PHẨM “CHẲNG NGHĨ BÀN”
Phần sau quyển 308 đến phần đầu quyển
310, Hội thứ I, ĐBN.
(Phẩm nầy tương đương với phẩm “Thành
Biện” quyển thứ 17, MHBNBLMĐ)
Tóm
lược:
Bát nhã Ba la mật thậm thậm vì việc lớn mà xuất hiện ở đời; Bát
Nhã vì việc chẳng thể nghĩ bàn mà xuất hiện ở đời; Bát Nhã vì việc chẳng thể
xưng lường mà xuất hiện ở đời; Bát Nhã vì việc không có hạn lượng mà xuất hiện
ở đời, Bát Nhã vì việc không gì sánh bằng mà xuất hiện ở đời.
Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, lấy việc cứu độ khắp tất
cả hữu tình không ngưng nghỉ làm việc lớn nầy mà xuất hiện ở đời.
Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có bao Phật tánh, Như Lai
tánh, tự nhiên pháp tánh, Nhất thiết trí tánh đều là việc chẳng thể nghĩ bàn, chẳng
thể xưng lường, không có hạn lượng, không có gì sánh bằng mà xuất hiện trên
đời.
Chẳng phải chỉ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có bao Phật
tánh, Như Lai tánh, tự nhiên tánh, Nhất thiết trí tánh chẳng thể nghĩ bàn được, chẳng thể xưng lường được, không hạn lượng, không gì sánh
bằng mà Sắc cũng chẳng nghĩ bàn, chẳng xưng lường, không hạn lượng,
không gì sánh bằng. Thọ tưởng hành thức cũng chẳng nghĩ bàn được, chẳng xưng
lường được, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Mười hai xứ, mười tám giới, và
tất cả pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất
cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cũng chẳng thể nghĩ bàn,
chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Tất cả pháp cũng
chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng.
Ở trong chơn pháp tánh, tâm và tâm sở chẳng thể nắm bắt được.
Tánh sắc chẳng thể thi thiết(1), chẳng thể nghĩ bàn,
chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Tánh thọ tưởng hành
thức cũng chẳng thể thi thiết, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không
hạn lượng, không gì sánh bằng. Tánh mười hai xứ, tánh mười tám giới và tánh của
tất cả pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 18 pháp bất cộng,
Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cũng chẳng thể thi thiết, chẳng
thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng.
Duyên cớ gì mà nói tánh sắc chẳng thể thi thiết, chẳng thể
nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Tánh
thọ tưởng hành thức cũng chẳng thể thi thiết, chẳng thể nghĩ bàn, v.v...? Duyên
cớ gì mà nói tánh mười hai xứ, mười tám giới và tất cả pháp Phật cũng như thế?
Vì tánh của sắc, vì tánh của thọ tưởng hành thức, vì
tánh của tất cả pháp Phật chẳng thể thi thiết, nghĩ bàn, xưng lường, hạn lượng,
bình đẳng chẳng bình đẳng.
Duyên cớ gì mà nói tánh sắc, tánh thọ tưởng hành thức cũng
chẳng thể thi thiết, nghĩ bàn, xưng lường, hạn lượng, bình đẳng chẳng bình
đẳng? Duyên cớ gì mà nói tánh mười hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ định
v.v… nói chung là các pháp Phật chẳng thể thi thiết, nghĩ bàn, xưng lường, hạn
lượng, bình đẳng chẳng bình đẳng được?
Vì tự tánh sắc chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng
lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Vì không có tự tánh, nên
tánh sắc chẳng thể thi thiết, nghĩ bàn, xưng lường, hạn lượng, bình đẳng chẳng
bình đẳng. Tự tánh thọ tưởng hành thức cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng
lường, hạn lượng v.v... Vì không có tự tánh, nên tánh thọ tưởng hành thức chẳng
thể thi thiết, nghĩ bàn, hạn lượng v.v... Tự tánh mười hai xứ, mười tám giới và
tất cả pháp Phật chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, chẳng có hạn lượng
v.v... Vì không có tự tánh, nên tánh mười hai xứ, mười tám giới và tất cả pháp
chẳng thể thi thiết, nghĩ bàn, xưng lường v.v... cũng lại như thế.
Phật hỏi Tu Bồ đề:
- Này Thiện Hiện! Theo ý ông, trong cái chẳng thể nghĩ bàn,
chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của
sắc, sắc có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng
thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của thọ
tưởng hành thức, thọ tưởng hành thức có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng
thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng, không
có tự tánh của mười hai xứ, mười tám giới và tất cả pháp Phật từ tứ thiền, tứ
vô lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả
vị Giác ngộ tối cao thì tất cả pháp ấy có thể nắm bắt được chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!
Phật dạy: Thiện Hiện! Đúng vậy! Do nhân duyên này, nên nói
tất cả pháp đều chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng,
không gì sánh bằng.
Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp đều chẳng thể nghĩ bàn,
chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng nên Phật pháp, Như
Lai pháp, tự nhiên pháp, Nhất thiết trí pháp của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì
sánh bằng.
Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có bao Phật pháp, Như Lai
pháp, Tự nhiên pháp, Nhất thiết trí pháp đều chẳng thể nghĩ bàn, vì dứt nghị
luận. Chẳng thể xưng lường, vì dứt xưng lường. Không hạn lượng, vì dứt so lường. Không gì sánh bằng,
vì dứt so sánh hơn thua vậy. Do nhân duyên nầy nên nói tất cả pháp
cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh
bằng.
Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có bao Phật pháp, Như Lai
pháp, Tự nhiên pháp, Nhất thiết trí pháp đều chẳng thể nghĩ bàn, vì vượt quá
luận bàn vậy. Chẳng thể xưng lường, vì vượt quá xưng lường vậy. Không
hạn lượng, vì vượt quá hạn lượng vậy. Không gì sánh bằng, vì vượt quá so sánh
hơn thua vậy. Do nhân duyên nầy nên nói tất cả pháp cũng chẳng thể nghĩ bàn,
chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì so sánh được.
Chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng,
không gì sánh bằng là chỉ có trên phương diện ngôn thuyết. Tất cả đều giống
như hư không. Vì hư không chẳng thể so sánh, xưng tán được: Chẳng thể
nghĩ bàn là chẳng thể nghĩ bàn như hư không; chẳng thể xưng lường là chẳng thể
xưng lường như hư không; không hạn lượng là không có giới hạn như hư không;
không gì sánh bằng là không có gì có thể so sánh với hư không.
Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có bao Phật pháp, Như Lai
pháp, Tự nhiên pháp, Nhất thiết trí pháp; Thanh văn, Độc giác, thế gian, trời,
người, A tu la thảy đều chẳng thể nghĩ bàn, xưng lường, hạn lượng, so sánh. Do
nhân duyên nầy nên nói tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có bao Phật pháp, Như
Lai pháp, Tự nhiên pháp, Nhất thiết trí pháp đều chẳng thể nghĩ bàn, chẳng khá
xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng.
Khi đức Phật nói pháp chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng
lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng như thế, trong hội chúng có năm trăm
Bí sô chẳng còn các lậu hoặc(2), tâm được giải thoát; lại có hai ngàn Bí sô ni
cũng chẳng còn mắc các lậu hoặc, tâm được giải thoát; lại có sáu vạn nam cư sĩ,
đối với các pháp xa lìa trần cấu(3), phát sanh pháp nhãn thanh tịnh; lại có ba
vạn bảy ngàn nữ cư sĩ, đối với các pháp cũng lìa trần cấu, phát sanh pháp nhãn
thanh tịnh; lại có hai vạn đại Bồ tát chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn, được thọ ký
thành Phật ở trong Hiền kiếp.
Thích nghĩa:
(1). Thi thiết: 1- Phương pháp hoặc hệ thống được thiết
lập tạm thời, đồng nghĩa với an lập: Trình bày, đưa ra các pháp môn khác nhau,
như Kinh, Luận, Thiền và tham công án; 2- Giả định, giả lập; 3- Lập ra một điều
gì đó không có thực trong thực tế (s: prajñapti, prajñapta, upacāra, vijñapti).
(Từ điển Phật học Anh Hán Việt, C. Muller soạn - Thích Nhuận Châu Việt dịch).
Từ này cũng được giải thích rồi.
(2). Lậu hoặc: Lậu có nghĩa là thấm ra, nhỏ ra, rỉ
ra; Hoặc có nghĩa là mê mờ đối với chân lý. Lậu hoặc nói chung là những mê lầm, những phiền não phát
sanh từ hai loại: 1- Những mê lầm thuộc về lý gọi chung
là kiến hoặc như thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tà kiến
v.v…; 2- Những mê lầm về sự gọi chung là tư hoặc là những phiền
não ăn sâu gốc rễ từ vô thỉ như tham sân si…Những mê lầm đó như những thứ dơ
bẩn, bất tịnh rỉ ra từ cơ thể. Thích nghĩa rồi.
(3). Trần cấu: Trần là bụi, cấu là dơ bẩn. Trần cấu là những ô nhiễm ví như bụi trần làm ô uế thân tâm.
Lược
giải:
Tới đây, vì không thấy tướng của sắc, không thấy 12 xứ, 18
giới cho đến không thấy tất cả pháp Phật. Chỗ không thấy không phải là không
thấy gì, mà chỗ không thấy đưa đến tự nhiên trí, vô phân biệt trí, vô sanh trí,
vô ngại trí. Trí đó không biết mà không có gì chẳng biết, nó tịch mà chiếu,
chiếu mà tịch, thông hóa tất cả pháp như hư không, nên nói không thể nghĩ bàn.
Kinh bảo:
“Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có bao Phật pháp, Như Lai
pháp, Tự nhiên pháp, Nhất thiết trí pháp đều chẳng thể nghĩ bàn, vì vượt quá
luận bàn vậy. Chẳng thể xưng lường, vì vượt quá xưng lường vậy. Không hạn
lượng, vì vượt quá hạn lượng vậy. Không gì sánh bằng, vì vượt quá so sánh hơn
thua vậy. Do nhân duyên nầy nên nói tất cả pháp cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng
thể xưng lường, không hạn lượng, không gì so sánh được.
Chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng,
không gì sánh bằng là chỉ có trên phương diện ngôn thuyết. Tất cả đều giống
như hư không. Vì hư không chẳng thể so sánh, xưng tán được: Chẳng thể
nghĩ bàn là chẳng thể nghĩ bàn như hư không; chẳng thể xưng lường là chẳng thể
xưng lường như hư không; không hạn lượng là không có giới hạn như hư không;
không gì sánh bằng là không có gì có thể so sánh với hư không”.
Toàn bộ 600 quyển Đại Bát Nhã tuyên thuyết về Trí này. Nó
là Nhất thiết trí trí, là Bát Nhã Trí, trí rốt ráo viên mãn của chư Phật. Khi
Giác ngộ trở thành Chánh Đẳng Vô Thượng Bồ đề thì chư Phật thành tựu trí này. Trí nầy cũng gọi là “Tri
Kiến Phật”(1), là Phật, là Chơn như, Phật tánh, Như Lai tánh, tự nhiên pháp
tánh, Nhất thiết trí tánh. Vì cứu độ khắp tất cả hữu tình không ngừng nghỉ là
việc lớn mà chư Phật
xuất hiện ở đời. Kinh Pháp Hoa cũng nói: “Vì khai thị ngộ nhập Tri Kiến
Phật này là một sự nhân duyên lớn mà chư Phật hiện ra đời”.
Tất cả chúng sanh đều có trí này, nhưng bị vọng tình
nghiệt ngã, mê muội che mờ căn tánh nên không thể hiện được. Để chỉ bày cho
chúng sanh được ngộ nhập “tri kiến” này nên chư Phật mới xuất hiện thế gian. Vì
vậy, Bát Nhã Trí hay Tri Kiến Phật mới được coi là Ba la mật lớn, là Ba la mật thậm thâm, là Ba la mật
chẳng thể nghĩ bàn, là Ba la mật chẳng thể xưng lường, là Ba la mật không có
hạn lượng, là Ba la mật không gì sánh bằng. Ai tin cần tu học Bát nhã Ba la mật
và tất cả các thiện pháp thì được trí này. Nên có thể chóng thoát sanh tử,
chứng đắc Niết bàn hay mau được
quả vị Giác ngộ tối cao.
Phẩm “Biện Sự” tiếp theo sẽ giải thích thêm nhân duyên
cũng như sự thành tựu trí này.
Thích nghĩa cho phần lược giải này:
(1). “Tri Kiến Phật” từ khác của Bát Nhã Trí. Tùy theo
Kinh: Kinh Bát nhã Ba la mật thì gọi là Bát Nhã Trí, Nhất thiết trí trí; Kinh
Pháp Hoa thì gọi là Tri Kiến Phật; Kinh Lăng Nghiêm hay nhiều Kinh khác thì gọi
là Chân Tâm hay Phật tánh; Pháp Bảo Đàn Kinh gọi là Bản lai Diện mục… Tất cả
những từ đó đều như nhau. Đã là Phật, là Như Lai, là Bậc Chánh Đẳng giác thì
đều có trí tuệ siêu việt này.
---o0o---