PHẨM “XẢO TIỆN HÀNH”
Phẩm “Xảo Tiện
Hành”này nằm trong 2 quyển: 365 và 366, Hội thứ I, ĐBN.
(Tương đương với 2 phẩm: Phẩm “Bồ Tát Hạnh” và
phẩm “Chủng Thiện Căn”, Kinh MHBNBLMĐ)
Gợi
ý:
Nói rõ ra, phẩm “Xảo Tiện Hành” của Kinh ĐBN nằm trong hai
quyển: 1. Phần đầu quyển 365 cho tới phần đầu quyển 366, tương đương với phẩm
“Bồ Tát Hạnh” của Kinh MHBNBLMĐ và 2. Phần sau quyển 366, ĐBN lại tương đương
với phẩm “Chủng Thiện Căn” của Kinh MHBNBLMĐ. Để cho dễ chiết giải và dễ tụng
đọc chúng tôi cũng chia làm hai phần.
Tóm
lược:
(1. Thế nào là Bồ tát hạnh hay Bồ tát đạo?)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ tát hạnh?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Đại Bồ tát nên hành Bồ tát hạnh như thế nào? Đại Bồ Tát
phải đối sắc không hành Bồ tát hạnh, đối thọ tưởng hành thức không hành Bồ tát
hạnh. Đại Bồ Tát đối với mười hai xứ, mười tám giới không hành Bồ tát hạnh; đối
với mười hai nhân duyên, mười tám pháp Không, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô
sắc không hành Bồ tát hạnh; đại Bồ tát phải đối với tứ Thánh đế, ba mươi bảy
pháp trợ đạo, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác
ngộ tối cao không hành Bồ tát hạnh. Đại Bồ tát khi hành Bồ tát hạnh như
thế, đối với các pháp, chẳng khởi hai tướng.
Nếu đại Bồ tát khi hành Bát nhã Ba la mật như thế gọi là vì
quả vị Giác ngộ tối cao mà hành Bồ tát hạnh.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Phật đà(1)?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Như giác thật nghĩa, hiện giác thật pháp,
thông đạt thật tánh, năng như thật giác tướng tất cả pháp chỗ gọi vô tướng nên
gọi là Phật Đà. Đối tất cả pháp tự tướng, cộng tướng, hữu tướng, vô tướng,
tự nhiên khai giác nên gọi là Phật Đà. Đối pháp ba đời và pháp vô vi, tất cả
chủng tướng, chuyển thành trí vô chướng, nên gọi là Phật Đà. Như thật khai giác
cho tất cả hữu tình, khiến lìa các khổ điên đảo, các ác nghiệp, nên gọi là Phật
Đà(2).
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Vì nghĩa gì gọi là Bồ đề(3)?
Phật Bảo:
- Thiện Hiện: Chứng pháp không, nên gọi là Bồ đề. Chứng chơn
như, thật tế, pháp tánh, pháp giới nên gọi là Bồ đề. Giả lập danh tướng, phô
bày ngôn thuyết, có khả năng giác ngộ chơn thật pháp tối thượng thắng diệu, nên
gọi là Bồ đề. Chẳng thể phá hoại, chẳng thể phân biệt, nên gọi là Bồ đề. Biết
pháp như, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh không điên đảo của tất
cả pháp, nên gọi là Bồ đề. Bồ đề chỉ là giả danh chứ không phải thật tướng có
thể nắm bắt được, nên gọi là Bồ đề. Diệu giác chơn tịnh của chư Phật, nên gọi
là Bồ đề. Chư Phật do đó mà hiện giác tất cả tướng của các pháp, nên gọi là Bồ
đề.
Đại Bồ tát vì Bồ đề nên khi tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn,
tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, không ích - không tổn, không tăng - không giảm,
không sanh - không diệt, không nhiễm - không tịnh. Khi tu mười tám pháp không,
khi an trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế không
ích - không tổn, không tăng - không giảm, không sanh - không diệt, không nhiễm
- không tịnh. Đại Bồ tát vì Bồ đề nên khi hành ba mươi bảy pháp trợ đạo, tứ
thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho
đến quả vị Giác ngộ tối cao không ích - không tổn, không tăng - không giảm,
v.v... Vì sao?
Đại Bồ tát vì Bồ đề nên khi hành Bát nhã Ba la mật thậm
thâm, đối với tất cả pháp hoàn toàn không dùng sở duyên làm phương tiện, chẳng
vì ích - tổn, chẳng vì tăng - giảm, v.v… bất cứ lúc nào ở đâu (4).
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát không dùng sở duyên làm phương
tiện, thì tại sao đại Bồ tát khi hành Bát Nhã lại phải nhiếp thọ lục Ba la mật?
Tại sao đại Bồ tát lại phải nhiếp thọ mười tám pháp Không, tứ thiền, tứ vô
lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo… cho đến phải nhiếp thọ Nhất
thiết trí, Đạo tuớng trí, Nhất thiết
tướng trí? Nếu không nhiếp thọ các pháp, thì làm sao đại Bồ tát có thể vượt các
bậc Thanh văn và Độc giác vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh, tu hành chánh hạnh Bồ
tát thập địa, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật bảo:
- Thiện Hiện!
Đại Bồ tát khi hành Bát Nhã thậm thâm, chẳng vì hai (nhị pháp) nên nhiếp thọ bố thí Ba la mật; chẳng
vì hai nên nhiếp thọ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự; chẳng vì hai nên
nhiếp thọ mười tám pháp không, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc v.v… Đại
Bồ tát khi hành Bát Nhã, chẳng vì hai, nên vượt các bậc Thanh văn và Độc giác,
chẳng vì hai nên nhập Chánh tánh ly sanh; chẳng vì hai nên tu hành chánh hạnh
thập địa; chẳng vì hai nên chứng đắc quả Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Cụ thọ Thiện Hiện lại hỏi:
- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát khi hành Bát Nhã thậm thâm,
chẳng vì hai nên nhiếp thọ lục Ba la mật; chẳng vì hai nên nhiếp thọ tất cả
pháp Phật; cho đến chẳng vì hai mà chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì tại
sao đại Bồ tát từ khi mới phát tâm cho đến khi chứng quả, các thiện pháp có thể
tăng trưởng được?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Tất cả hàng phàm phu ngu si đều nương vào
nhị pháp nên các thiện pháp chẳng phát khởi được. Đại Bồ tát tu hành bất nhị,
nên từ khi mới phát tâm cho đến khi chứng quả, các thiện pháp mới có thể tăng
trưởng được.
(2. Chủng thiện căn.)
Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát vì căn lành nên hành Bát Nhã thậm
thâm chăng?
Phật bảo:
- Chẳng phải! Đại Bồ tát chẳng vì căn lành nên hành Bát nhã
Ba la mật, cũng chẳng phải chẳng vì căn lành nên hành Bát nhã Ba la mật. Vì
sao? Vì Bát Nhã như vậy, nếu muốn chứng đắc Nhất thiết trí trí, nhưng chưa
cung kính cúng dường chư Phật, chưa viên mãn thiện căn thù thắng, chưa được
chơn thiện hữu nhiếp thọ thì chẳng bao giờ chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa tiếp:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát nhờ cung kính cúng dường chư Phật,
được viên mãn căn lành thù thắng, được nhiều bạn lành nhiếp thọ mới năng được
Nhất thiết trí trí như thế chăng?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các đại Bồ tát từ khi mới phát tâm cung
kính cúng dường vô lượng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, từ chỗ chư Phật, nghe nói
mười hai bộ Kinh. Nghe rồi thọ trì; thọ trì xong, thân ngữ cung kính cúng
dường, chuyển đọc, ôn tập, khiến khéo thông lợi; đã thông lợi rồi, tâm khéo
quán sát; tâm khéo quán sát rồi, thấy rõ lý thú; thấy lý thú rồi lại khéo thông
đạt; đã thông đạt rồi, đắc tam muội, phát khởi sự hiểu biết thông suốt; phát
khởi sự hiểu biết thông suốt rồi, cho đến chứng đắc Nhất thiết trí trí, tùy chỗ
thọ sanh, đối với giáo nghĩa chánh pháp đã nghe, thọ trì, chẳng bao giờ quên
mất; ở chỗ chư Phật, gieo trồng vô lượng thiện căn; do các thiện căn đã nhiếp
thọ nên chẳng bao giờ sanh vào đường ác, chỗ bát nạn(5). Lại do thiện căn đã
nhiếp thọ nên ở trong tất cả thời, ý ưa thanh tịnh; ý ưa thanh tịnh nên thường
nghiêm tịnh sở cầu là cõi Phật, cũng thường thành thục sở hóa là hữu tình. Vì
vậy, đại Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm muốn mau chứng đắc Nhất
thiết trí trí, nên phải tinh cần cung kính cúng dường chư Phật, nhiếp thọ
viên mãn thiện căn thù thắng, thường cầu gần gũi chơn thiện tri thức, không hề chán mỏi. (Q.366, ĐBN)
Nếu đại Bồ tát chẳng cung kính cúng dường chư Phật, chẳng
viên mãn thiện căn thù thắng, chẳng được nhiều thiện hữu nhiếp thọ, thì chẳng
được gọi là đại Bồ tát, nói chi đến việc chứng đắc Nhất thiết trí trí hay quả
vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì các đại Bồ tát ấy đã xa lìa sức phương tiện
thiện xảo.
(3. Thế nào là phương tiện thiện xảo?)
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Những gì là phương tiện thiện xảo của
Bồ tát?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát từ sơ phát tâm, khi tu hành
bố thí Ba la mật, dùng tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí hoặc cúng
dường Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hoặc cúng dường Độc giác, hoặc cúng dường
Thanh văn, hoặc cúng dường các Sa môn, Bà la môn khác, hoặc bố thí người ngoại
đạo tu hành phạm hạnh, hoặc bố thí kẻ bần cùng v.v… Đại Bồ tát ấy tuy hành bố
thí nhưng không tưởng nghĩ việc bố thí, không tưởng nghĩ người nhận, không
tưởng nghĩ người cho, cũng không tưởng nghĩ tất cả ngã, ngã sở. Vì sao? Vì
đại Bồ tát ấy quán tự tướng của tất cả pháp đều không, vô khởi vô thành, vô
chuyển vô diệt, vào tướng các pháp; biết tất cả pháp vô tác vô năng, vào
tướng các hành. Đại Bồ tát ấy thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, luôn
luôn tăng trưởng thiện căn thù thắng. Do thiện căn thù thắng, nên có thể hành
bố thí, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật; chẳng mong cầu được quả bố
thí, nghĩa là chẳng tham trước cảnh giới khả ái do việc bố thí mà được, cũng
chẳng tham cầu quả báo tốt đẹp trong sanh tử do bố thí mà được, chỉ vì cứu hộ
người không ai cứu hộ và muốn giải thoát cho người chưa giải thoát.
- Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào từ lúc mới phát
tâm tu hành tịnh giới Ba la mật, dùng tác ý tương ưng Nhất thiết
trí trí mà thọ trì tịnh giới, thì tâm ý chẳng bị tham dục che lấp, cũng lại
chẳng bị sân nhuế che lấp, chẳng bị ngu si che lấp, chẳng bị tùy phiền não(6),
các triền phược và các pháp ác bất thiện làm chướng đạo Bồ đề, đó là xan lẫn ác
hoặc, phẫn nhuế, giải đãi, liệt tâm, loạn tâm, ác tuệ, các mạn, quá mạn, mạn
quá mạn, ngã mạn, tăng thượng mạn, ty mạn, tà mạn; cũng thường chẳng khởi tác ý
tương ưng Thanh văn, Độc giác. Vì sao? Vì đại Bồ tát ấy quán tự tướng của tất
cả pháp đều không, vô khởi vô thành, vô chuyển vô diệt, vào tướng các pháp;
biết tất cả pháp vô tác vô năng, vào tướng các hành. Đại Bồ tát ấy thành tựu
phương tiện thiện xảo như vậy, nên luôn luôn tăng trưởng thiện căn thù thắng;
do thiện căn tăng trưởng, nên có thể hành tịnh giới, thành thục hữu tình,
nghiêm tịnh cõi Phật. Tuy hành tịnh giới, mà chẳng mong cầu đắc quả tịnh giới,
đó là chẳng tham trước cảnh giới khả ái do giữ giới mà được, cũng chẳng tham
cầu quả báo tốt đẹp trong sanh tử do giữ giới mà được, chỉ vì cứu hộ người
không ai cứu hộ và muốn giải thoát người chưa giải thoát.
- Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào từ lúc mới phát
tâm tu hành an nhẫn Ba la mật, dùng tác ý tương ưng Nhất thiết
trí trí mà tu học an nhẫn thì đại Bồ tát ấy thậm chí vì bảo vệ sự sống của mình
cũng chẳng phát khởi một niệm sân nhuế, chẳng phát lời nói thô ác và khởi tâm
oán hận báo thù. Giả sử có người đến muốn giết hại thân mạng, cướp đoạt tài
sản, xâm phạm thê thiếp, láo khoét dối trá, ly gián thân hữu, nhục mạ thô tục,
giễu cợt bôi nhọ, hoặc chà đạp hoặc đánh đập, hoặc cắt hoặc chặt... thì đại Bồ
tát ấy đối với ác nhân kia hoàn toàn không phẫn hận. Vì sao? Vì Đại Bồ tát ấy
quán tất cả pháp, tự tướng đều không, vô khởi vô thành, vô chuyển vô diệt, vào
tướng các pháp; biết tất cả pháp vô tác vô năng, vào tướng các hành. Đại Bồ tát
ấy thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, luôn luôn tăng trưởng thiện căn thù
thắng; do thiện căn thù thắng thường tăng trưởng, nên có thể hành an nhẫn,
thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Tuy hành an nhẫn, nhưng chẳng mong
cầu đắc quả nhẫn, đó là chẳng tham trước cảnh giới khả ái do nhẫn mà được, cũng
chẳng tham cầu quả báo tốt đẹp trong sanh tử do nhẫn mà được, chỉ vì cứu hộ
những kẻ không người cứu hộ và muốn giải thoát những người chưa giải thoát mà
tu hành an nhẫn.
- Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào từ lúc mới phát
tâm tu hành tinh tấn Ba la mật, dùng tác ý tương ưng Nhất thiết
trí trí phát khởi chánh cần, mang giáp kiên cố, dõng mãnh không khiếp nhược, xa
lìa tâm giải đãi biếng lười. Đại Bồ tát ấy vì cầu quả vị Giác ngộ tối cao chẳng
sợ các khổ, đối với cái khổ của người, khổ của A tu la, quỷ giới, khổ của bàng sanh, địa ngục và các
khổ khác đều chẳng khiếp sợ, cũng thường phương tiện ngăn chận chế phục, siêng
tu thiện pháp, thường không lười bỏ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ tát ấy
quán tất cả pháp, tự tướng đều không, vô khởi vô thành, vô chuyển vô diệt, vào
tướng các pháp; biết tất cả pháp vô tác vô năng, vào tướng các hành. Đại Bồ tát
ấy thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, luôn luôn tăng trưởng thiện căn thù
thắng; do thiện căn thù thắng thường tăng trưởng, nên có thể hành tinh tấn,
thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Tuy hành tinh tấn, nhưng chẳng mong
cầu đắc quả của sự tinh cần, đó là chẳng tham trước các cảnh giới khả ái do
tinh cần mà được, cũng chẳng tham cầu quả báo tốt đẹp trong sanh tử do tinh cần
mà được, chỉ vì cứu hộ những kẻ không được cứu hộ và muốn giải thoát những
người chưa giải thoát mà tu hành tinh tấn Ba la mật.
- Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào từ lúc mới phát
tâm tu hành tịnh lự Ba la mật, dùng tác ý tương ưng Nhất thiết
trí trí tu học các định, thì đại Bồ tát ấy mắt thấy sắc rồi, chẳng thủ các
tướng, chẳng thủ vẻ đẹp của nó, tức là ngay khi ấy phòng hộ nhãn căn, chẳng dám
phóng dật, chớ để tâm khởi lên tham ái pháp dục ác bất thiện, các lậu phiền não
thế gian nổi lên mà nhiếp tâm định niệm, thủ hộ nhãn căn; đại Bồ tát ấy cũng phòng
hộ nhĩ căn khi nghe tiếng rồi, chẳng thủ các tướng, chẳng thủ sự êm ái của
chúng; đại Bồ tát ấy cũng phòng hộ tỷ căn khi mũi ngửi hương rồi, chẳng thủ các
tướng, chẳng thủ hương; đại Bồ tát ấy cũng phòng hộ thiệt căn khi lưỡi nếm vị
rồi, chẳng thủ các tướng, chẳng thủ các vị đã nếm; đại Bồ tát ấy cũng phòng hộ
thân căn khi thân xúc chạm rồi, chẳng thủ các tướng, chẳng thủ sự dễ chịu do
xúc chạm; đại Bồ tát ấy cũng phòng hộ ý căn khi ý phân biệt pháp rồi, chẳng thủ
các tướng, chẳng thủ sự quyến rũ do phân biệt khách trần; đại Bồ tát ấy, hoặc
đi, đứng, nằm, ngồi, hoặc nói, hoặc nín, thường chẳng xa lìa chỉ, quán. Đại Bồ
tát ấy tay chân, đều chẳng hung dữ; lời nói chẳng thô bạo, lẫn lộn; mắt và các
căn chẳng nhiễu loạn, lay động; thân tĩnh lặng, tâm tĩnh lặng, oai nghi không
khác. Đối với thức ăn uống, y phục, đồ nằm, thuốc thang trị bệnh và các vật
dụng khác đều biết đủ, dễ thỏa mãn, dễ cúng dường, dễ phụng sự. Khuôn pháp tu
hành điều hòa khéo léo, tuy ở chỗ ồn ào nhưng hành hạnh viễn ly; đối xử bình
đẳng chẳng cao, chẳng thấp; chẳng oán, chẳng thân, chẳng thiện, chẳng ác, chẳng
ghét, chẳng thương; đối với sắc khả ái, sắc chẳng khả ái, đối với các việc tùy
thuận, trái nghịch, hoàn toàn không phân biệt, tâm thường an định v.v… Vì sao?
Vì đại Bồ tát ấy quán tất cả pháp tự tướng đều không, vô khởi vô thành, vô
chuyển vô diệt, vào tướng các pháp; biết tất cả pháp vô tác vô năng, vào tướng
các hành. Đại Bồ tát ấy thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, luôn luôn tăng
trưởng thiện căn thù thắng; do thiện căn thù thắng thường tăng trưởng, nên hành
tịnh lự, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, tuy hành tịnh lự, nhưng
chẳng mong cầu đắc quả định, nghĩa là chẳng tham trước các cảnh giới khả ái do
định mà được, cũng chẳng tham cầu quả báo tốt đẹp trong sanh tử do tịnh lự mà
được, chỉ vì cứu hộ kẻ không ai cứu hộ và muốn giải thoát người chưa giải thoát
mà tu hành tịnh lự Ba la mật.
- Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào từ lúc mới phát
tâm tu hành Bát nhã Ba la mật, dùng tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí
mà tu học Bát Nhã thì đại Bồ tát ấy không có các ác tuệ, thế lực khác chẳng có
thể dẫn dắt; đại Bồ tát ấy xa lìa tất cả chấp ngã và ngã sở, xa lìa tất cả kiến
chấp, hữu tình kiến, mạng giả kiến, sanh giả kiến, dưỡng giả kiến, sĩ phu kiến,
bổ đặc già la kiến, ý sanh kiến, nho đồng kiến, tác giả kiến, thọ giả kiến, tri
giả kiến (người biết), kiến giả kiến (người thấy); xa lìa tất cả
hữu vô kiến, các ác kiến thú; xa lìa kiêu mạn, không phân biệt mà tu diệu huệ.
Vì sao? Vì đại Bồ tát ấy quán tất cả pháp tự tướng đều không, vô khởi vô thành,
vô chuyển vô diệt, vào tướng các pháp; biết tất cả pháp vô tác vô năng, vào
tướng các hành. Tuy hành Bát Nhã, nhưng chẳng mong cầu đắc quả của tuệ, nghĩa
là chẳng tham trước cảnh giới khả ái do tuệ mà được, cũng chẳng tham cầu quả
báo tốt đẹp trong sanh tử do tuệ mà được, chỉ vì cứu hộ kẻ không ai cứu hộ và
muốn giải thoát người chưa giải thoát, mà tu hành diệu huệ Ba la mật. (Q.366, ĐBN)
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát
khi tu hành Bát nhã Ba la mật, dùng tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, dù được
tự tại thuận nghịch vào ra tám định giải thoát, cũng được tự tại thuận nghịch
vào ra tám định thắng xứ, cũng được tự tại thuận nghịch vào ra chín định thứ
lớp, cũng được tự tại thuận nghịch vào ra mười định biến xứ, cũng năng tu tập
quán bốn Thánh đế. Tự tại vào ra Tam ma địa môn, Đà la ni môn, ba giải thoát
môn, mà năng trọn nên phương tiện khéo léo chẳng lấy quả Dự lưu, cũng chẳng lấy
quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Vì sao? Thiện Hiện! Đại Bồ
tát này quán tự tướng tất cả pháp đều không, vô khởi vô thành, vô chuyển vô
diệt, vào tướng các pháp; biết tất cả pháp vô tác vô năng, vào tướng các hành.
Đại Bồ tát này trọn nên phương tiện khéo léo như thế, hằng thời tăng trưởng căn
lành thù thắng. Do căn lành tăng trưởng thù thắng nên năng hành tám định giải
thoát, tám định thắng xứ, chín định thứ lớp, mười định biến xứ; quán bốn Thánh
đế, Tam ma địa môn, Đà la ni môn, ba giải thoát môn. Dù năng hành tám định giải
thoát cho đến ba giải thoát môn mà vượt Thanh văn và bậc Độc giác chứng vào
ngôi Bồ tát Bất thối chuyển. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát có tên là Bồ tát Vô sanh
pháp thọ ký nhẫn.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát
khi tu hành Bát nhã Ba la mật dùng tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí học Phật
mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng, đại từ,
đại bi, đại hỷ, đại xả, pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả, Nhất thiết trí,
Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, năm nhãn, sáu thần thông cho đến chưa đủ
thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, và chưa chứng được Nhất thiết trí
trí. Vì sao? Thiện Hiện! Đại Bồ tát này quán tự tướng tất cả pháp đều không, vô
khởi vô thành, vô chuyển vô diệt, vào tướng các pháp; biết tất cả pháp vô tác
vô năng, vào tướng các hành. Đại Bồ tát này trọn nên phương tiện khéo léo như
thế, hằng thời tăng trưởng căn lành thù thắng. Do căn lành tăng trưởng thù
thắng nên năng hành Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám
pháp Phật bất cộng, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, pháp vô vong thất, tánh
hằng trụ xả, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, năm nhãn, sáu
thần thông. Do năng hành Phật mười lực cho đến sáu thần thông, nên mới năng
viên mãn thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, lần lữa chứng được Nhất
thiết trí trí.
Thiện Hiện! Như vậy, gọi là phương
tiện thiện xảo. Nếu đại Bồ tát trọn nên phương tiện thiện xảo như thế, làm điều
gì cũng quyết định đưa đến chứng đắc Nhất thiết trí trí. Thiện Hiện! Phương
tiện thiện xảo như thế, đều do Bát nhã Ba la mật mà được trọn nên. Vậy nên,
Thiện Hiện! Các đại Bồ tát nên hành Bát Nhã thẩm sâu, làm điều gì cũng chẳng
mong cầu phước báo.
Lưu ý:
Vì là tóm lược, nên tất cả sự
kiện kể cả giáo lý đều được giản lược như công việc của Ngài La Thập khi tóm
dịch Kinh MHBNBLMĐ. Trong phẩm này tất cả đối thoại giữa Phật và Thiện Hiện
cũng không ngoài thông lệ đó, nghĩa là cũng được giản lược, cắt xén những trùng
tuyên. Vả lại, có ai dám đoan quyết các cuộc đối thoại đó là “nguyên chất”? Ai
cũng biết rằng những lời Phật dạy, Phật không cho phép ghi chép bằng bút mực
khi Phật còn tại thế cho mãi đến kỳ kết tập Kinh điển lần thứ ba, nghĩa là hơn
200 năm sau khi Phật nhập diệt (khoảng 218 năm sau khi Phật nhập Niết
bàn, tức năm 325 trước Tây lịch), các nhà trùng tu
Kinh điển mới dùng văn tự ghi chép lại lời Phật dạy. Vậy, có ai có thể
đoan quyết là những cuộc đối thoại giữa Phật và các đệ tử lúc Phật còn tại thế
cho đến khi được ghi lại thành văn tự (cách nhau hơn hai thế kỷ) chính xác y
như đã xảy ra trong thực tế hay không?
Đặt nghi vấn như vậy không có nghĩa là khi tóm tắt Kinh điển,
muốn “chế biến” như thế nào cũng được. Trước khi cắt xén nhất nhất phải tham
khảo, so chiếu, suy lường. Chỉ trật một đường tơ, đất trời nghiêng lệch, tội
lỗi không thể nào lường trước được! Muốn xác tín hơn, xin quý vị có thể so
chiếu với các bản dịch chính hiện có trên thị trường hay trên các trang mạng mà
chúng tôi đã liệt kê trước đây. Điều lo ngại nhất của chúng tôi kể từ khi mới
bắt đầu làm công việc chiết giải Kinh ĐBN này là chỉ sợ rằng độc giả đọc tụng
nữa chừng thiên Tổng luận rồi bỏ ngang với lý do thiên Tổng luận này đã chế
biến, không còn nguyên chất, nên có thể sai lạc ý Kinh. Cứ đọc nguyên văn các
bản dịch ĐBN trên thị trường và so sánh với bản tóm lược Đại Bát Nhã Ba La Mật
Tổng luận Quý vị sẽ thấy lưu ý này của chúng tôi.
Thích nghĩa:
(1). Danh từ Phật Đà thì nương vào người xưng danh mà nói.
(2). Xem lại thích nghĩa ở mục 31, nói về “Tu hành quả vị Giác
ngộ tối cao của chư Phật”, phần thứ I Tổng luận.
(3). Danh từ Bồ Đề là nương vào pháp mà nói.
(4).“Bất cứ lúc nào ở đâu” diễn dịch cụm từ “Bây giờ và ở
đây” (here-now, ici e maintenant, hinc-nunc) dịch là đương xứ. Trúc
Thiên, dịch giả quyển “Cốt Tủy Đạo Phật” của Thiền sư D.T. Suzuki chú giải: Đương
chỉ về thời gian: Bây giờ; Xứ chỉ về không gian; Ở đây: Đây là điểm
tuyệt đối dung thông cả thời gian và không gian, thường gọi là giây phút vĩnh
cửu mà Thiền thường gọi là sát na tam muội. Khi Thiền nói “nhất niệm vạn niên,
vạn niên nhất niệm” là chỉ vào cảnh giới tâm chứng ấy.
Thay vì dịch “bây giờ và ở đây” có tánh bác học, chúng ta
có thể dịch “bất cứ lúc nào ở đâu” có lẽ dễ hiểu hơn. Cả hai cụm từ trên đều có
cùng một ý là chẳng “chuyển”, chẳng “hằng”; trong lưu chuyển mà thường hằng,
trong thường hằng mà lưu chuyển; thời gian tức không gian, không gian tức thời
gian, các tướng đồng đẳng, không phân biệt.
(5). Bát nạn: 1- Địa ngục; 2- Súc sinh; 3- Ngạ quỷ; 4-
Trường thọ thiên: Thọ mệnh cao cũng là những chướng ngại làm cho chúng sanh
quên những nỗi khổ của sinh lão bệnh tử trong Luân hồi mà không chịu tu hành;
5- Biên địa là những vùng xa xôi, không thuận tiện cho việc tu học chánh pháp;
6- Căn khuyết tật: Như đui, mù, câm điếc, ngọng nghịu; 7- Tà kiến: Những kiến
chấp sai lệch; 8- Như Lai bất xuất sinh: Nghĩa là sinh sống trong thời gian
không có Phật xuất hiện. Đó là tám chướng ngại cho việc tu học để được giải
thoát nên gọi là bát nạn. (Đã thích nghĩa rồi, đây chỉ lập lại để nhớ thôi).
(6). Tùy phiền não: Trước hết phải xác nhận rằng phiền não
tạo vô minh, nên nói nó là chướng ngại đạo Bồ đề. Có phiền não là không có giải
thoát, hay nói ngược lại. Vì vậy, trong Kinh văn thường nói đến chướng ngại này
và gọi là phiền não chướng. Duy thức học chia phiền não làm hai loại chính: 1-
Căn bản phiền não, vì nó là cội gốc sanh ra các phiền não khác, nên gọi là căn
bản phiền não, gồm: Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến; 2- Tùy phiền não, còn
gọi là chi mạc phiền não do 6 món phiền não căn bản sanh ra. Phạm vi tương ưng
của nó rộng hẹp không đồng, nên người ta lại chia làm ba loại: 1/. Tiểu tùy
gồm: Phẫn (giận), hận (hờn), phú (che giấu), não (buồn buồn), tật (ganh ghét),
san (bỏn sẻn), cuống (dối trá), siểm (bợ đỡ, nịnh hót), hại (tổn hại), kiêu (
kiêu căng); 2/. Trung tùy: Vô tàm (tự mình không biết xấu hổ), vô quí (không
biết thẹn với người khác hay trơ trẻn); 3/. Đại tùy gồm: Trạo cử (lao chao),
hôn trầm (mờ tối), bất tín (không tin), giải đãi (biếng nhác), phóng dật (buông
thả), thất niệm (mất chánh niệm), tán loạn (rối loạn), bất chánh tri (biết
không chân chánh). (Xem “Duy Thức Học”, HT. Thích Thiện Hoa, nhà xuất bản Tôn
Giáo).
Lược
giải:
1. Bồ
tát hạnh hay Bồ tát đạo:
- Thế nào là Bồ tát hạnh?
Người phát Bồ đề tâm, tu hành lục độ vạn hạnh, cầu Vô
Thượng Giác Ngộ để hóa độ chúng sanh thì gọi là hành Bồ Tát hạnh.
Đại Bồ tát nên hành Bồ tát hạnh như thế nào? Nghĩa là đối
sắc không hành Bồ tát hạnh, phải đối thọ tưởng hành thức không hành Bồ tát
hạnh. Đại Bồ Tát đối với 12 xứ, 18 giới không hành Bồ tát hạnh; đối với 12 nhân
duyên, 18 pháp không, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ vô sắc định không hành Bồ tát
hạnh; đại Bồ tát phải đối với tứ Thánh đế, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng,
Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao không hành Bồ tát hạnh. Đại Bồ
tát khi hành Bồ tát hạnh như thế, đối với các pháp, chẳng khởi hai tướng.
Nếu đại Bồ tát khi hành Bát nhã Ba la mật như thế gọi là
vì quả vị Giác ngộ tối cao mà hành Bồ tát hạnh.
- Thế nào là Phật đà?
Như giác thật nghĩa, hiện giác thật pháp, thông đạt thật
tánh, năng như thật giác tướng tất cả pháp chỗ gọi vô tướng nên gọi là Phật Đà.
Đối tất cả pháp tự tướng, cộng tướng, hữu tướng, vô tướng, tự nhiên khai giác
nên gọi là Phật Đà. Đối pháp ba đời và pháp vô vi, tất cả chủng tướng, chuyển
thành trí vô chướng, nên gọi là Phật Đà. Như thật khai giác cho tất cả hữu
tình, khiến lìa các khổ điên đảo ác nghiệp, nên gọi là Phật Đà.
- Vì nghĩa gì gọi là Bồ đề?
Chứng nghĩa pháp không nên gọi là Bồ đề. Chứng nghĩa chơn
như, pháp tánh, pháp giới, thật tế… nên gọi là Bồ đề. Giả lập danh tướng, phô
bày ngôn thuyết, có khả năng giác ngộ chơn thật pháp tối thượng, nên gọi là Bồ
đề. Diệu giác chơn tịnh của chư Phật, cũng gọi là Bồ đề. Chư Phật do đó mà hiện
giác tất cả tướng của các pháp, nên gọi là Bồ đề.
Đại Bồ tát vì Bồ đề nên khi tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn,
tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, không ích-không tổn, không tăng-không giảm,
không sanh-không diệt, không nhiễm-không tịnh. Khi tu 18 pháp không, khi an
trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế không
ích-không tổn, không tăng-không giảm, v.v... Đại Bồ tát vì Bồ đề nên khi hành
37 pháp trợ đạo, tứ thiền, tứ định, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến
quả vị Giác ngộ tối cao cũng lại như thế. Vì sao? Đại Bồ tát vì Bồ đề nên khi hành Bát nhã Ba la
mật sâu xa, đối với tất cả pháp hoàn toàn không dùng sở duyên làm phương
tiện, chẳng vì ích tổn, chẳng vì tăng giảm, chẳng vì sanh diệt,
chẳng vì nhiễm tịnh bất cứ lúc nào và ở đâu.
Nếu đại Bồ tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, chẳng
vì nhị pháp nên nhiếp thọ lục Ba la mật; chẳng vì nhị pháp nên nhiếp thọ tất cả
pháp Phật; cho đến chẳng vì nhị pháp mà chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Tất cả hàng phàm phu ngu si đều dựa vào nhị pháp nên các thiện pháp chẳng phát
sinh. Đại Bồ tát tu hành không hai (bất nhị), nên từ khi mới phát tâm cho đến
khi chứng quả, các thiện pháp mới có thể tăng trưởng được.
Những gì là nhị pháp? Đó là pháp thế gian, tức thế đế,
pháp tương đối của cảm quan và ý thức, các pháp đối đãi sinh diệt, cao hạ, tốt
xấu v.v... Một khi đã chấp vào nhị pháp thì sẽ không thấy thật tánh của các
pháp. Bất nhị là pháp vượt trên đối đãi, xa lìa tánh tướng, nhiễm tịnh, thiện
ác v.v… Đó là pháp xuất thế gian, là đệ nhất nghĩa đế, là tuyệt đối, là đạo.
Nếu gạt bỏ phân biệt, chấp trước thì tâm thể vắng lặng mới dễ tu dễ chứng. Các
thiện pháp vì thế dễ phát sinh, tăng trưởng được.
Chẳng phải vì căn lành, cũng chẳng phải chẳng vì căn lành
mà đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật. Tại sao? Vì các đại Bồ Tát chưa cúng
dường chư Phật, chưa đầy đủ căn lành, chưa được thiện tri thức nhiếp thọ, thì
chẳng có thể được Nhất thiết trí trí.
2.
Chủng thiện căn:
Các đại Bồ tát từ khi mới phát tâm cung kính cúng dường vô
lượng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, từ chỗ chư Phật, lắng nghe 12 bộ Kinh. Nghe
rồi thọ trì; thân tâm khéo quán sát; thấy rõ lý thú rồi tu tập nên mới đắc các
tam muội, phát khởi sự hiểu biết thông suốt; cho đến chứng đắc Nhất thiết trí
trí, tùy chỗ thọ sanh, đối với giáo nghĩa chánh pháp đã nghe, thọ trì, chẳng
bao giờ quên mất; ở chỗ chư Phật, gieo trồng vô lượng thiện căn; do các thiện
căn đã nhiếp thọ nên chẳng bao giờ sanh vào đường ác, chỗ bát nạn. Lại do thiện
căn đã nhiếp thọ nên ở trong tất cả thời, ý ưa thanh tịnh; ý ưa thanh tịnh nên
thường nghiêm tịnh sở cầu là cõi Phật, cũng thường thành thục sở hóa là hữu
tình. Vì vậy, đại Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm muốn mau chứng đắc
Nhất thiết trí trí, nên tinh cần cung kính cúng dường chư Phật, nhiếp thọ viên
mãn thiện căn thù thắng, thường cầu gần gũi chơn thiện tri thức, không hề chán
mỏi.
Nếu đại Bồ tát chẳng cung kính cúng dường chư Phật, chẳng
viên mãn thiện căn thù thắng, chẳng được thiện hữu nhiếp thọ, thì chẳng được
gọi là đại Bồ tát, nói chi đến việc chứng đắc Nhất thiết trí trí hay quả vị Giác
ngộ tối cao. Vì sao? Vì các đại Bồ tát ấy đã xa lìa sức phương tiện thiện xảo.
3.
Những gì là phương tiện thiện xảo của Bồ tát?
- Bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, thiền định và Bát
nhã Ba la mật là phương tiện thiện xảo của Đại Bồ tát.
Đại Bồ tát ấy từ khi mới phát tâm, tác ý tương ưng Nhất
thiết trí trí lấy lục Ba la mật làm phương tiện mà hành bố thí nhưng
không tưởng nghĩ việc bố thí, không tưởng nghĩ người nhận, không tưởng nghĩ
người cho, cũng không tưởng nghĩ tất cả ngã, ngã sở. Đại Bồ tát thọ trì tịnh
giới nhưng tâm ý chẳng bị tham dục, sân nhuế, ngu si che lấp, chẳng bị
phiền não, các triền phược và các pháp ác bất thiện làm chướng ngại đạo Bồ đề.
Khi tu học an nhẫn thì đại Bồ tát ấy chẳng vì bảo vệ sự sống của mình mà
phát khởi một niệm sân nhuế, không nói lời thô ác và tâm không oán hận báo thù;
giả sử có người đến muốn giết hại thân mạng, cướp đoạt tài sản, lừa dối, nhục
mạ, giễu cợt bôi nhọ… đại Bồ tát ấy đối với ác nhân kia hoàn toàn không phẫn
hận. Đại Bồ tát khi tu tinh tấn, phát khởi chánh cần, mang giáp bị dõng
mãnh, xa lìa tâm giải đãi biếng lười, tự mình chẳng sợ các khổ, cũng thường
ngăn chặn, chế phục các khổ của người khác, siêng tu thiện pháp, thường không
lười bỏ. Các đại Bồ tát khi tu các định, chẳng buông lung phóng dật,
sống trong chánh định, phòng hộ lục căn chẳng để nhiễu loạn, lay động; đối xử
bình đẳng chẳng cao, chẳng thấp, chẳng oán, chẳng thân, chẳng thiện, chẳng ác,
chẳng ghét, chẳng thương; đối với sắc khả ái, sắc chẳng khả ái, đối với các
việc tùy thuận hay trái nghịch, hoàn toàn không phân biệt, tâm thường an định
v.v…Đại Bồ tát ấy khi tu Bát Nhã xa lìa chấp ngã và ngã sở, xa lìa các
kiến chấp, kiến thủ,
kiêu mạn, không phân biệt mà tu diệu huệ.
Vì sao? vì các đại Bồ tát ấy quán tất cả pháp tự tướng đều
không, không khởi, không thành, không chuyển, không diệt, nhập các pháp tướng;
biết tất cả pháp vô tác, vô năng, nhập các hành tướng. Đại Bồ tát ấy thành tựu
phương tiện thiện xảo như thế, luôn luôn tăng trưởng thiện căn thù thắng; do
thiện căn thù thắng thường tăng trưởng, nên có thể hành lục Ba la mật, thành
thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Tuy hành bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh
tấn, thiền định hay trí tuệ mà chẳng tham trước cảnh giới khả ái tốt đẹp hay
Niết bàn, chỉ vì cứu hộ kẻ không ai cứu hộ và muốn giải thoát người chưa giải
thoát mà tu hành các phương tiện thiện xảo trên.
Tu bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn và thiền định là tu
phước; tu Bát Nhã là tu huệ. Lấy thiện căn công đức mà tu là tu
phước; lấy trí tuệ hướng dẫn để tu là tu huệ, nên gọi là phước huệ song tu. Tất
cả pháp trong sáu Ba la mật đều nhiếp dẫn nhau: Khi khởi tu một pháp thì các
pháp đồng khởi như một động cơ. Sự yếu kém hay thiếu sót một bộ phận trong động
cơ ấy thì động cơ trở nên yếu kém hoặc không thể hoạt động được.
Các pháp đồng khởi tương ưng tương nhiếp nhau mới làm cho
thuyền Bát Nhã thêm vững mạnh để đưa mình, người sang bờ giải thoát bên kia. Nhưng chủ yếu vẫn phải tích tụ thiện căn công
đức, hồi hướng Nhất thiết trí trí mới có cơ hội chứng quả.
Lưu ý: Các
tư tưởng trong phẩm này cũng đã từng được Đại Bát Nhã đề cập trong các phẩm
trước. Ở đây, chỉ lược tóm hơn là giảng luận!
---o0o---