họ nghe, bởi vậy, gọi giới
Kinh là Bí mật tạng. [X. Đại nhật Kinh sớ Q.3] - Từ điển Phật Quang.
(4). Phi nhị phi bất nhị: Chẳng hai
chẳng phải chẳng hai.
(5). Bát nhã Ba la mật tương tự: Tạm
giải thích là người tu lấy sở đắc, lấy hai tướng làm phương tiện tu hành cốt để
hưởng được phúc lạc thế gian. Đoạn Kinh kế tiếp sẽ giải thích ý niệm này.
(6). Trung Đạo(s: madhyamā-pratipad,
p: majjhima-paṭipadā). Trung: Không có nghĩa là ở giữa, trung gian, mà có nghĩa
là vượt qua hai lập trường cực đoan, đối lập mâu thuẫn lẫn nhau, không
trú ở bên nào cả và cũng không trú ở giữa. Đạo: Chỉ cho phương pháp thực tiễn.
Nó chỉ cho sự chứng ngộ của đức Thích Tôn nhờ Bát Chánh Đạo (Astangika-marga
(skt)—Ashtangika-Magga (p), với nội dung tập trung tinh thần, không thiên
chấp một bên nào cả, chủ nghĩa khổ hạnh hay chủ nghĩa khoái lạc. Đó được gọi là
Trung Đạo của Không Khổ Không Lạc. Trong Phật Giáo thời kỳ đầu, Trung Đạo của
Không Khổ Không Lạc này đóng vai trò chủ chốt; nhưng Trung Đạo của Không Đoạn
Không Thường hay Trung Đạo của Phi Hữu Phi Vô cũng được đề cập đến. Tác phẩm
Trung Luận (s: Mādhyamakakārikā) của Long Thọ (s: Nāgārjuna, khoảng 150-250)
đặt Duyên Khởi, Không Tánh, Giả và Trung Đạo đồng hàng với nhau; cho nên, Trung
Quán Phái lấy Trung Đạo làm tôn chỉ. Theo Du Già Hành Phái đối tượng nhận thức
không phải là cái bên ngoài, mà chỉ là sự hiển hiện của Thức, nên nó không phải
là có (phi hữu); nhưng vì sự hiển hiện của Thức vốn tồn tại trong hiện thực,
nên nó không phải không có (phi vô). Vì vậy, họ chủ trương Duy Thức Trung Đạo,
có nghĩa rằng trong Nhất Thiết Duy Thức (tất cả đều là tác dụng của nhận thức),
tìm ra Trung Đạo. Hơn nữa, tại Trung Quốc, trên cơ sở của Trung Luận, Tam Luận
Tông thì chủ trương Bát Bất Trung Đạo trên cở sở của Bất Sanh Bất Diệt (không
sanh không diệt), Bất Thường Bất Đoạn (không thường không đoạn), Bất Nhất Bất
Dị (không một không khác), Bất Lai Bất Khứ (không đến không đi); Thiên Thai
Tông thì thuyết về Trung Đạo theo Tam Quán của Không, Giả, Trung. (Phật Học
Tinh Tuyển)
Lược giải:
(cho riêng Đoạn bảy này)
1. Một trong
sáu pháp đáo bỉ ngạn là bố thí. Bố thí gồm có tài thí (tiền của vật chất
như cơm ăn, áo mặc, thuốc men, chỗ ở kể cả thân mạng như máu mủ, xương tủy, tay
chân…); pháp thí (bút thí, Kinh thí, thuyết pháp thí…) và vô úy thí
(bảo vệ, bênh vực kẻ yếu để họ không bị sợ hãi trước bạo lực hay uy quyền). Bố
thí theo Tiểu thừa là phương pháp phá ngã tốt nhất, quên mình vì kẻ khác nên
được nhiều phúc lợi cho đời nầy và đời sau. Bố thí theo Đại thừa là đem đại từ
đại bi tâm cứu giúp chúng sanh ra khỏi biển sanh tử, được Niết bàn an vui. Phẩm
nầy Kinh nói về bố thí pháp theo Đại thừa..
Nếu có thiện nam, thiện nữ dạy chúng
sanh ở cõi Châu Thiệm bộ tu học thập thiện đạo để được sanh lên cõi Trời thì
được phước đức rất nhiều hiến chi dạy cho tất cả chúng sanh khắp cõi Tiểu
thiên, Trung thiên, Đại thiên thế giới, nhẫn đến dạy tất cả chúng sanh trong
hằng sa thế giới mười phương thực hành thập thiện đạo. Nhưng phước đức nầy
chẳng bằng phước đức dạy cho người ở cõi Châu Thiệm bộ được quả Tu đà hoàn, Tư
đà hàm, A na hàm, A la hán, Bích chi Phật, Bồ tát hay quả vị Vô Thượng Bồ
đề.Nhưng nếu có thiện nam, thiện nữ chỉ ghi chép Kinh Bát nhã Ba la mật
đem biếu cho người khác, rồi người khác lại sao chép truyền bá rộng rãi.
Người ghi chép, biếu Kinh sẽ được phước đức rất nhiều so với những người nói
trên.
Phẩm “So Lường Công Đức” quyển 130,
Hội thứ I, ĐBN, Phật nói:
“Nếu thiện nam thiện nữ v.v... sao
chép Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, trang trí bằng các vật báu, dùng vô
lượng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan,
lọng báu v.v… cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, y Kinh mà nói, như lý
tư duy; hoặc có thiện nam tín nữ v.v... sao chép Bát nhã Ba la mật như thế,
biếu tặng cho người khác thọ trì, truyền bá rộng rãi, thì hai loại phước này,
loại sau nhiều hơn. Vì sao? Vì do biếu tặng(Kinh cho)người khác, có thể
khiến cho vô lượng, vô biên các hữu tình được pháp hỷ”.
Chỉ cần sao chép trang trí cúng
dường Bát nhã Ba la mật mà còn được nhiều công đức hiến chi biếu tặng người
khác sao chép lưu hành rộng rãi.
2. Nhưng muốn
được vô vàn công đức hơn, muốn được quả vị Bồ tát bất thối hay Vô Thượng Bồ đề
thì phải y theo nghĩa thú Bát nhã Ba la mật mà thọ trì, đọc tụng, như lý tư
duy, lại dùng vô lượng phương pháp vì người khác rộng nói, chỉ bày, khai diễn,
giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú khiến họ dễ hiểu, thì thiện nam thiện
nữ... ấy phước đức hơn phước nói trước vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ
bàn.
Phẩm “So Lường Công Đức” quyển 135,
Hội thứ I, ĐBN lưu ý rằng:
“... Cái gọi là nghĩa thú của Bát
nhã Ba la mật này, là Bát Nhã phi nhị phi bất nhị, phi hữu tướng phi vô tướng,
phi nhập phi xuất, phi tăng phi giảm, phi nhiễm phi tịnh, phi sanh phi diệt,
phi thủ phi xả, phi chấp phi bất chấp, phi trụ phi bất trụ, phi thật phi bất
thật, phi tương ưng phi bất tương ưng, phi hòa hợp phi bất hòa hợp, phi nhân
duyên phi phi nhân duyên, phi pháp phi phi pháp, phi chơn như phi phi chơn như,
phi thật tế phi phi thật tế. Nghĩa thú như vậy có vô lượng pháp môn”.
Tu hành Bát Nhã với nghĩa thú đó có
nghĩa là tu hành không, tu hành vô tướng, tu hành vô nguyện, tu hành không hai
tướng trong đó không có người hành, không có pháp để hành; bố thí không thấy có
người cho, không thấy kẻ nhận, không có vật thí; trì giới mà không thấy giới
cấm, không thấy kẻ phạm hay không phạm, tu an nhẫn mà không thấy có người thọ
nhẫn, pháp nhẫn; tu tinh tấn mà không thấy giải đãi, biếng nhác hay tinh tấn;
tu tịnh lự mà không thấy định, kẻ định, cảnh định, quả định; tu huệ mà không
thấy có người tu, không thấy có huệ để tu, không thấy ngườikhôn người dại… Đó
chính là tu hành viên mãn các Ba la mật và tất cả các pháp Phật. Nhưng với điều
kiện là phải lấy vô sở đắc, vô nhị làm phương tiện thì mới không thối thất đạo
Bồ đề!
8. Đoạn tám: Phẩm “So
Lường Công Đức” thuộc quyển 136 đến phần đầu quyển 168, Hội thứ
I, ĐBN, (Tương đương với phẩm “Tương Tợ” quyển thứ 12, MHBNBLMĐ).
Tóm lược:
- Trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế
Tôn! Thế nào gọi là thuyết Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố
thí Ba la mật tương tợ?
Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện
nam, thiện nữ thuyết Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba
la mật có sở đắc thì như vậy gọi là thuyết Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn,
an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật tương tợ.
- Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch
Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao các thiện nam, thiện nữ thuyết Bát nhã Ba la mật có
sở đắc mà nói là thuyết Bát nhã Ba la mật tương tợ?
Phật bảo: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện
nam, thiện nữ v.v… thuyết sắc hoặc thường hoặc vô thường; thuyết thọ,
tưởng, hành, thức hoặc thường hoặc vô thường; thuyết sắc hoặc lạc hoặc khổ;
thuyết thọ, tưởng, hành, thức hoặc lạc hoặc khổ; thuyết sắc hoặc ngã hoặc vô
ngã; thuyết thọ, tưởng, hành, thức hoặc ngã hoặc vô ngã; thuyết sắc hoặc tịnh
hoặc bất tịnh; thuyết thọ, tưởng, hành, thức hoặc tịnh hoặc bất tịnh như thế, để
nương vào các pháp này mà hành Bát Nhã thì ta gọi là hành hữu sở đắc
tương tợ Bát nhã Ba la mật.
Phật bảo: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện
nam, thiện nữ v.v… cầu sắc hoặc thường, hoặc vô thường; cầu thọ, tưởng,
hành, thức hoặc thường, hoặc vô thường; cầu sắc hoặc lạc, hoặc khổ; cầu thọ,
tưởng, hành, thức hoặc lạc, hoặc khổ; cầu sắc hoặc ngã, hoặc vô ngã; cầu thọ, tưởng,
hành, thức hoặc ngã, hoặc vô ngã; cầu sắc hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; cầu thọ,
tưởng, hành, thức hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này
mà hành Bát Nhã thì ta gọi là hành hữu sở đắc tương tợ Bát nhã Ba la mật.
Cũng như vậy, nếu các thiện nam,
thiện nữ, vì kẻ phát tâm Vô Thượng Bồ đề, thuyết hay cầu 12 xứ, 18 giới
và tất cả pháp Phật từ bốnThánh đế, 12 duyên khởi, 4 thiền, 4 vô lượng, 4 định
vô sắc, 37 Bồ đề phần pháp, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác
ngộ tối cao, hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô
ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu y vào các pháp như thế hành Bát Nhã, thì ta
gọi là hành hữu sở đắc tương tợ Bát nhã Ba la mật.
Này Kiều Thi Ca! Như trước đã
nói, nên biết, đều là nói về Bát nhã Ba la mật hữu sở đắc tương tợ. (Q.137, ĐBN)
- Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch
Phật:Bạch Thế Tôn! Các thiện nam, thiện nữ v.v... thuyết hay cầu tịnh lự, tinh
tấn, an nhẫn, trì giới, bố thí Ba la mật hữu sở đắc như thế nào mà gọi là
thuyết hay cầu tịnh lự cho đến bố thí Ba la mật tương tợ?
Cũng như vậy, nếu các thiện nam,
thiện nữ, vì kẻ phát tâm Vô Thượng Bồ đề, thuyết hay cầu 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới
và tất cả pháp Phật từ 4 Thánh đế, 12 duyên khởi, 4 thiền, 4 vô lượng, 4 định
vô sắc, 37 Bồ đề phần pháp, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác
ngộ tối cao, hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô
ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu y vào các pháp như thế hành Bát Nhã,thì ta
gọi là hành hữu sở đắc tương tợ tịnh lự cho đến bố thí Ba la mật. (Q.138, ĐBN)
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam,
thiện nữ vì người phát tâm Vô Thượng Bồ đề, tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật, nói
thế này: Đến đây! Thiện nam tử! Ta sẽ dạy ngươi tu học Bát nhã Ba la mật. Nếu
ai theo lời dạy của ta thì sẽ mau trụ ở bậc Bồ tát thập địa: Cực hỷ, Ly
cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành, Bất động, Thiện
tuệ và Pháp vân địa.
Này Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ
ấy dùng hữu tướng làm phương tiện, hữu sở đắc làm phương tiện mà dạy
người khác tu học Bát nhã Ba la mật thời nói Bát nhã Ba la mật tương tợ.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam,
thiện nữ vì người phát tâm Vô Thượng Bồ đề, tuyên thuyết tịnh lự, tinh tấn, an
nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật, nói thế này: Đến đây! Thiện nam tử! Ta sẽ
dạy ngươi tu học tịnh lự đến bố thí Ba la mật. Nếu ai theo lời dạy của ta mà tu
hành thì sẽ mau trụ ở bậc Bồ tát thập địa. Đây gọi là nói tịnh lự đến bố thí Ba
la mật tương tợ.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam,
thiện nữ vì người phát tâm Vô Thượng Bồ đề, tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật,
hoặc nói tịnh lự Ba la mật, hoặc nói tinh tấn Ba la mật, hoặc nói an nhẫn Ba la
mật hoặc nói tịnh giới Ba la mật, hoặc nói bố thí Ba la mật, nói thế này: Đến
đây! Thiện nam tử! Ta sẽ dạy ngươi tu học Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Nếu
ai theo lời dạy của ta mà tu học thì mau vượt bậc Thanh văn và Độc giác. Đây
gọi là thuyết tịnh lự đến bố thí Ba la mật tương tợ.
Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ vì
người phát tâm Vô Thượng Bồ đề, tuyên thuyết Bát Nhã hoặc nói tịnh lự, hoặc nói
tinh tấn cho đến bố thí Ba la mật, rằng các người tu hành các Ba la mật này
xong, sẽ nhập Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Đã nhập Bồ tát Chánh tánh ly sanh rồi,
liền đắc Vô sanh pháp nhẫn của Bồ tát. Đã đắc Vô sanh pháp nhẫn, liền đắc Thần
thông bất thối của Bồ tát. Đã đắc Thần thông bất thối thì có khả năng du hành
tất cả các cõi Phật trong mười phương, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cung
kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen tất cả Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác.
Do đó, mau chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Đây gọi là nói tịnh lự đến bố thí
Ba la mật tương tợ.
Kiều Thi Ca! Vì cầu Phật đạo, thiện
nam, thiện nữ giảng thuyết rằng các người học Bát nhã Ba la mật nầy thọ trì,
đọc tụng, chánh ức niệm, thời sẽ được vô lượng vô biên vô số công đức.
Đây gọi là nói tương tợ Bát nhã Ba la mật.
Lại này Kiều Thi Ca! Vì cầu Phật
đạo, thiện nam, thiện nữ nói rằng quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật, tất cả
công đức thiện căn từ sơ phát tâm đến thành Phật, đều phải hồi hướngVô
Thượng Bồ đề. Như vậy, thiện nam, thiện nữ ấy dùng hữu tướng làm phương tiện,
hữu sở đắc làm phương tiện, nói như thế là nói Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an
nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật tương tợ.
- Lúc bấy giờ, trời Đế Thích bạch
Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là tuyên thuyết Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn,
an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật một cách chơn chánh?
Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện
nam, thiện nữ nói Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la
mật vô sở đắc như thế gọi là tuyên thuyết Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an
nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật một cách chơn chánh.
- Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch
Phật: Bạch Thế Tôn! Các thiện nam, thiện nữ thuyết Bát nhã Ba la mật vô sở đắc
như thế nào mà gọi là nói Bát nhã Ba la mật một cách chơn chánh?
Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện
nam, thiện nữ vì người phát tâm Vô Thượng Bồ đề tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật,
nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu Bát nhã Ba la mật, chẳng nên quán
sắc hoặc thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc
thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì sắc và tự tánh của sắc là không; thọ,
tưởng, hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Tự tánh của
sắc ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng
chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là Bát nhã Ba la
mật. Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu Bát nhã Ba la mật: Chẳng
nên quán sắc hoặc lạc - hoặc khổ, chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức
hoặc lạc - hoặc khổ. Vì sao? Vì sắc và tự tánh của sắc là không; thọ, tưởng,
hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Tự tánh của sắc ấy
tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng chẳng
phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là Bát nhã Ba la mật. Đối
với Bát nhã Ba la mật này, sắc chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ
kia cũng chẳng thể nắm bắt được; thọ, tưởng, hành, thức đều chẳng thể nắm bắt
được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong
đó còn không có sắc, thọ, tưởng v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc
và khổ kia! Nếu ngươi có khả năng tu như thế là tu Bát nhã Ba la mật.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi
nên tu Bát nhã Ba la mật, chẳng nên quán sắc, thọ, tưởng, hành, thức hoặc
ngã - hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc - bất tịnh.Vì sao? Vì sắc và tự
tánh của sắc là không; thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành,
thức là không. Tự tánh của sắc ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của thọ,
tưởng, hành, thức ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh
thì tức là Bát nhã Ba la mật. Đối với Bát nhã Ba la mật này, sắc chẳng thể
nắm bắt được, thì cái ngã - vô ngã, cái tịnh - bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm
bắt được; thọ, tưởng, hành, thức đều chẳng thể nắm bắt được, cái ngã- vô ngã,
cái tịnh - bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn
không có sắc, thọ, tưởng v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô
ngã, tịnh và bất tịnh kia! Nếu ngươi có khả năng tu như thế là tu Bát nhã Ba la
mật.
Này Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ
ấy nói những điều như thế, đó là tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật một cách chơn
chánh.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam,
thiện nữ vì người phát tâm Vô Thượng Bồ đề tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật, nói
thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu Bát nhã Ba la mật, chẳng nên quán 12 xứ,
18 giới,và tất cả pháp Phật từ 4 Thánh đế, 12 duyên khởi, 4 thiền, 4 vô
lượng, 4 định vô sắc, 37 Bồ đề phần pháp, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho
đến quả vị Giác ngộ tối cao hoặc thường - hoặc vô thường, hoặc vui - hoặc khổ,
hoặc ngã - hoặc vô ngã, hoặc tịnh - hoặc bất tịnh.. Vì sao? Vì 12 xứ, 18 giới
và tự tánh của các pháp Phật ấy là không. Tự tánh của 12 xứ, 18 giới tức chẳng
phải là tự tánh; tự tánh của tất cả pháp Phật ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu
chẳng phải là tự tánh thì tức là Bát nhã Ba la mật. Đối với Bát nhã Ba la
mật này, 12 xứ, 18 giới chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường đến
cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được; tất cả pháp Phật đều chẳng
thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường đến cái tịnh, bất tịnh kia cũng
chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có 12 xứ, 18 giới v.v...
có thể nắm bắt được, huống là có cái thường, vô thường đến có cái tịnh, bất
tịnh kia! Nếu ngươi có khả năng tu như thế là tu Bát nhã Ba la mật.
Này Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ
v.v... ấy nói những điều như thế, đó là tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật một cách
chơn chánh.
- Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch
Phật: Bạch Thế Tôn: Các thiện nam, thiện nữ nói tịnh lự Ba la mật vô sở đắc
như thế nào mà gọi là nói tịnh lự Ba la mật một cách chơn chánh?
Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện
nam, thiện nữ vì người phát tâm Vô Thượng Bồ đề, tuyên thuyết tịnh lự Ba la mật,
nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tịnh lự Ba la mật, chẳng nên quán
sắc hoặc thường - hoặc vô thường; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức
hoặc thường- hoặc vô thường. Vì sao? Vì sắc và tự tánh của sắc là không; thọ,
tưởng, hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Tự tánh của
sắc ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng
chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh lự Ba la
mật. Đối với tịnh lự Ba la mật này, sắc chẳng thể nắm bắt được thì cái
thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được; thọ, tưởng, hành, thức đều
chẳng thể nắm bắt được, thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt
được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có sắc, thọ, tưởng v.v... có thể nắm bắt
được, huống là có cái thường và vô thường kia! Nếu ngươi có khả năng tu như thế
là tu tịnh lự Ba la mật.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi
nên tu tịnh lự Ba la mật, chẳng nên quán 12 xứ, 18 giới và tất cả pháp Phật từ
4 Thánh đế, 12 duyên khởi, 4 thiền, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 37 Bồ đề phần
pháp, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao hoặc
vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì 12 xứ,
18 giớiv.v… và tự tánh của 12 xứ, 18 giới v.v… là không; tất cả pháp Phật và tự
tánh của tất cả pháp Phật là không. Tự tánh của 12 xứ, 18 giới v.v… ấy tức
chẳng phải là tự tánh; tự tánh của tất cả pháp Phật ấy cũng chẳng phải là tự
tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh lự Ba la mật. Đối với
tịnh lự Ba la mật này, sắc chẳng thể nắm bắt được, thì cái vui và khổ cho đến
cái tịnh và bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được; tất cả pháp Phật đều
chẳng thể nắm bắt được, thì cái vui và khổ cho đến cái tịnh và bất tịnh kia
cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có 12 xứ, 18 giới
v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái vui và khổ cho đến cái tịnh và bất
tịnh kia! Nếu ngươi có khả năng tu như thế là tu tịnh lự Ba la mật.
Này Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ
ấy nói những điều như thế, đó là tuyên thuyết tịnh lự Ba la mật một cách chơn
chánh.
Cũng như thế, Phật trả lời Kiều Thi
Ca từng pháp thế nào là tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật một cách
chơn chánh đối với từng pháp một của tất cả pháp Phật từ 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới,
4 Thánh đế, 12 duyên khởi, 4 thiền, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 37 pháp trợ đạo,
18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao như đã nói
trên.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam,
thiện nữ vì người phát tâm Vô Thượng Bồ đề, tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật,
hoặc thuyết tịnh lự Ba la mật, hoặc thuyết tinh tấn, hoặc thuyết an nhẫn, tịnh
giới, bố thí, thì nói thế này: Thiện nam tử! Hãy đến đây! Ta sẽ dạy ngươi tu
học Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Khi ngươi tu học, chớ quán các
pháp mảy may có thể trụ, có thể vượt, có nhập, có đắc, có chứng, có thể thọ trì
v.v... chỗ đạt được công đức và khá tùy hỷ hồi hướng Bồ đề. Vì sao? Vì đối với Bát
Nhã cho đến bố thí Ba la mật này, rốt ráo không có một mảy may pháp có thể trụ,
có thể vượt, có nhập, có đắc, có chứng, có thể thọ trì v.v... chỗ đạt được công
đức và khá tùy hỷ hồi hướng Bồ đề. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp đều
không, hoàn toàn không có sở hữu. Nếu không sở hữu, tức là Bát Nhã cho đến bố
thí Ba la mật. Đối với Bát Nhã cho đến Bố thí Ba la mật này, rốt ráo không
một mảy may pháp có nhập, có xuất, có sanh, có diệt, có đoạn, có thường, có một,
có khác, có đến, có đi, để có thể nắm bắt được.Thiện nam, thiện nữ ấy nói những
điều đó là tuyên thuyết Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba
la mật một cách chơn chánh.
Vì vậy nên, này Kiều Thi Ca! Các
thiện nam, thiện nữ đối với Bát nhã Ba la mật, nên dùng vô sở đắc làm phương
tiện, thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy; nên dùng các thứ văn nghĩa xảo diệu, vì
người rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú,
khiến họ dễ hiểu.
Kiều Thi Ca! Do duyên cớ này, ta nói:
Nếu thiện nam, thiện nữ đối với Bát nhã Ba la mật này, dùng vô sở đắc mà làm
phương tiện, thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy; lại dùng các thứ văn nghĩa xảo
diệu, vì người biện thuyết, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt
nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì phước đức đạt được hơn trước rất nhiều.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam,
thiện nữ giáo hóa các loại hữu tình trong bốn châu Thiệm bộ, Đông thắng
thần, Tây ngưu hóa, Bắc câu lô đều trụ quả Dự lưu thì theo ý ông thế
nào? Thiện nam, thiện nữ ấy, do nhân duyên này, được phước nhiều chăng?
Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn!
Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!
Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện
nam, thiện nữ đối với Bát nhã Ba la mật, dùng vô lượng pháp môn, văn
nghĩa xảo diệu, vì người rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ
ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu; lại nói thế này: Này thiện nam tử!
Hãy đến đây! Đối với Bát nhã Ba la mật này, ngươi nên chí tâm lắng nghe, thọ
trì, đọc tụng, khiến dễ thông đạt, như lý tư duy, theo pháp môn này, nên siêng
tu học thì thiện nam, thiện nữ ấy, đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì
sao? Kiều Thi Ca! Vì tất cả Dự lưu và Dự lưu quả đều xuất sinh từ Bát nhã Ba la
mật ấy.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Để riêng các
loại hữu tình trong bốn châu, nếu thiện nam, thiện nữ giáo hóa các loại hữu
tình trong tiểu thiên, trung thiên, đại thiên thế giới hay nói rộng cho đến
thế giới mười phương như cát sông Hằng đều trụ quả Dự lưu, thì theo ý ông
thiện nam, thiện nữ ấy, do nhân duyên này, được phước nhiều chăng?
Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn!
Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!
Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện
nam, thiện nữ đối với Bát nhã Ba la mật này, dùng vô lượng pháp môn, văn
nghĩa xảo diệu, vì người rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng,
phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu; lại nói thế này: Thiện nam tử! Hãy đến
đây! Đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm này, ngươi nên chí tâm lắng nghe, thọ
trì, đọc tụng, khiến dễ thông đạt, như lý tư duy, theo pháp môn này, nên siêng
tu học thì thiện nam, thiện nữ ấy, đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì
sao? Kiều Thi Ca! Vì tất cả Dự lưu và Dự lưu quả đều xuất sanh từ Bát nhã Ba la
mật ấy.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam,
thiện nữ giáo hóa các loại hữu tình trong bốn châu cho đến tất cả thế giới mười
phương như cát sông Hằng đều trụ quả A la hán, thì theo ý ông thế nào? Thiện
nam, thiện nữ ấy, do nhân duyên này, được phước nhiều chăng?
Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn!
Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!
Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện
nam, thiện nữ nhơn đối với Bát nhã Ba la mật này, dùng vô lượng pháp môn, văn
nghĩa xảo diệu, vì người rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng,
phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu; lại nói thế này: Thiện nam tử! Đến đây!
Đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm này, ngươi nên chí tâm lắng nghe, thọ trì,
đọc tụng, khiến dễ thông suốt, như lý tư duy, theo pháp môn này, nên siêng
tu học thì thiện nam, thiện nữ nhơn ấy, đạt được công đức hơn trước rất
nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì tất cả A la hán và A la hán quả đều phát
xuất từ Bát nhã Ba la mật ấy. (Hết Q.166,
ĐBN)
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện
nam, thiện nữ giáo hóa các loại hữu tình trong Thiệm bộ châu, Đông thắng thần,
Tây ngưu hóa, Bắc câu lô cho đến tất cả thế giới mười phương như cát sông Hằng đều
trụ bậc Bồ tát bất thối chuyển. Ý ông nghĩ sao? Các thiện nam, thiện nữ,
do nhân duyên đây được phước nhiều chăng?
Thiên Đế Thích thưa: Bạch Thế Tôn!
Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.
Phật nói: Kiều Thi Ca! Nếu các thiện
nam, thiện nữ đối Bát nhã Ba la mật đây, dùng vô lượng môn văn nghĩa khéo léo
vì người phân biệt nghĩa thú khiến cho kẻ kia dễ hiểu. Lại tác lời này: Thiện
nam tử! Đến đây, ngươi nên đối Bát nhã Ba la mật thẳm sâu đây, chăm lòng lóng
nghe, thọ trì đọc tụng cho khéo thông lợi, như lý suy nghĩ, tùy thuận Bát nhã
Ba la mật đã thuyết pháp môn đây nên chánh tin hiểu. Nếu chánh tin hiểu thời
năng tu học được Bát nhã Ba la mật như thế. Nếu năng tu học Bát nhã Ba la mật
như thế, thời năng chứng Nhất thiết trí. Nếu năng chứng Nhất thiết trí, thời tu
Bát nhã Ba la mật càng thêm viên mãn. Nếu tu Bát nhã Ba la mật càng thêm viên
mãn, bèn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện
nữ, chỗ được công đức rất nhiều hơn trước. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì tất cả bậc
Bất thối chuyển của đại Bồ Tát đều do Bát nhã Ba la mật này xuất sanh ra vậy.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các hữu
tình trong Thiệm bộ châu, Đông thắng thần, Tây ngưu hóa, Bắc câu lô cho đến tất
cả thế giới mười phương như cát sông Hằng đều hướng tới Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề. Có các thiện nam, thiện nữ đối Bát nhã Ba la mật đây, dùng vô lượng
môn văn nghĩa khéo léo vì người rộng nói, tuyên tỏ khai diễn, giải thích rõ
ràng, phân biệt nghĩa thú khiến cho kẻ kia dễ hiểu. Lại tác lời này: Thiện nam
tử! Đến đây, ngươi nên đối Bát nhã Ba la mật thẳm sâu đây, chăm lòng lóng nghe,
thọ trì đọc tụng cho khéo thông lợi, như lý suy nghĩ, tùy thuận Bát nhã Ba la
mật đã thuyết pháp môn đây nên chánh tin hiểu. Nếu chánh tin hiểu thời năng tu
học được Bát nhã Ba la mật như thế. Nếu năng tu học Bát nhã Ba la mật như thế,
thời năng chứng Nhất thiết trí. Nếu năng chứng Nhất thiết trí, thời tu Bát nhã
Ba la mật càng thêm viên mãn. Nếu tu Bát nhã Ba la mật càng thêm viên mãn, bèn
chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Kiều Thi Ca! Các thiện nam thiện nữ này, chỗ
được công đức rất nhiều hơn trước.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các loại
hữu tình trong bốn đại châu cho đến tất cả thế giới mười phương như cát sông
Hằng đều đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề được chẳng quay lui. Có các
thiện nam, thiện nữ đối Bát nhã Ba la mật đây, dùng vô lượng môn văn nghĩa khéo
léo vì người rộng nói, tuyên tỏ khai diễn, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa
thú khiến kia dễ hiểu. Lại tác lời này: Thiện nam tử! Đến đây, ngươi nên đối Bát
nhã Ba la mật thẳm sâu đây, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng cho khéo
thông lợi, như lý suy nghĩ, tùy thuận Bát nhã Ba la mật đã thuyết pháp môn đây
nên chánh tin hiểu. Nếu chánh tin hiểu thời năng tu học được Bát nhã Ba la mật
như thế. Nếu năng tu học Bát nhã Ba la mật như thế, thời năng chứng được pháp
Nhất thiết trí. Nếu năng chứng Nhất thiết trí, thời tu Bát nhã Ba la mật càng
thêm viên mãn. Nếu tu Bát nhã Ba la mật càng thêm viên mãn, bèn chứng Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề. Kiều Thi Ca! Các thiện nam thiện nữ này, chỗ được công đức
rất nhiều hơn trước.
(…)Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các
thiện nam, thiện nữ giáo hóa các loại hữu tình trong trong bốn đại châu
cho đến tất cả thế giới mười phương như cát sông Hằng đều đối Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề được chẳng quay lui. Lại đem Bát nhã Ba la mật, vô lượng
pháp môn văn nghĩa khéo léo vì kia rộng nói, tuyên tỏ khai diễn, giải thích rõ
ràng, phân biệt nghĩa thú khiến kia dễ hiểu. Nhưng lại có các thiện nam thiện
nữ, với trong số ấy chỉ khuyên một người mau tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề,
khiến thuyết pháp tam thừa cứu độ tất cả. Lại đem Bát nhã Ba la mật, vô lượng
pháp môn văn nghĩa khéo léo vì kia rộng nói, tuyên tỏ khai diễn, giải thích rõ
ràng, phân biệt nghĩa thú khiến cho kẻ kia dễ hiểu. Kiều Thi Ca! Các thiện nam
thiện nữ nhân, chỗ được công đức rất nhiều hơn trước. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì
đại Bồ Tát an trụ bậc Bất thối chuyển chẳng cần nương nhờ pháp sở thuyết, đối
Vô thượng giác quyết định hướng tới, với Đại Bồ đề chẳng quay lui. Đại Bồ Tát
mau tới Đại Bồ đề rất cần nương nhờ pháp sở thuyết vậy, đối Vô thượng giác cầu
mau tới vậy, quán khổ sanh tử của tất cả hữu tình vận tâm Đại bi rất thống
thiết vậy.
Bấy giờ, Thiên Đế Thích thưa Phật
rằng: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát càng gần Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như vậy, nên
cần đem lục Ba la mật giúp đỡ.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát càng gần Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như vậy, nên cần đem 18 pháp không, thập nhị chân như,
tứ Thánh đế, bốn tĩnh lự,bốn vô lượng, bốn vô sắc định,tám giải thoát,tám thắng
xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, 37 pháp trợ đạo, tam giải thoát môn cho đến
Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chóng dạy bảo, dạy trao đại
Bồ Tát kia. Đồng thời cần đem quần áo, thức ăn thức uống, đồ nằm, thuốc thang,
cùng pháp thí, tài thí cúng dường nhiếp thọ đại Bồ Tát kia. Các thiện nam thiện
nữ này, chỗ được công đức rất nhiều hơn trước. Vì sao? Vì các đại Bồ Tát kia
nhờ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật dạy bảo
dạy trao nhiếp thọ như vậy, nên mới mau chứng Vô Thượng Bồ đề.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bảo Thiên
Đế Thích rằng: Hay thay, hay thay! Kiều Thi Ca! Ngươi mới là năng khuyên gắng
đại Bồ Tát, lại năng nhiếp thọ đại Bồ Tát, cũng năng hộ trợ Bồ Tát. Ngươi
nay đã làm Thánh đệ tử của Phật là việc đáng làm. Các Thánh đệ tử của tất cả
Như Lai vì muốn lợi vui các hữu tình, nên mới phương tiện khuyên gắng đại Bồ
Tát, khiến mau tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đem pháp thí, tài thí nhiếp thọ
hộ trợ đại Bồ Tát, khiến mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì tất
cả Như Lai, Thanh Văn, Độc giác là thắng sự thế gian do đại Bồ Tát mà xuất sanh
được vậy. Vì sao? Vì nếu không có đại Bồ Tát là kẻ phát tâm Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề, thời không có kẻ năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến,
tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Cũng không có kẻ năng an trụ tất cả các pháp Phật
nói trên.
Nếu không có đại Bồ Tát tu học, an
trụ các việc như thế, thời không có kẻ năng chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề. Nếu không có đại Bồ Tát chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thời không
có kẻ năng an lập được Bồ Tát, Thanh Văn, Độc giác làm thắng sự cho thế gian.
Kiều Thi Ca! Do có đại Bồ Tát phát
tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nên mới có kẻ năng tu học bố thí, tịnh giới, an
nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Cũng lại có kẻ năng an trụ và tu
học các pháp mầu Phật đạo.
Do có đại Bồ Tát tu học, an trụ việc
như thế, nên mới năng chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Do có đại Bồ Tát
chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thời dứt được tất cả địa ngục, bàng
sanh, quỷ giới của thế gian, cũng năng tổn giảm bè lũ của A tu la, tăng thêm
thiên chúng.
Kiều Thi Ca! Do có đại Bồ Tát chứng
được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nên mới có đại tộc Sát đế lợi, đại tộc Bà la
môn, đại tộc Trưởng giả, đại tộc Cư sĩ xuất hiện thế gian. Do đây lại có trời
Bốn đại vương chúng, trời Ba mươi ba, trời Dạ ma, trời Đổ sử đa, trời Lạc biến
hóa, trời Tha hóa tự tại xuất hiện thế gian. Do đây lại có trời Phạm chúng,
trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm, trời Quang, trời Thiểu quang, trời
Vô lượng quang, Trời Biến tịnh, Trời Quảng, trời Thiểu quảng, trời Vô lượng
Quảng quả xuất hiện thế gian. Do đây lại có Trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời
Thiện Hiện, trời Thiện kiến, Trời Sắc cứu cánh xuất hiện thế gian. Do đây lại
có trời Không vô biên xứ, trời Thức vô biên xứ, trời Vô sở hữu xứ, Trời Phi
tưởng phi phi tưởng xứ xuất hiện thế gian.
Do đây lại có bố thí, tịnh giới, an
nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật xuất hiện thế gian.Do đây mới có
tất cả pháp thế gian và xuất thế gian xuất hiện. (Hết Q. 168, ĐBN)
Chúng tôi trích dẫn phần cuối của
phẩm “Tương Tợ”, Kinh MHBNBLMĐ để Quý vị đọc thêm và cũng để Quý vị nắm vững
Đoạn tám của phẩm “So Lường Công Đức” này:
“Lại nầy
Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ giáo hóa chúng sanh trong một Diêm Phù Đề (tức
Châu Thiệm bộ) nhẫn đến giáo hóa chúng sanh trong hằng sa quốc độ mười phương, làm
cho phát tâm Bồ đề nhẫn đến bậc bất thối chuyển, dầu được phước rất nhiều,
nhưng vẫn không bằng người đem Bát nhã Ba la mật giảng thuyết cho người
khác, dùng những nhơn duyên khai thị, phân biệt cho họ được hiểu biết, bảo họ
tu hành đúng như lời dạy trong Bát nhã Ba la mật, sẽ được Nhất thiết trí và
Vô Thượng Bồ đề. Tại sao vậy? Vì trong Bát nhã Ba la mật xuất sanh những đại Bồ
Tát sơ phát tâm, nhẫn đến xuất sanh những đại Bồ Tát bất thối chuyển.
Lại nầy
Kiều Thi Ca! Chúng sanh trong một Diêm Phù Đề nhẫn đến trong hằng sa thế giới
mười phương phát tâm cầu Vô Thượng Bồ đề. Nếu có thiện nam, thiện nữ vì họ mà
giảng rộng nghĩa Bát nhã Ba la mật và khai thị, phân biệt cho họ được hiểu
biết.
Có người vì
một Bồ Tát bất thối chuyển mà diễn thuyết Bát nhã Ba la mật và khai thị,
phân biệt cho được hiểu biết, người nầy được phước rất nhiều.
Lại nầy
Kiều Thi Ca! Nếu có chúng sanh trong một Diêm Phù Đề nhẫn đến trong hằng sa thế
giới mười phương đều được bậc bất thối chuyển. Có thiện nam, thiện nữ đem
Bát nhã Ba la mật giảng giải ý nghĩa cho những bậc nầy. Trong đây có một Bồ
Tát muốn mau chứng Vô Thượng Bồ đề, nếu có người đem Bát nhã Ba la mật
giảng giải ý nghĩa cho Bồ Tát nầy, thời được phước nhiều hơn hết”.
Thiên Đế
thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Như đại Bồ Tát càng gần đến Vô Thượng Bồ đề, lại càng
nên giáo hóa thực hành sáu Ba la mật, càng nên giáo hóa thực hành nội không đến
vô pháp hữu pháp không, tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng. Lại nên cúng
dường y phục, ngọa cụ, ẩm thực, y dược, tùy theo chỗ cần dùng mà cung cấp.
Thiện
nam, thiện nữ pháp thí và tài thí cúng dường đại Bồ Tát nầy thời được công đức.
Vì đại Bồ Tát nầy mau thành Vô Thượng Bồ đề vậy”.
Ngài Tu
Bồ Đề nói: “Lành thay, lành thay! Nầy Kiều Thi Ca! Ngài vì thánh đệ tử mà an ủy
chư đại Bồ Tát vì Vô Thượng Bồ đề, nên đem pháp thí, tài thí làm lợi ích, theo
lẽ thời phải như vậy.
Tại sao
thế? Vì trong hàng Bồ Tát xuất sanh chư Phật Thánh chúng.
Nếu Bồ
Tát chẳng phát tâm Vô Thượng Bồ đề, thời Bồ Tát nầy chẳng thể học sáu Ba la mật
đến mười tám pháp bất cộng, chẳng thể được Vô Thượng Bồ đề.
Nếu chẳng
thể được Vô Thượng Bồ đề, thời không có Thanh văn và Bích Chi Phật.
Nầy Kiều
Thi Ca! Vì thế nên chư đại Bồ Tát học sáu Ba la mật đến mười tám pháp bất cộng.
Do học sáu Ba la mật đến mười tám pháp bất cộng mà được Vô Thượng Bồ đề. Do
được Vô Thượng Bồ đề nên dứt diệt ba ác đạo Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Thế
gian bèn có những dòng hào tộc, bèn có các cõi trời từ Tứ Thiên Vương đến Phi
Phi Tưởng Thiên, bèn có Đàn na Ba la mật, bèn có nội không đến vô pháp hữu pháp
không, bèn có tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng, bèn có Thanh văn thừa, Độc
giác thừa và Phật thừa đều xuất hiện thế gian”.
Viết tóm lược quá ngắn thì thiếu,
khó hiểu; để nguyên văn thì nhiều quá dài, trùng tụng quá nhiều chỉ làm độc giả
mệt mỏi, có khi không nắm được ý chánh. Chúng tôi tóm tắt tuy khá đầy đủ, dễ
hiểu nhưng cũng còn đôi chút trùng tu. Thà dư còn hơn thiếu!
Lược giải:
(cho riêng Đoạn tám này)
1. Nếu có thiện
nam, thiện nữ... trong vô lượng, vô số, vô biên đại kiếp dùng hữu sở đắc
làm phương tiện, tu hành lục Ba la mật, lại có thiện nam thiện nữ trong vô
lượng, vô số, vô biên đại kiếp đối với Bát nhã Ba la mật, dùng vô sở đắc
làm phương tiện thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy, lại dùng các thứ văn nghĩa
khéo léo sâu sắc, vì người khác biện thuyết, chỉ bày, khai diễn, giải thích rõ
ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì phước đức có được hơn kẻ trước
rất nhiều.
Hữu sở đắc là hành bố thí mà thấy có
người cho - kẻ nhận- vật thí, tức là bố thí chấp tướng; hành tịnh giới mà chấp
giữ giới hay hủy phạm và tự khen “Ta là kẻ có khả năng tịnh giới hơn người” thì
chẳng thể gọi là tịnh giới Ba la mật; hành an nhẫn mà chấp vào thân hay tâm có
thể chịu đựng được những nỗi vinh nhục não hại hơn người, thì không thể gọi là
an nhẫn Ba la mật; hành tinh tấn mà chấp tinh tấn hay giải đãi, thì chẳng thể
gọi là tinh tấn Ba la mật; hành tịnh lự mà nghĩ: “Ta có khả năng tu thiền - tập
định, kẻ khác không thể tập trung tư tưởng nói chi đến thiền định”, như thế là
chấp vào cái tịnh lự, thì chẳng thể gọi là tu tịnh lự Ba la mật; hành Bát Nhã
mà nghĩ: “Ta có khả năng tu hành trí tuệ, kẻ khác trí óc kém cỏi không thể” như
thế là chấp vào cái danh Bát Nhã thì chẳng thể gọi là Bát nhã Ba la mật. Vì
thiện nam, thiện nữ dùng hữu sở đắc làm phương tiện nên chẳng thể viên
mãn sáu pháp Ba la mật. Đây gọi là hành Bát nhã Ba la mật tương tợ.
Người sơ phát tâm Vô Thượng Bồ đề nghe người ấy nói pháp Bát nhã Ba la mật
tương tợ, tâm mê lầm, liền mất Trung đạo.
Ngược lại, bố thí mà tam luân thể
không (tam luân thanh tịnh) thì được coi là bố thí Ba la mật; trì giới mà không
thấy mình là người thọ giới, không thấy giới để trì thì được coi là trì giới Ba
la mật; an nhẫn mà không chấp có thân thọ nhục; tinh tấn chẳng thấy có người
siêng năng hay giải đãi, thiền định mà chẳng thấy có người định, cảnh định, kết
quả của định; hành Bát Nhã, chẳng thấy có người tu tuệ, cảnh tuệ, kết quả sự tu
tuệ vì dùng vô sở đắc làm phương tiện, thì có thể viên mãn sáu pháp đáo
bỉ ngạn. Cho nên, phải dùng tuệ vô sở đắc và các thứ văn nghĩa khéo léo thậm
thâm, vì người sơ phát tâm mà tuyên nói Bát nhã Ba la mật.
2. Nếu người
tu hành cầu sắc, thọ, tưởng, hành, thức; cầu thập nhị xứ, thập bát giới và tất
cả pháp Phật hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc bất lạc, hoặc ngã hoặc
vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành
các Ba la mật và tất cả thiện pháp thì được coi là tu hành Bát nhã Ba la mật
tương tợ. Tương tợ có nghĩa là bề ngoài tu hành giống như tu Bát nhã Ba la mật,
nhưng thực chất không phải như vậy, vì lấy hữu sở đắc làm phương tiện, chấp
ngã, chấp pháp.
Cũng vậy, vì người phát tâm Vô
Thượng Bồ đề mà thiện nam thiện nữ tuyên thuyết lục Ba la mật và nói: “Ta sẽ dạy
lục Ba la mật cho các ngươi. Nếu ai theo lời dạy của ta mà tu học thì mau nhập
Chánh tánh ly sanh…(1)”. Ta dạy… “phải nghe theo…” và “quả quyết sẽ đạt được
danh vị thế này hay thế nọ...”. Nếu thiện nam, thiện nữ ấy dạy người như vậy
là dùng hữu tướng (ngã, nhơn, chúng sanh và mạng giả) làm phương tiện, hữu sở
đắc làm phương tiện dạy người tu học lục Ba la mật và tất cả thiện pháp thì đó
là tuyên nói Bát nhã Ba la mật tương tợ.
Thiện nam thiện nữ cả quyết nói với
bậc chủng tánh Bồ tát: “Nếu thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy
Bát nhã Ba la mật thậm thâm thì quyết định sẽ đạt được vô lượng, vô số, vô biên
công đức”(2). Thọ trì như vậy, học như vậy…“bảo đảm là được vô lượng vô biên
công đức”. Nếu thiện nam thiện nữ ấy dạy người như vậy là dùng hữu tướng làm
phương tiện, hữu sở đắc làm phương tiện, đó chính là tuyên nói Bát nhã Ba
la mật tương tợ.
Tu Bát Nhã là không chấp tướng, là
tu như không, chẳng thủ chẳng xả, không được không mất, “rốt ráo
không thấy mảy may có pháp có nhập, có xuất, có sanh, có diệt, có đoạn, có
thường, có một, có khác, có đến, có đi, để có thể nắm bắt được” và tâm niệm lấy
vô sở đắc, vô thủ trước làm phương tiện thì mới được gọi là tu hành chân chánh Bát
nhã Ba la mật.
Nói tóm lại, Bát nhã Ba la mật tương
tợ và Bát nhã Ba la mật chân chánh khác nhau ở chỗ có sở đắc và vô sở đắc.
Tu hành là không nắm bắt cất giữ thứ gì thì mới được xem là phước đức vô lậu,
lại dùng phước đức này bình đẳng ban cho tất cả chúng sanh cùng nhau hồi hướng
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì công đức này mới được xem là vô thượng không gì
bằng.
3. Như thế nào
coi là tuyên thuyết Bát Nhã chân chánh?
Hơn nữa, khi tu Bát nhã Ba la mật,
chẳng nên quán tất cả các thiện pháp hoặc thường-hoặc vô thường, hoặc lạc-hoặc
khổ, hoặc ngã-hoặc vô ngã, hoặc tịnh-hoặc bất tịnh... Vì sao? Vì các thiện pháp
đều không có tự tánh. Nếu không có tự tánh tức là không. Bát nhã Ba la mật cũng
tánh không. Nếu không có tự tánh thì tức là Bát nhã Ba la mật. Đối với Bát
nhã Ba la mật này các thiện pháp còn chẳng thể nắm bắt được huống là có cái
thường, cái vô thường kia! Nếu có khả năng tu như thế là tu Bát nhã Ba la mật.
Nếu thiện nam thiện nữ tuyên thuyết được như thế thì đó là tuyên thuyết Bát nhã
Ba la mật một cách chân chánh(3).
Nếu tuyên thuyết các Ba la mật khác
như tịnh lự, tinh tiến, an nhẫn…như thế thì cũng được coi tuyên thuyết các Ba
la mật một cách thanh tịnh. Vì tự tánh của tất cả các pháp đều không, hoàn toàn
vô sở hữu. Nếu vô sở hữu, tức là Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Đối với Bát
Nhã cho đến Bố thí Ba la mật này, rốt ráo không pháp nào mảy may có xuất - có
nhập, có sanh - có diệt, có đoạn - có thường, có một- có khác, có đến- có
đi để có thể nắm bắt được.
Thiện nam thiện nữ ấy tuyên thuyết
như vậy là tuyên thuyết Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba
la mật một cách chân chánh. Vì vậy nên, các thiện nam thiện nữ đối với Bát nhã
Ba la mật, nên dùng vô sở đắc làm phương tiện, thọ trì, đọc tụng, như lý
tư duy; nên dùng các thứ văn nghĩa xảo diệu, vì người rộng nói, diễn đạt chỉ
bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú khiến họ dễ hiểu, thì phước đức
đạt được vô lượng, vô biên.
Giáo pháp này không có gì khó chỉ
cần nhớ là tu có sở đắc hay không có sở đắc là được. trong thực hành tu Bát nhã
Ba la mật là phải hồi hướng Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện.
Một khi muốn có đắc tức còn nắm bắt là còn trở ngại, phiền não. Vì vậy, người
tu chân chánh là không mong cầu nắm bắt!
Thích nghĩa cho phần lược giải của
Đoạn tám này:
(1). (2). và (3). Là nằm trong phẩm
“So Lường Công Đức”, từ quyển 145 đến 166, Hội thứ I, ĐBN.
Lưu ý:
1- Tụng tới đây là xong phẩm “So Lường Công Đức” của Kinh ĐBN. Như trên
đã nói phẩm này kéo dài đến 66 quyển từ quyển thứ 103 cho đến hết quyển 168,
tổng cộng 622 trang. Không ai có thể cùng một lúc chiết giải một phẩm quá dài
với nhiều giáo lý cũng như các tình tiết khác nhau như vậy. Nếu ôm đồm ghi chép
trích dẫn và chiết giải nguyên văn một lúc 622 trang, có thể gây mệt mỏi cho
người thọ trì đọc tụng. Nhưng nói chung, Kinh dùng cùng một công thức như nhau
rất trùng tụng để diễn tả phẩm này, vì vậy nên dễ tóm lược mà không sợ lỗi lầm.
Kinh MHBNBLMĐ cũng là đại phẩm, được Phật thuyết vào Hội thứ II, và theo
các nhà khảo cứu Phật học thì Kinh MHBNBLMĐ có trước Kinh ĐBN. Kinh ĐBN chỉ
triển khai các Tiểu phẩm hay đại phẩm trước khi ĐBN ra đời. MHBNBLMĐ có tổng
cộng tám phẩm là: “Bửu Tháp Đại Minh”, “Thuật Thành”, “Khuyến Trì”, “Khiển Trừ
Ma Ngoại”, “Tôn Đạo”, “Xá Lợi”, “Pháp Thí”(phần trên), “Tương Tợ”(phần dưới)
tương đương với một phẩm duy nhất là phẩm “So Lường Công Đức” của Kinh ĐBN.
Thay vì, Kinh ĐBN chia từng phẩm như Kinh MHBNBLMĐ mà diễn giảng, nhưng Kinh
ĐBN lại gộp tất cả 8 phẩm của Kinh MHBNBLMĐ thành một phẩm duy nhất lấy tên là
phẩm “So Lường Công Đức”. Để tránh sự khó khăn trong việc tóm lược và chiết
giải, chúng tôi phân chia phẩm “So Lường Công Đức” làm 8 đoạn tương đương với
tám phẩm của Kinh MHBNBLMĐ như quý vị vừa tụng qua.
2- Điểm thứ hai, cần lưu ý độc giả là chúng tôi có trích dẫn nhiều đoạn
Kinh MHBNBLMĐ trong khi tóm lược hay chiết giải không những cho phẩm này mà còn
cho toàn bộ Kinh ĐBN. Vì sao? Vì Kinh MHBNBLMĐ thuyết gọn, dễ nắm. Quý vị tụng
kỹ sẽ thấy rõ lối trình bày của chúng tôi. Tuy nhiên, phải nói trình bày, lý
giải cũng là kiến, có kiến là có chấp, khó tránh phiền não. Xin hãy tạm xem đây
như là những phương tiện cần thiết hơn là những trích dẫn có tánh cách áp đặt.
3- Điểm sau cùng cần nói là phẩm “So Lường Công Đức” của ĐBN dầu thuyết
gộp thành một phẩm duy nhất hay chia làm tám phẩm để thuyết như Kinh MHBNBLMĐ,
đều có cùng một nội dung như nhau, nghĩa là cả hai Kinh đều xưng tán Bát Nhã
cũng như so sánh công đức trí tuệ giữa những người tu học, thọ trì Bát Nhã dưới
hình thức này hay hình thức khác hay nói khác là cả hai Kinh đều thuyết cùng
một thể tài như nhau, chỉ khác là tán rộng hay rút gọn mà thôi!
Phẩm này tuy thấy dài, nhưng dễ đọc, dễ hiểu, chỉ cần hành trì đúng đắn
như kinh khuyến dẫn thì sẽ được thọ dụng công đức trí tuệ không thể nghĩ bàn.
Nói như thế, nhưng không phải thế. Đừng nghĩ tới công đức trí tuệ mới có công
đức trí tuệ, đó là lời khuyên đáng ghi nhớ của Bát nhã Ba la mật.