Nguồn: https://quangduc.com/
PHẨM “KHÓ TIN HIỂU”
Bắt đầu quyển 182 đến hết quyển 284,
Hội thứ I, ĐBN.
(Tương đương với phần sau quyển thứ
13, phẩm “Tín Hủy”, MHBNBLMĐ)
Gợi ý:
Phẩm “Khó Tin Hiểu” là một phẩm dài
nhất trong Kinh Đại Bát Nhã. Phẩm này kéo dài từ quyển 182 đến quyển 284, tổng
cộng 103 quyển, thuyết minh sự liên hệ giữa con người và vạn hữu trong mối
tương quan nhân quả do cảm quan và thức vọng gây nên. Vì vậy, mở đầu phẩm này
Phật thuyết về các pháp không buộc không mở để dẫn đến ý niệm: “Nếu tâm không
bị ràng buộc, không vướng mắc thì sẽ được thanh tịnh”.
Phẩm này lấy một pháp trong 81 khoa
danh tướng Bát Nhã (Kinh ĐBN gọi 81 khoa danh tướng Bát Nhã là tất cả pháp
Phật, các pháp mầu Phật đạo, các thiện pháp, các pháp hy hữu, tư lương Bồ đề Bồ
tát, v.v…) để thuyết một pháp, lần lượt cho đến hết 81 khoa danh tướng Bát Nhã
như phẩm “So Lường Công Đức” trước đây. Tám mươi mốt khoa này được nhắc không
những trong phẩm này, mà hầu như được nhắc đi nhắc lại trong toàn bộ 600 quyển
thuộc Kinh ĐBN. Vì 81 khoa này bao gồm nhân sinh và vũ trụ cùng với tất cả pháp
môn tu học thế gian và xuất thế gian, nên chúng tôi tách ra thành một phần
riêng gọi là phần thứ I, một trong ba phần chính của thiên Tổng luận này. Tám
mươi mốt khoa danh tướng Bát Nhã được chép trong Đại Tạng Nhất Lãm Tập quyển 3.
Đó là: Năm uẩn, sáu căn, sáu trần, sáu thức, sáu xúc (hợp lại thành 5 uẩn,12
xứ,18 giới), sáu duyên sở sinh, bốn duyên, sáu đại, mười hai nhân duyên, sáu độ
(lục độ Ba la mật), ngã giả, sinh giả, thọ giả, mệnh giả, hữu tình giả, dưỡng
dục giả, chúng số giả, tác giả, sử tác giả, khởi giả, sử khởi giả, thọ giả, sử
thọ giả, kiến giả, tri giả, hai mươi pháp không (ở đây liệt kê 20 pháp không,
chứ không phải là 18 pháp không như chúng ta đã tụng qua), bốn đế, chân như,
pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dịch tánh, bình đẳng tánh, ly
sinh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghị giới, bốn
tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định
thứ đệ, mười biến xứ, bốn niệm xứ, bốn chính cần, bốn thần túc, năm căn, năm
lực, bảy chi giác, tám chi Thánh đạo, không giải thoát môn, vô tướng giải thoát
môn, vô nguyện giải thoát môn, Bồ tát thập địa, năm nhãn, sáu thông, mười lực,
bốn vô úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả, mười tám pháp Phật
bất cộng, pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí,
Nhất thiết chủng trí, Đà la ni môn, Tam ma địa môn, Dự lưu quả, Nhất lai quả,
Bất hoàn quả, A la hán quả, Độc giác Bồ đề, Bồ tát hạnh, quả vị Giác ngộ tối
cao. Tổng cộng 81 khoa.
Phẩm “Khó Tin Hiểu” lấy một pháp thí
dụ như ngã so với một pháp khác trong 81 khoa như sắc mà thuyết. Kế đến cũng
lấy ngã so với thọ, tưởng, hành, thức. Cứ thế tiếp tục, lấy ngã so sánh với nhãn
xứ, sắc xứ..., nhãn giới, sắc giới…, sáu pháp sở duyên v.v…cho đến cuối cùng
của 81 khoa là quả vị Giác ngộ tối cao. Phẩm này, đứng về kỹ thuật tóm lược thì
không có gì khó, vì không có nhiều tư tưởng dị biệt, mục đích là trì tụng sự
đồng đẳng của các pháp mà được thanh tịnh, không phân biệt, không đoạn diệt
giữa các pháp trong 81 khoa danh tướng Bát Nhã. Hiểu tác dụng của một pháp ảnh
hưởng trên các pháp khác trong toàn thể các pháp màu Phật đạo thì có thể hiểu
tất cả. Trọng tâm của phẩm này cốt chỉ cho chúng sanh làm thế nào để được thanh
tịnh?
Tóm lược:
1.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu có người chẳng
siêng năng tinh tấn, chưa trồng căn lành, tâm đầy bất thiện, lại bị ác tri thức
chi phối, nên đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm mà Phật đã thuyết này, thật khó
có thể tin hiểu.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như
ông đã nói, nếu có người chẳng siêng năng tinh tấn, chưa trồng căn lành, tâm
đầy bất thiện, bị ác tri thức chi phối, nên đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm
đã thuyết này, thật khó có thể tin hiểu.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế nào mà khó tin khó hiểu?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Sắc
chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì sắc tánh vô sở hữu, vô sở
hữu chính là tự tánh của sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải buộc, chẳng
phải mở. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức tánh vô sở hữu, vô sở hữu chính là
tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức. Mười hai xứ, mười tám giới chẳng
phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì 12 xứ 18 giới tánh vô sở hữu, vô sở hữu
chính là tự tánh của xứ giới; tất cả pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng,
tứ định vô sắc, tứ Thánh đế, thập nhị nhân duyên, ba mươi bảy pháp trợ đạo,
mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao
chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì tất cả pháp Phật vô sở hữu, vô sở
hữu chính là tự tánh của tất cả pháp Phật.
Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc ba đời
chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì sắc ba đời tánh vô sở hữu, vô sở hữu
chính là tự tánh của sắc ba đời; thọ, tưởng, hành, thức ba đời chẳng phải buộc,
chẳng phải mở. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức ba đời tánh vô sở hữu, vô sở
hữu chính là tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức ba đời. Mười hai xứ, mười tám
giớiba đời chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì 12 xứ 18 giới ba đời tánh
vô sở hữu, vô sở hữu chính là tự tánh của xứ giới ba đời. Tất cả pháp Phật ba
đời cũng lại như thế.
2.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Có các Bổ đặc già la chẳng siêng năng tinh tấn, chưa trồng
căn lành, lại đầy căn bất thiện, bị ác hữu chi phối, làm theo ma lực, biếng
nhác tăng, tinh tấn giảm, thất niệm, ác tuệ, nên đối với Bát nhã Ba la mật này
thật khó có thể tin hiểu.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy!
Đúng như ông đã nói! Bổ đặc già la chẳng siêng tinh tấn, chưa trồng căn lành,
lại đầy tâm bất thiện, bị ác hữu chi phối, làm theo ma lực, lười biếng tăng
lên, tinh tấn giảm xuống, thất niệm, ác tuệ, nên đối với Bát nhã Ba la mật này
thật khó có thể tin hiểu. Vì sao? Thiện Hiện! Vì sắc thanh tịnh tức là quả
thanh tịnh; quả thanh tịnh tức là sắc thanh tịnh. Vì sao? Vì sắc thanh tịnh
ấy cùng với quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không
đoạn diệt; thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh tức là quả thanh tịnh; quả thanh
tịnh tức là thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành,
thức thanh tịnh ấy cùng với quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không
phân biệt, không đoạn diệt; 12 xứ, 18 giới thanh tịnh tức là quả thanh tịnh;
quả thanh tịnh tức là 12 xứ, 18 giới thanh tịnh. Vì sao? Vì xứ giới thanh tịnh
ấy cùng với quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không
đoạn diệt; tất cả pháp Phật cũng lại như thế.
Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc thanh
tịnh tức là Bát nhã Ba la mật thanh tịnh; Bát nhã Ba la mật thanh tịnh tức
là sắc thanh tịnh. Vì sao? Vì sắc thanh tịnh ấy cùng với Bát nhã Ba la mật
thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt; thọ,
tưởng, hành, thức thanh tịnh tức là Bát nhã Ba la mật thanh tịnh; Bát nhã Ba la
mật thanh tịnh tức là thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh. Vì sao? Vì thọ, tưởng,
hành, thức thanh tịnh ấy cùng với Bát nhã Ba la mật thanh tịnh không hai, không
hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt; mười hai xứ, mười tám giớithanh
tịnh tức là Bát nhã Ba la mật thanh tịnh; Bát nhã Ba la mật thanh tịnh tức là
12 xứ 18 giới thanh tịnh. Vì sao? Vì xứ giới thanh tịnh ấy cùng với Bát nhã Ba
la mật thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt;
tất cả pháp Phật cũng lại như thế.
Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc thanh
tịnh tức là Nhất thiết trí trí thanh tịnh; Nhất thiết trí trí thanh tịnh
tức là sắc thanh tịnh. Vì sao? Vì sắc thanh tịnh ấy cùng với Nhất thiết trí trí
thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Thọ,
tưởng, hành, thức thanh tịnh tức là Nhất thiết trí trí thanh tịnh; Nhất thiết
trí trí thanh tịnh tức là thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh. Vì sao? Vì thọ,
tưởng, hành, thức thanh tịnh ấy cùng với Nhất thiết trí trí thanh tịnh không
hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt; mười hai xứ, mười tám
giớithanh tịnh tức là Nhất thiết trí trí thanh tịnh; Nhất thiết trí trí thanh
tịnh tức là 12 xứ 18 giới thanh tịnh. Vì sao? Vì xứ giới thanh tịnh ấy cùng với
Nhất thiết trí trí thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không
đoạn diệt; tất cả pháp Phật cũng lại như thế. (Q.184, ĐBN)
“Ngã” thanh tịnh tức tất cả 81 khoa
danh tướng thanh tịnh:
“Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã
thanh tịnh tức là sắc thanh tịnh; sắc thanh tịnh tức là ngã thanh tịnh. Vì sao?
Vì ngã thanh tịnh ấy cùng với sắc thanh tịnh không hai, không hai phần, không
phân biệt, không đoạn diệt. Ngã thanh tịnh tức là thọ, tưởng, hành, thức thanh
tịnh; thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh tức là ngã thanh tịnh. Vì sao? Vì ngã
thanh tịnh ấy cùng với thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh không hai, không hai phần,
không phân biệt, không đoạn diệt.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã thanh tịnh
tức là 12 xứ, 18 giới thanh tịnh; 12 xứ, 18 giới thanh tịnh tức là ngã thanh
tịnh. Vì sao? Vì ngã thanh tịnh ấy cùng với xứ giới thanh tịnh không hai, không
hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Ngã thanh tịnh tức là tất cả pháp
Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, tứ Thánh đế, 12 nhân duyên, 37
pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao
thanh tịnh; tất cả pháp Phật thanh tịnh tức là ngã thanh tịnh. Vì sao? Vì ngã
thanh tịnh ấy cùng với tất cả pháp Phật thanh tịnh không hai, không hai phần,
không phân biệt, không đoạn diệt”. (Q.190,
ĐBN)
Phần trên Kinh thuyết về ngã thanh
tịnh, bây giờ Kinh thuyết về “hữu tình”:
“Lại nữa, Thiện Hiện! Hữu tình
thanh tịnh tức là sắc thanh tịnh; sắc thanh tịnh tức là hữu tình thanh
tịnh. Vì sao? Vì hữu tình thanh tịnh ấy cùng với sắc thanh tịnh không hai,
không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt; hữu tình thanh tịnh tức là
thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh; thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh tức là hữu
tình thanh tịnh. Vì sao? Vì hữu tình thanh tịnh ấy cùng với thọ, tưởng, hành,
thức thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.
Này Thiện Hiện! Hữu tình thanh tịnh
tức là 12 xứ, 18 giới thanh tịnh; 12 xứ, 18 giới thanh tịnh tức là hữu tình
thanh tịnh. Vì hữu tình thanh tịnh ấy cùng với 12 xứ, 18 thanh tịnh không hai,
không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt; hữu tình thanh tịnh tức là
tất cả pháp Phật thanh tịnh cũng lại như thế”.
Kế Kinh thuyết về “dòng
sinh mạng”:
“Lại nữa, Thiện Hiện! Dòng sinh
mạng thanh tịnh tức là sắc thanh tịnh; sắc thanh tịnh tức là dòng sinh mạng
thanh tịnh. Vì sao? Vì dòng sinh mạng thanh tịnh ấy cùng với sắc thanh tịnh
không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt; dòng sinh mạng
thanh tịnh tức là thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh; thọ, tưởng, hành, thức
thanh tịnh tức là dòng sinh mạng thanh tịnh. Vì sao? Vì dòng sinh mạng thanh
tịnh ấy cùng với thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh không hai, không hai phần,
không phân biệt, không đoạn diệt.
Này Thiện Hiện! Dòng sinh mạng thanh
tịnh tức là 12 xứ, 18 giới thanh tịnh; 12 xứ, 18 giới thanh tịnh tức là dòng
sanh mạng thanh tịnh. Vì dòng sanh mạng thanh tịnh ấy cùng 12 xứ, 18 giới thanh
tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt; dòng sanh
mạng thanh tịnh tức là tất cả pháp Phật thanh tịnh cũng lại như thế”.(Q. 191, ĐBN)
Rồi tiếp tục, Kinh thuyết sự
sanh, sự dưỡng dục, sĩ phu, Bổ đặc già la,
ý sanh, nho đồng, sự tạo tác, cái
biết, cái thấy thanh tịnh:
Tức là sắc thanh tịnh; sắc thanh
tịnh tức sự sanh cho đến cái biết, cái thấy thanh tịnh. Vì sao? sự sanh cho đến
cái biết, cái thấy thanh tịnh ấy cùng với sắc thanh tịnh không hai, không hai
phần, không phân biệt, không đoạn diệt; sự sanh cho đến cái biết cái thấy thanh
tịnh tức là thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh; thọ, tưởng, hành, thức thanh
tịnh tức là sự sanh cho đến cái biết cái thấy thanh tịnh. Vì sao? Vì sự sanh
cho đến cái biết cái thấy thanh tịnh ấy cùng với thọ, tưởng, hành, thức thanh
tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Sự sanh cho
đến cái biết cái thấy thanh tịnh tức là 12 xứ, 18 giới thanh tịnh; 12 xứ, 18
giới thanh tịnh tức là sự sanh cho đến cái biết cái thấy thanh tịnh. Vì sao? Vì
sự sanh cho đến cái biết cái thấy thanh tịnh cùng 12 xứ, 18 giới thanh tịnh
không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt; sự sanh cho đến
cái biết cái thấy thanh tịnh tức là tất cả pháp Phật thanh tịnh cũng lại như
thế.
Tới đây, Kinh đưa thêm một yếu tố
mới là “Nhất thiết trí trí” đi liền theo sau ngã:
“Lại nữa, Thiện Hiện! Vì ngã thanh
tịnh nên sắc thanh tịnh; vì sắc thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh
tịnh. Vì sao? Vì hoặc ngã thanh tịnh, hoặc sắc thanh tịnh, hoặc Nhất thiết
trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn
diệt; vì ngã thanh tịnh nên thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh; vì thọ, tưởng,
hành, thức thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc ngã
thanh tịnh, hoặc thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí
thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.Vì
ngã thanh tịnh nên 12 xứ, 18 giới thanh tịnh; vì 12 xứ, 18 giới thanh tịnh nên
Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc ngã thanh tịnh hoặc 12 xứ, 18
giới thanh tịnh hoặc Nhất thiết trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần,
không phân biệt, không đoạn diệt; vì hoặc ngã thanh tịnh hoặc tất cả pháp Phật
thanh tịnh hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh cũng lại như thế”.
Cũng vậy, Kinh nói: Vì hữu tình đến
dòng sanh mạng, đến sự sanh, sự dưỡng, sĩ phu, Bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng,
sự tạo tác, cái biết, cái thấy thanh tịnh nên sắc thanh tịnh, vì sắc thanh tịnh
nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh cũng lại như thế.
Tiếp theo Kinh đưa thêm một yếu tố
khác là “tham, sân, si”:
Lại nữa, Thiện Hiện! Tham, sân,
si thanh tịnh tức là sắc thanh tịnh; sắc thanh tịnh tức là tham, sân, si
thanh tịnh. Vì sao? Vì tham, sân, si thanh tịnh ấy cùng với sắc thanh tịnh
không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Tham, sân, si
thanh tịnh tức là thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh; thọ, tưởng, hành, thức
thanh tịnh tức là tham, sân, si thanh tịnh. Vì sao? Vì tham, sân, si thanh tịnh
ấy cùng với thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh không hai, không hai phần, không
phân biệt, không đoạn diệt.Tham, sân, si thanh tịnh tức là 12 xứ, 18 giới thanh
tịnh; 12 xứ, 18 giới thanh tinh tức tham, sân, si thanh tịnh. Vì sao? Vì tham,
sân, si thanh tịnh ấy cùng với 12 xứ, 18 giới thanh tịnh không hai, không hai
phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Tham, sân, si thanh tịnh tức là tất cả
pháp Phật thanh tịnh cũng lại như thế.
Lại nữa, Thiện Hiện! Vì tham,
sân, si thanh tịnh nên sắc thanh tịnh; vì sắc thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí
thanh tịnh.Vì sao? Vì hoặc tham, sân, si thanh tịnh hoặc sắc thanh tịnh
hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân
biệt, không đoạn diệt. Vì tham, sân, si thanh tịnh nên thọ, tưởng, hành, thức
thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh
tịnh. Vì sao? Vì hoặc tham, sân, si thanh tịnh, hoặc thọ, tưởng, hành, thức
thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần,
không phân biệt, không đoạn diệt.
Này Thiện Hiện! Vì tham, sân, si
thanh tịnh nên 12 xứ, 18 giới thanh tịnh; vì 12 xứ, 18 giới thanh tịnh nên Nhất
thiết trí trí thanh tịnh. Vì hoặc tham, sân, si thanh tịnh, hoặc 12 xứ, 18 giới
thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần,
không phân biệt, không đoạn diệt. Vì tham, sân, si thanh tịnh nên tất cả pháp
Phật thanh tịnh cũng lại như thế. (Q.
204, ĐBN)
3.
Lại nữa, Thiện Hiện! Vì sắc thanh
tịnh nên thọ thanh tịnh; vì thọ thanh tịnh nên sắc thanh tịnh. Vì sao? Vì
sắc thanh tịnh ấy cùng với thọ thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân
biệt, không đoạn diệt. Vì thọ thanh tịnh nên tưởng thanh tịnh; vì tưởng thanh
tịnh nên thọ thanh tịnh. Vì sao? Vì thọ thanh tịnh ấy cùng với tưởng thanh tịnh
không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì tưởng thanh
tịnh nên hành thanh tịnh; vì hành thanh tịnh nên tưởng thanh tịnh. Vì sao? Vì
tưởng thanh tịnh ấy cùng với hành thanh tịnh không hai, không hai phần, không
phân biệt, không đoạn diệt. Vì hành thanh tịnh nên thức thanh tịnh; vì thức
thanh tịnh nên hành thanh tịnh. Vì sao? Vì hành thanh tịnh ấy cùng với thức
thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.
Vì 12 xứ thanh tịnh nên 18 giới
thanh tịnh, vì 18 giới thanh tịnh nên 12 xứ thanh tịnh. Vì sao? Vì 12 xứ
thanh tịnh cùng 18 giới thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt,
không đoạn diệt. Cũng như vậy, tứ thiền thanh tịnh nên tứ vô lượng thanh tịnh,
tứ vô lượng thanh tịnh nên tứ định vô sắc thanh tịnh, cho đến vì tấtcả Bồ tát
hạnh thanh tịnh nên quả vị Giác ngộ tối cao thanh tịnh; vì quả vị Giác ngộtối
cao thanh tịnh nên tất cả Bồ tát hạnh thanh tịnh. Vì sao? Vì tất cả Bồ tát hạnh
thanh tịnh ấy cùng với quả vị Giác ngộ tối cao thanh tịnh không hai, không hai
phần, không phân biệt, không đoạn diệt. (Q.
205, ĐBN)
Kế, Kinh thuyết lục Ba la mật
thanh tịnh nên sắc thanh tịnh; sắc thanh tịnh
nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh.
Quyển 205 trở đi nói rằng:
Vì Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an
nhẫn, trì giới, bố thí Ba la mật thanh tịnh nên sắc thanh tịnh; vì sắc thanh
tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc Bát Nhã đến bố thí
Ba la mật thanh tịnh, hoặc sắc thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh
đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì Bát Nhã đến
bố thí Ba la mật thanh tịnh nên thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh; vì thọ,
tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Nhất thiết trí tríthanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc Bát
Nhã đến bố thí Ba la mật thanh tịnh, hoặc thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh,
hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân
biệt, không đoạn diệt.
Này Thiện Hiện! Vì lục Ba la mật
thanh tịnh nên 12 xứ, 18 giới thanh tịnh; vì 12 xứ, 18 giới thanh tịnh nên Nhất
thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc lục Ba la mật thanh tịnh, hoặc 12 xứ,
18 giới thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai
phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì lục Ba la mật thanh tịnh nên tất cả
pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, tứ Thánh đế, 12 nhân duyên,
37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối
cao thanh tịnh, vì tất cả pháp Phật thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh
tịnh. Vì sao? Vì hoặc lục Ba la mật thanh tịnh, hoặc tất cả pháp Phật thanh
tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. (Q. 208, ĐBN)
Kinh nói đến “18 pháp không”:
Lại nữa, Thiện Hiện! Vì 18 pháp
không (từ pháp không nội đến pháp vô tánh tự tánh không) thanh
tịnh nên sắc thanh tịnh; vì sắc thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì
sao? Vì hoặc 18 pháp không thanh tịnh, hoặc sắc thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí
trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.
Vì 18 pháp không thanh tịnh nên thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh; vì thọ,
tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc
18 pháp không thanh tịnh, hoặc thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh, hoặc Nhất
thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không
đoạn diệt.
Này Thiện Hiện! Vì 18 pháp không
thanh tịnh nên 12 xứ, 18 giới thanh tịnh; vì 12 xứ, 18 giới thanh tịnh nên Nhất
thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc 18 pháp không thanh tịnh, hoặc 12 xứ,
18 giới thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai
phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì 18 pháp không thanh tịnh nên tất cả
pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, tứ Thánh đế, 12 nhân duyên,
37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối
cao thanh tịnh, vì tất cả pháp Phật thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh
tịnh. Vì sao? Vì hoặc 18 pháp không thanh tịnh, hoặc tất cả pháp Phật thanh
tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.
Kinh nói đến “chơn như, pháp giới,
pháp tánh v.v…”:
Lại nữa, Thiện Hiện! Vì chơn như,
pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dịch tánh, bình đẳng tánh, ly
sinh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghị giới thanh
tịnh nên sắc thanh tịnh; vì sắc thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh.
Vì sao? Vì hoặc chơn như cho đến bất tư nghì giới thanh tịnh, hoặc sắc thanh
tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không
phân biệt, không đoạn diệt. Vì chơn như cho đến bất tư nghì giới thanh tịnh nên
thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên
Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc chơn như cho đến bất tư nghì
giới thanh tịnh, hoặc thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí
trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như cho đến
bất tư nghì giới thanh tịnh nên 12 xứ, 18 giới thanh tịnh; vì 12 xứ, 18 giới
thanh tịnh nên chơn như cho đến bất tư nghì giới thanh tịnh, hoặc 12 xứ, 18
giới thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai
phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì chơn như cho đến bất tư nghì giới
thanh tịnh nên tất cả pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, tứ
Thánh đế, 12 nhân duyên, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho
đến quả vị Giác ngộ tối cao thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc chơn như cho đến bất tư
nghì giới thanh tịnh, hoặc tất cả pháp Phật thanh tịnh, đều không hai, không
hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. (Q.
122, ĐBN)
Kinh nói đến tứ Thánh đế: “Thánh đế
khổ, tập, diệt, đạo”:
Lại nữa, Thiện Hiện! Vì tứ Thánh
đế thanh tịnh nên sắc thanh tịnh; vì sắc thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí
thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc tứ Thánh đế thanh tịnh, hoặc sắc thanh tịnh,
hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân
biệt, không đoạn diệt. Vì tứ Thánh đế thanh tịnh nên thọ, tưởng, hành, thức
thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh
tịnh. Vì sao? Vì hoặc tứ Thánh đế thanh tịnh, hoặc thọ, tưởng, hành, thức thanh
tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không
phân biệt, không đoạn diệt.
Này Thiện Hiện! Vì tứ Thánh đế thanh
tịnh nên 12 xứ, 18 giới thanh tịnh; vì 12 xứ, 18 giới thanh tịnh nên Nhất thiết
trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc tứ Thánh đế thanh tịnh, hoặc12 xứ, 18 giới
thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần,
không phân biệt, không đoạn diệt. Vì tứ Thánh đế thanh tịnh nên tất cả pháp
Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 12 nhân duyên, 37 pháp trợ đạo,
18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao thanh tịnh.
Vì sao? Vì hoặc tứ Thánh đế thanh tịnh, hoặc tất cả pháp Phật thanh tịnh, đều
không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.
Kinh nói đến “tứ thiền, tứ vô lượng,
tứ định vô sắc”:
Lại nữa, Thiện Hiện! Vì tứ thiền,
tứ vô lượng, tứ định vô sắc thanh tịnh nên sắc thanh tịnh; vì sắc thanh tịnh
nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc tứ thiền, tứ vô lượng,
tứ định vô sắc thanh tịnh, hoặc sắc thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh
tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì tứ
thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc thanh tịnh nên thọ, tưởng, hành, thức thanh
tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh.
Vì sao? Vì hoặc tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc thanh tịnh, hoặc thọ,
tưởng, hành, thức thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai,
không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.
Này Thiện Hiện! Vì tứ thiền, tứ vô
lượng, tứ định vô sắc thanh tịnh nên 12 xứ, 18 giới thanh tịnh; vì 12 xứ, 18
giới thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc tứ thiền, tứ
vô lượng, tứ định vô sắc thanh tịnh, hoặc 12 xứ, 18 giới thanh tịnh, hoặc Nhất
thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không
đoạn diệt. Vì tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc thanh tịnh nên tất cả pháp
Phật từ tứ Thánh đế, 12 nhân duyên, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất
thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc tứ
thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc thanh tịnh, hoặc tất cả pháp Phật thanh
tịnh, đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.
Kinh nói tiếp về: “8 giải thoát, 8
thắng xứ, 9 định thứ đệ, 10 biến xứ”:
Lại nữa, Thiện Hiện! Vì tám giải
thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thanh tịnh nên sắc thanh
tịnh; vì sắc thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc
tám giải thoát đến mười biến xứ thanh tịnh, hoặc sắc thanh tịnh, hoặc Nhất
thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không
đoạn diệt. Vì tám giải thoát đến mười biến xứ thanh tịnh nên thọ, tưởng, hành,
thức thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí
thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc tám giải thoát đến mười biến xứ thanh tịnh, hoặc
thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không
hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.
Này Thiện Hiện! Vì tám giải thoát
đến mười biến xứ thanh tịnh nên 12 xứ, 18 giới thanh tịnh, vì 12 xứ, 18 giới
thanh tịnh nên Nhất thiết trí tríthanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc tám giải thoát đến
mười biến xứ thanh tịnh, hoặc 12 xứ, 18 giới thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí
trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.
Vì hoặc tám giải thoát đến mười biến xứ thanh tịnh nên tất cả pháp Phật từ tứ
Thánh đế, 12 nhân duyên, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho
đến quả vị Giác ngộ tối cao thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc tám giải thoát đến mười
biến xứ thanh tịnh,, hoặc tất cả pháp Phật thanh tịnh, đều không hai, không hai
phần, không phân biệt, không đoạn diệt.
Kinh thuyết tiếp về “37 pháp trợ
đạo: Bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn,
bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy
chi đẳng giác, tám chi Thánh đạo”:
Lại nữa, Thiện Hiện! Vì 37 pháp
trợ đạo thanh tịnh nên sắc thanh tịnh; vì sắc thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí
thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc 37 pháp trợ đạo thanh tịnh, hoặc sắc thanh
tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không
phân biệt, không đoạn diệt. Vì 37 pháp trợ đạo thanh tịnh nên thọ, tưởng, hành,
thức thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí
thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc 37 pháp trợ đạo thanh tịnh, hoặc thọ, tưởng, hành,
thức thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai
phần, không phân biệt, không đoạn diệt.
Này Thiện Hiện! Vì 37 pháp trợ đạo
thanh tịnh nên 12 xứ, 18 giới thanh tịnh; vì 12 xứ, 18 giới thanh tịnh nên Nhất
thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc 37 pháp trợ đạo thanh tịnh, hoặc 12
xứ, 18 giới thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không
hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì hoặc 37 pháp trợ đạo thanh tịnh
nên tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế, 12 nhân duyên, 18 pháp bất cộng, Nhất
thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc 37 pháp
trợ đạo thanh tịnh, hoặc tất cả pháp Phật thanh tịnh, đều không hai, không hai
phần, không phân biệt, không đoạn diệt.
Kinh đề cập đến “tam giải thoát môn
Không, Vô tướng, Vô nguyện”:
Lại nữa, Thiện Hiện! Tam giải
thoát môn thanh tịnh nên sắc thanh tịnh, sắc thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí
thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc tam giải thoát môn thanh tịnh, hoặc sắc thanh
tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều đều không hai, không hai phần,
không phân biệt, không đoạn diệt. Vì tam giải thoát môn thanh tịnh nên thọ
tưởng hành thức thanh tịnh, thọ tưởng hành thức thanh tịnh nên Nhất thiết trí
trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc tam giải thoát môn thanh tịnh, hoặc thọ tưởng
hành thức thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không
hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.
Này Thiện Hiện! Vì tam giải thoát
môn thanh tịnh nên 12 xứ, 18 giới thanh tịnh; vì 12 xứ, 18 giới thanh tịnh nên
Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc tam giải thoát môn thanh tịnh,
hoặc 12 xứ, 18 giới thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không
hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì tam giải thoát môn
thanh tịnh nên tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế, 12 nhân duyên, 18 pháp bất
cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao thanh tịnh. Vì sao? Vì
hoặc tam giải thoát môn thanh tịnh, hoặc tất cả pháp Phật thanh tịnh, đều không
hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.
Kinh thuyết tiếp về “Bồ tát thập địa”:
Lại nữa, Thiện Hiện! Vì mười địa
Bồ tát thanh tịnh nên sắc thanh tịnh; vì sắc thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí
thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc mười địa Bồ tát thanh tịnh, hoặc sắc thanh
tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không
phân biệt, không đoạn diệt. Vì mười địa Bồ tát thanh tịnh nên thọ, tưởng, hành,
thức thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí
thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc mười địa Bồ tát thanh tịnh, hoặc thọ, tưởng, hành,
thức thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai
phần, không phân biệt, không đoạn diệt.
Này Thiện Hiện! Vì mười địa Bồ tát
thanh tịnh nên 12 xứ, 18 giới thanh tịnh; vì12 xứ, 18 giới thanh tịnh nên Nhất
thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc mười địa Bồ tát thanh tịnh, hoặc 12
xứ, 18 giới thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không
hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì mười địa Bồ tát thanh tịnh nên
tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế, 12 nhân duyên, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết
trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc mười địa Bồ
tát thanh tịnh, hoặc tất cả pháp Phật thanh tịnh, đều không hai, không hai
phần, không phân biệt, không đoạn diệt.
Kinh nói về “5 loại mắt, 6 pháp thần
thông”:
Lại nữa, Thiện Hiện! Vì năm loại
mắt, sáu thần thông thanh tịnh nên sắc thanh tịnh; vì sắc thanh tịnh nên Nhất
thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc năm loại mắt, sáu phép thần thông
thanh tịnh, hoặc sắc thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không
hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì năm loại mắt, sáu
phép thần thông thanh tịnh nên thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh; vì thọ,
tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì hoặc năm loại
mắt, sáu phép thần thông thanh tịnh, hoặc thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh,
hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân
biệt, không đoạn diệt.
Này Thiện Hiện! Vì năm loại mắt, sáu
phép thần thông thanh tịnh nên 12 xứ, 18 giới thanh tịnh; vì 12 xứ, 18 giới
thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc năm loại mắt, sáu
phép thần thông thanh tịnh, hoặc 12 xứ, 18 giới thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí
trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.
Vì năm loại mắt, sáu phép thần thông thanh tịnh nên tất cả pháp Phật từ tứ
Thánh đế, 12 nhân duyên, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác
ngộ tối cao thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc năm loại mắt, sáu phép thần thông thanh
tịnh, hoặc tất cả pháp Phật thanh tịnh, đều không hai, không hai phần, không
phân biệt, không đoạn diệt.
Kế Kinh thuyết về “Phật mười
lực, 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt”:
Lại nữa, Thiện Hiện! Vì Phật mười
lực cho đến bốn sự hiểu biết thông suốt thanh tịnh nên sắc thanh tịnh; vì sắc
thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc Phật mười lực
cho đến bốn sự hiểu biết thông suốt thanh tịnh, hoặc sắc thanh tịnh, hoặc Nhất
thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không
đoạn diệt. Vì Phật mười lực cho đến bốn sự hiểu biết thông suốt thanh tịnh nên
thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Nhất
thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc Phật mười lực cho đến bốn sự hiểu
biết thông suốt thanh tịnh, hoặc thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh, hoặc Nhất
thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không
đoạn diệt.
Này Thiện Hiện! Vì Phật mười lực cho
đến bốn sự hiểu biết thông suốt thanh tịnh nên 12 xứ, 18 giới thanh tịnh; vì 12
xứ, 18 giới thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc Phật
mười lực đến bốn sự hiểu biết thông suốt thanh tịnh, hoặc 12 xứ, 18 giới thanh
tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không
phân biệt, không đoạn diệt. Vì Phật mười lực đến bốn sự hiểu biết thông suốt thanh
tịnh nên tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế, 12 nhân duyên, 18 pháp bất cộng, Nhất
thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc Phật
mười lực đến bốn sự hiểu biết thông suốt thanh tịnh, hoặc tất cả pháp Phật
thanh tịnh, đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.
Kinh thuyết “4 vô lượng tâm:
Đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả”:
Lại nữa, Thiện Hiện! Vì đại từ, đại
bi, đại hỷ, đại xả thanh tịnh nên sắc thanh tịnh; vì sắc thanh tịnh nên Nhất
thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả thanh
tịnh, hoặc sắc thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai,
không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì đại từ, đại bi, đại hỷ,
đại xả thanh tịnh nên thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành,
thức thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc đại từ, đại
bi, đại hỷ, đại xả thanh tịnh, hoặc thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh, hoặc
Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt,
không đoạn diệt.
Này Thiện Hiện! Vì đại từ, đại bi,
đại hỷ, đại xả thanh tịnh nên 12 xứ, 18 giới thanh tịnh; vì 12 xứ, 18 giới
thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc đại từ, đại bi,
đại hỷ, đại xả thanh tịnh, hoặc 12 xứ, 18 giới thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí
trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.
Vì đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả thanh tịnh nên tất cả pháp Phật từ tứ Thánh
đế, 12 nhân duyên, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ
tối cao thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả thanh tịnh,
hoặc tất cả pháp Phật thanh tịnh, đều không hai, không hai phần, không phân
biệt, không đoạn diệt.
Kinh thuyết về “18 pháp Phật bất cộng, pháp không quên mất,
tánh hằng trụ xả”:
Lại nữa, Thiện Hiện! Vì mười tám
pháp Phật bất cộng cho đến tánh hằng trụ xả thanh tịnh nên sắc thanh tịnh; vì
sắc thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc mười tám
pháp Phật bất cộng cho đến tánh hằng trụ xả thanh tịnh, hoặc sắc thanh tịnh,
hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân
biệt, không đoạn diệt. Vì mười tám pháp Phật bất cộng đến tánh hằng trụ xả
thanh tịnh nên thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức
thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc mười tám pháp
Phật bất cộng đến tánh hằng trụ xả thanh tịnh, hoặc thọ, tưởng, hành, thức
thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần,
không phân biệt, không đoạn diệt.
Này Thiện Hiện! Vì mười tám pháp
Phật bất cộng đến tánh hằng trụ xả thanh tịnh nên 12 xứ, 18 giới thanh tịnh; vì
12 xứ, 18 giới thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí Thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc
mười tám pháp Phật bất cộng đến tánh hằng trụ xả thanh tịnh, hoặc 12 xứ, 18
giới thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai
phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì 18 pháp Phật bất cộng đến tánh hằng
trụ xả thanh tịnh nên tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế, 12 nhân duyên, 37 pháp
trợ đạo, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao thanh tịnh. Vì sao? Vì
hoặc18 pháp Phật bất cộng đến tánh hằng trụ xả thanh tịnh, hoặc tất cả pháp
Phật thanh tịnh, đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn
diệt. (Q.238, ĐBN)
Kinh thuyết tiếp về “Nhất thiết
trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí”:
Lại nữa, Thiện Hiện! Vì Nhất
thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí thanh tịnh nên sắc thanh tịnh;
vì sắc thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc Nhất
thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí thanh tịnh, hoặc sắc thanh tịnh,
hoặc Nhất thiết trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt,
không đoạn diệt. Vì Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí thanh
tịnh nên thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức thanh
tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc Nhất thiết trí, Đạo
tướng trí, Nhất thiết chủng trí thanh tịnh, hoặc thọ, tưởng, hành, thức thanh
tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không
phân biệt, không đoạn diệt.
Này Thiện Hiện! Vì Nhất thiết trí,
Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí thanh tịnh nên 12 xứ, 18 giới thanh tịnh;
Vì 12 xứ, 18 giới thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc
Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí thanh tịnh, hoặc 12 xứ, 18
giới thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai
phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất
thiết chủng trí thanh tịnh nên tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế, 12 nhân duyên,
37 pháp trợ đạo, 18 pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ
tối cao thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết
chủng trí thanh tịnh, hoặc tất cả pháp Phật thanh tịnh, đều không hai, không
hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.
Kinh trình bày về “Đà la ni môn, Tam
ma địa môn”:
Lại nữa, Thiện Hiện! Vì Đà la ni
môn, Tam ma địa môn thanh tịnh nên sắc thanh tịnh; vì sắc thanh tịnh nên Nhất
thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc Đà la ni môn, Tam ma địa môn
thanh tịnh, hoặc sắc thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí thanh tịnh đều không hai,
không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì Đà la ni môn, Tam ma địa
môn thanh tịnh nên thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức
thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc Đà la ni môn, Tam
ma địa môn thanh tịnh, hoặc thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh, hoặc Nhất thiết
trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn
diệt.
Này Thiện Hiện! Vì Đà la ni môn, Tam
ma địa môn thanh tịnh nên 12 xứ, 18 giới thanh tịnh; vì 12 xứ, 18 giới thanh
tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc Đà la ni môn, Tam ma
địa môn thanh tịnh, hoặc 12 xứ, 18 giới thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí
thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì
Đà la ni môn, Tam ma địa môn thanh tịnh nên tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế, 12
nhân duyên, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả
vị Giác ngộ tối cao thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc Đà la ni môn, Tam ma địa môn
thanh tịnh, hoặc tất cả pháp Phật thanh tịnh, đều không hai, không hai phần,
không phân biệt, không đoạn diệt.
Kinh thuyết về tất cả Thánh quả từ “Dự
lưu, Nhất hoàn, Bất hoàn, A la hán,
Độc giác Bồ đề, Bồ tát hạnh đến quả
vị Giác ngộ tối cao”:
Lại nữa, Thiện Hiện! Vì tất cả
Thánh quả thanh tịnh nên sắc thanh tịnh; vì sắc thanh tịnh nên Nhất thiết trí
trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc tất cả Thánh quảthanh tịnh, hoặc sắc thanh
tịnh, hoặc Nhất thiết trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân
biệt, không đoạn diệt. Vì tất cả Thánh quảthanh tịnh nên thọ, tưởng, hành, thức
thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh
tịnh. Vì sao? Vì hoặc tất cả Thánh quảthanh tịnh, hoặc thọ, tưởng, hành, thức
thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần,
không phân biệt, không đoạn diệt.
Này Thiện Hiện! Vì tất cả Thánh
quảthanh tịnh nên 12 xứ, 18 giới thanh tịnh; Vì 12 xứ, 18 giới thanh tịnh nên
Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc tất cả Thánh quả thanh tịnh,
hoặc 12 xứ, 18 giới thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không
hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì tất cả Thánh quảthanh
tịnh nên tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế, 12 nhân duyên, 37 pháp trợ đạo, 18
pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao thanh tịnh.
Vì sao? Vì hoặc tất cả Thánh quả thanh tịnh, hoặc tất cả pháp Phật thanh tịnh,
hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân
biệt, không đoạn diệt.
4.
Trên đây Kinh lấy từng pháp, từng
pháp một trong 81 khoa danh tướng Bát Nhã so chiếu với từng pháp của tất cả các
pháp môn Phật học. Đến đây Kinh lấy Nhất thiết trí trí làm trục chánh phối hợp
với từng pháp trong 81 khoa danh tướng để so chiếu với lục Ba la mật. Thí dụ:
Vì Nhất thiết trí trí thanh
tịnh nên ngũ uẩn thanh tịnh; vì ngũ uẩn thanh tịnh
nên Bát Nhã cho đến bố thí Ba la
mật thanh tịnh.
Vì sao? Vì hoặc Nhất thiết trí
trí thanh tịnh, hoặc ngũ uẩn thanh tịnh, hoặc Bát Nhã đến bố thí Ba la mật
thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì
Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên 12 xứ, 18 giới thanh tịnh; vì 12 xứ,
18 giới thanh tịnh nên Bát Nhã đến bố thí Ba la mật thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc
Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc 12 xứ, 18 giới thanh tịnh, hoặc Bát Nhã đến
bố thí Ba la mật thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt,
không đoạn diệt. Vì Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên tất cả pháp Phật thanh
tịnh; vì tất cả pháp Phật thanh tịnh nên Bát Nhã đến bố thí Ba la mật thanh
tịnh. Vì sao? Vì hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc tất cả pháp Phật thanh
tịnh, hoặc Bát Nhã đến bố thí Ba la mật thanh tịnh đều không hai, không hai
phần, không phân biệt, không đoạn diệt.
- Kinh lấy Nhất thiết trí trí làm
trục chánh phối hợp với từng pháp một trong 81 danh tướng Bát Nhã (tức tất cả
pháp Phật từ uẩn xứ giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, tứ Thánh đế,
12 nhân duyên, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí…cho đến
quả vị Giác ngộ tối cao) để so chiếu với 18 pháp không(từ không nội cho
đến pháp vô tánh tự tánh không). Thí dụ:
Vì Nhất thiết trí trí thanh
tịnh nên ngũ uẩn thanh tịnh; vì ngũ uẩn thanh tịnh
nên 18 pháp không thanh tịnh.
Vì sao? Vì hoặc Nhất thiết trí trí
thanh tịnh, hoặc ngũ uẩn thanh tịnh, hoặc 18 pháp không thanh tịnh đều không
hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì Nhất thiết trí trí
thanh tịnh nên 12 xứ, 18 giới thanh tịnh; vì 12 xứ, 18 giới thanh tịnh
nên 18 pháp không thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh,
hoặc 12 xứ, 18 giới thanh tịnh, hoặc 18 pháp không thanh tịnh đều không hai,
không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì Nhất thiết trí trí thanh
tịnhnên tất cả pháp Phật thanh tịnh; vì tất cả pháp Phật thanh tịnh nên
18 pháp không thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc
tất cả pháp Phật thanh tịnh, nên 18 pháp không thanh tịnh đều không hai, không
hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. (Xin đọc đoạn Kinh trích dẫn “nguyên
văn”, thuộc quyển 255 và 256, Hội thứ I, ĐBN, cuối phần tóm lược này, làm thí
dụ, để hiểu toàn bộ công thức quản diễn của phẩm “Khó Tin Hiểu”).
Vì Nhất thiết trí trí thanh tịnh
nên ngũ uẩn thanh tịnh; vì ngũ uẩn thanh tịnh
nên chơn như đến cảnh giới bất tư
nghì thanh tịnh.
Vì sao? Vì hoặc Nhất thiết trí trí
thanh tịnh, hoặc ngũ uẩn thanh tịnh, hoặc chơn như đến cảnh giới bất tư nghì
thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì
Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên 12 xứ, 18 giới thanh tịnh; vì
12 xứ, 18 giới thanh tịnh nên chơn như đến cảnh giới bất tư nghì thanh tịnh. Vì
sao? Vì hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc 12 xứ, 18 giới thanh tịnh,
hoặc chơn như đến cảnh giới bất tư nghì thanh tịnh đều không hai, không hai
phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên tất
cả pháp Phật thanh tịnh; vì tất cả pháp Phật thanh tịnh nên chơn như đến
cảnh giới bất tư nghì thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc Nhất thiết trí trí thanh
tịnh, hoặc tất cả pháp Phật thanh tịnh, hoặc chơn như đến cảnh giới bất tư nghì
thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. (Q.
263, ĐBN)
- Kinh đề cập đến bốn Thánh đế(khổ, tập,
diệt, đạo)cũng như vậy:
Vì Nhất thiết trí trí thanh tịnh
nên ngũ uẩn thanh tịnh; vì ngũ uẩn thanh tịnh
nên tứ Thánh đế thanh tịnh.
Vì sao? Vì hoặc Nhất thiết trí trí
thanh tịnh, hoặc ngũ uẩn thanh tịnh, hoặc tứ Thánh đế thanh tịnh đều không hai,
không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì Nhất thiết trí trí thanh
tịnh nên 12 xứ, 18 giới thanh tịnh; vì 12 xứ, 18 giới thanh tịnh nên tứ
Thánh đế thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc 12 xứ,
18 giới thanh tịnh, hoặc tứ Thánh đế thanh tịnh đều không hai, không hai phần,
không phân biệt, không đoạn diệt. Vì Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên tất
cả pháp Phật thanh tịnh; vì tất cả pháp Phật thanh tịnh nên tứ Thánh đế
thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc tất cả pháp
Phật thanh tịnh, hoặc tứ Thánh đế thanh tịnh đều không hai, không hai phần,
không phân biệt, không đoạn diệt.
- Cuối cùng để tránh trùng tụng có
thể làm độc giả mệt mỏi, chúng tôi gộp tất cả pháp còn lại từ Tứ thiền, tứ vô
lượng, tứ định vô sắc, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười
biến xứ, tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ thần túc, ngũ căn, ngũ lực, thất chi đẳng
giác, bát chi Thánh đạo, không giải thoát môn, vô tướng giải thoát môn, vô
nguyện giải thoát môn, Bồ tát thập địa, năm nhãn, sáu thông, mười lực, bốn vô
úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả, mười tám pháp bất cộng,
pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết
chủng trí, Đà la ni môn, Tam ma địa môn, Dự lưu quả, Nhất lai quả, Bất hoàn
quả, A la hán quả, Độc giác Bồ đề, Bồ tát hạnh, quả vị Giác ngộ tối cao…
gọi chung là tất cả pháp mầu Phật đạo quản diễn như sau:
Vì Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên
ngũ uẩn thanh tịnh; vì ngũ uẩn thanh tịnh nên tất cả pháp mầu Phật đạo thanh
tịnh. Vì sao? Vì hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc uẩn, xứ, giới thanh
tịnh, hoặc tất cả pháp mầu Phật đạo thanh tịnh đều không hai, không hai phần,
không phân biệt, không đoạn diệt.
5.
Tiếp theo Kinh nói về các pháp hữu
vi và vô vi:
- Lại nữa,
Thiện Hiện! Vì hữu vi thanh tịnh nên vô vi thanh tịnh; vì vô
vi thanh tịnh nên hữu vi thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc hữu vi thanh
tịnh, hoặc vô vi thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt,
không đoạn diệt.
6.
Sau cùng Kinh nói về tam tế:
- Lại nữa,
Thiện Hiện! Vì quá khứ thanh tịnh nên vị lai, hiện tại thanh tịnh; vì vị
lai, hiện tại thanh tịnh nên quá khứ thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc quá khứ thanh
tịnh, hoặc vị lai, hiện tại thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không
phân biệt, không đoạn diệt.
Phụ đính 1:
Sau đây là hai tiểu đoạn trong hàng
trăm tiểu đoạn của phẩm “Khó Tin Hiểu”, nói về “Bất khả đắc không” trong
18 pháp không(quyển 255 và 256,Hội thứ I, ĐBN), và “chơn như”(quyển 257
và 258, Hội thứ I, ĐBN)được trính dẫn sau đây để quý vị có dịp nhận thấy sự
trùng tụng của phẩm này, một phẩm rất dài của Kinh ĐBN, chiếm tổng cộng 103
quyển.
Phần tóm lược của chúng tôi cũng khá
dài dòng, nếu xét kỹ chúng tôi cũng trùng tụng như nguyên bản, chỉ khác là rút
gọn các pháp tu thay vì lần lược lấy một pháp tu làm trục chính và thuyết các
pháp tu khác xoay quanh trục chính này; từng pháp từng pháp một cho đến hết 81
khoa danh tướng Bát Nhã, kể cả các pháp phụ khác. Chúng tôi gộp năm bảy pháp
làm một để tóm lược, thay vì nói từng pháp như sắc, thọ, tưởng, hành, thức
chúng tôi gộp lại là ngũ uẩn; thay vì nói nhãn xứ, nhĩ xứ…; sắc xứ, thọ xứ…
chúng tôi gộp lại gọi chung là 12 xứ, 18 giới cũng như vậy v.v… Kinh ĐBN là
luyện trí, nên lối diễn tả của nó có tánh cách trùng tụng cốt để ru ngủ “thức”.
Một khi thức ngủ yên thì một năng khiếu mới Phát sanh để thay thế. Năng khiếu
mới đó là một thứ trực giác, để thành tựu trí tuệ. Ngày nào thức vọng còn hoành
hành thì tri giác còn ngủ yên. Chỉ khi nào lìa được cảm quan, ý thức và các
khái niệm trừu tượng thì chân trí sẽ hiện tiền. Nên khi chúng tôi rút gọn Kinh
ở đây mặc dù cố làm cho Quý vị độc giả bớt mệt mỏi, nhưng không đúng với
tinh thần trùng tụng của Bát Nhã hay tất cả các môn Phật học khác. Một lần
nữa chúng tôi lặp lại sự trùng tụng cốt ru ngủ ý thức và cảm thọ để tâm chứng
bằng trực giác. Nếu chúng ta quá vội vàng trong lúc tu học là chúng ta phạm lỗi
lầm rồi đó. Học Phật phải kiên nhẫn thôi!
Sau đây là hai tiểu đoạn được
trích dẫn với mục đích để quý vị có dịp nhận xét và so chiếu lối diễn đạt Bát
Nhã và đồng thời hiểu thế nào là tinh thần trùng tụng của Bát Nhã:
1- Pháp “bắt khả đắc không” thanh tịnh (quyển 255
và 256, Hội thứ I, ĐBN):
Lại nữa, Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên sắc(trong
ngũ uẩn)thanh tịnh, sắc thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh tịnh.
Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc sắc thanh tịnh, hoặc bất khả
đắc không thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy.
Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên thọ tưởng hành thức thanh tịnh, thọ
tưởng hành thức thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất
thiết trí trí thanh tịnh, hoặc thọ tưởng hành thức thanh tịnh, hoặc bất khả đắc
không thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên 12 xứ(6căn và 6
trần)thanh tịnh, 12 xứ thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh tịnh. Vì sao?
Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc 12 xứ thanh tịnh, hoặc bất khả đắc
không thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy. Nhất
thiết trí trí thanh tịnh nên 18 giới(6 căn 6 trần và 6 thức)
thanh tịnh, 18 giới thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh tịnh. Vì sao? Hoặc
Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc 18 giới thanh tịnh, hoặc bất khả đắc không
thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy. (Đoạn này
đã được rút gọn, không phải chính văn. Nguyên văn nói sáu căn hợp với sáu trần
thành 12 xứ và nếu cộng thêm sáu thức thì thành 18 giới, đúng ra phải thuyết
từng xứ, từng giới).
(…)Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên vô minh(trong
12 nhân duyên)thanh tịnh; vô minh thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh
tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc vô minh thanh tịnh, hoặc
bất khả đắc không thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt
vậy. Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc,
thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu nãothanh tịnh; hành cho đến
lão tử sầu thán khổ ưu não thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh tịnh. Vì sao?
Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc hành cho đến lão tử sầu than khổ ưu
não thanh tịnh, hoặc bất khả đắc không thanh tịnh không hai không hai phần, vì
không đoạn không diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên bố thí Ba la mật (trong
lục Ba la mật) thanh tịnh, bố thí Ba la mật thanh tịnh nên bất khả đắc
không thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc bố thí Ba la
mật thanh tịnh, hoặc bất khả đắc không thanh tịnh không hai không hai phần, vì
không đoạn không diệt vậy. Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên tịnh giới, an
nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật thanh tịnh; tịnh giới cho đến Bát
nhã Ba la mật thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất
thiết trí trí thanh tịnh, hoặc tịnh giới cho đến Bát nhã Ba la mật thanh tịnh,
hoặc bất khả đắc không thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không
diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên nội không(trong
18 pháp không) thanh tịnh, nội không thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh
tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc nội không thanh tịnh,
hoặc bất khả đắc không thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không
diệt vậy. Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên ngoại không, nội ngoại không,
không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh
không, vô tế không, vô biến dị không, bốn tánh không, tự tướng không, cộng
tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh
không, vô tánh tự tánh không thanh tịnh; ngoại không cho đến vô tánh tự
tánh không thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết
trí trí thanh tịnh, hoặc ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không thanh tịnh,
hoặc bất khả đắc không thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không
diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên chơn như thanh
tịnh, chơn như thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất
trí trí thanh tịnh, hoặc chơn như thanh tịnh, hoặc bất khả đắc không thanh tịnh
không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy. Nhất thiết trí trí
thanh tịnh nên pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh,
bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất
tư nghì giới thanh tịnh; pháp giới cho đến bất tư nghì giới thanh tịnh nên
bất khả đắc không thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc
pháp giới cho đến bất tư nghì giới thanh tịnh, hoặc bất khả đắc không thanh
tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy.
Thiện hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên khổ Thánh đế thanh
tịnh, khổ Thánh đế thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh tịnh. Vì sao? Hoặc
Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc khổ Thánh đế thanh tịnh, hoặc bất khả đắc
không thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy. Nhất
thiết trí trí thanh tịnh nên tập diệt đạo Thánh đế thanh tịnh, tập diệt
đạo Thánh đế thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất
thiết trí trí thanh tịnh, hoặc tập diệt đạo Thánh đế thanh tịnh, hoặc bất khả
đắc không thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên bốn tĩnh lự thanh
tịnh, bốn tĩnh lự thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh tịnh. Vì sao? Hoặc
Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc bốn tĩnh lự thanh tịnh, hoặc bất khả đắc
không thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy. Nhất
thiết trí trí thanh tịnh nên bốn vô lượng, bốn vô sắc định thanh tịnh; bốn
vô lượng, bốn định vô sắc thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh tịnh. Vì
sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc bốn vô lượng, bốn vô sắc định
thanh tịnh, hoặc bất khả đắc không thanh tịnh không hai không hai phần, vì
không đoạn không diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên tám giải thoát
thanh tịnh, tám giải thoát thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh tịnh. Vì sao?
Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc tám giải thoát thanh tịnh, hoặc bất
khả đắc không thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt
vậy. Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười
biến xứ thanh tịnh; tám thắng xứ,chín thứ đệ định, mười biến xứ thanh tịnh
nên bất khả đắc không thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh,
hoặc tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ thanh tịnh, hoặc bất khả đắc
không thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên bốn niệm trụ(trong
37 pháp trợ đạo) thanh tịnh, bốn niệm trụ thanh tịnh nên bất khả đắc không
thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc bốn niệm trụ thanh
tịnh, hoặc bất khả đắc không thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn
không diệt vậy. Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên bốn chánh đoạn, bốn thần
túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám Thánh đạo chi thanh tịnh; bốn
chánh đoạn cho đến tám Thánh đạo chi thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh
tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc bốn chánh đoạn cho đến
tám chánh đạo chi thanh tịnh, hoặc bất khả đắc không thanh tịnh không hai không
hai phần, vì không đoạn không diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên Không giải thoát môn(trong
Tam giải thoát môn) thanh tịnh, Không giải thoát môn thanh tịnh nên bất khả
đắc không thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc Không
giải thoát môn thanh tịnh, hoặc bất khả đắc không thanh tịnh không hai không
hai phần, vì không đoạn không diệt vậy. Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên vô
tướng, vô nguyện giải thoát môn thanh tịnh; vô tướng, vô nguyện giải thoát
môn thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí
trí thanh tịnh, hoặc vô tướng, vô nguyện giải thoát môn thanh tịnh, hoặc bất
khả đắc không thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt
vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên Bồ tát thập địa
thanh tịnh, Bồ tát thập địa thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh tịnh. Vì
sao? Hoặc nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc Bồ tát thập địa thanh tịnh, hoặc
bất khả đắc không thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt
vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên năm nhãn thanh tịnh, năm
nhãn thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết
trí trí thanh tịnh, hoặc năm nhãn thanh tịnh, hoặc bất khả đắc không thanh tịnh
không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy. Nhất thiết trí trí
thanh tịnh nên sáu thần thông thanh tịnh, sáu thần thông thanh tịnh nên
bất khả đắc không thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc
sáu thần thông thanh tịnh, hoặc bất khả đắc không thanh tịnh không hai không
hai phần, vì không đoạn không diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên Phật mười lực thanh
tịnh, Phật mười lực thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh tịnh. Vì sao? Hoặc
Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc Phật mười lực thanh tịnh, hoặc bất khả đắc
không thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy. Nhất
thiết trí trí thanh tịnh nên bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi,
đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng thanh tịnh; bốn vô sở úy cho
đến mười tám pháp Phật bất cộng thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh tịnh. Vì
sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc bốn vô sở úy cho đến mười tám
pháp Phật bất cộng thanh tịnh, hoặc bất khả đắc không thanh tịnh không hai
không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên pháp vô vong thất
thanh tịnh, pháp vô vong thất thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh tịnh. Vì
sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc pháp vô vong thất thanh tịnh,
hoặc bất khả đắc không thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không
diệt vậy. Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên tánh hằng trụ xả thanh tịnh, tánh
hằng trụ xả thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất
thiết trí trí thanh tịnh, hoặc tánh hằng trụ xả thanh tịnh, hoặc bất khả đắc
không thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên Nhất thiết trí(Tam
huệ) thanh tịnh, Nhất thiết trí thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh
tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí thanh
tịnh, hoặc bất khả đắc không thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn
không diệt vậy. Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên Đạo tướng trí, Nhất thiết
tướng trí thanh tịnh; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí thanh tịnh nên
bất khả đắc không thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc
Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí thanh tịnh, hoặc bất khả đắc không thanh
tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất trí trí thanh tịnh nên tất cả Đà la ni môn thanh tịnh,
tất cả đà la ni môn thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh tịnh, Vì sao? Hoặc
Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa môn thanh
tịnh, hoặc bất khả đắc không thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn
không diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên quả Dự lưu thanh
tịnh, quả Dự lưu thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất
thiết trí trí thanh tịnh, hoặc quả Dự lưu thanh tịnh, hoặc bất khả đắc không
thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy. Nhất thiết
trí trí thanh tịnh nên quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán thanh tịnh; quả
Nhất lai, Bất hoàn, A la hán thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh tịnh. Vì
sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán
thanh tịnh, hoặc bất khả đắc không thanh tịnh không hai không hai phần, vì
không đoạn không diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên Độc giác Bồ đề
thanh tịnh, Độc giác Bồ đề thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh tịnh. Vì sao?
Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc Độc giác Bồ đề thanh tịnh, hoặc bất
khả đắc không thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt
vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên tất cả hạnh Bồ tát thanh
tịnh, tất cả hạnh Bồ tát thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh tịnh. Vì sao?
Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc tất cả hạnh Bồ tát thạnh tịnh, hoặc
bất khả đắc không thanh tịnh, không hai không hai phần, vì không đoạn không
diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên quả vị Giác ngộ tối cao
thanh tịnh, quả vị Giác ngộ tối cao thanh tịnh nên bất khả đắc không thanh
tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc quả vị Giác ngộ tối cao
thanh tịnh, hoặc bất khả đắc không thanh tịnh không hai không hai phần, vì
không đoạn không diệt vậy.
Cái trục chính của đoạn kinh này là “Bất khả đắc không” mà Kinh
phải thuyết tất cả pháp Phật xoay dần chung quanh nó để thấy một pháp thanh
tịnh thì tất cả pháp có liên hệ cũng cùng thanh tịnh không đoạn, không diệt như
nhau.
2- “Chơn như” thanh tịnh (quyển 257
và 258,Hội thứ I, ĐBN):
Lại nữa, Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên sắc
thanh tịnh, sắc thanh tịnh nên chơn như thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất
thiết trí trí thanh tịnh, hoặc sắc thanh tịnh, hoặc chơn như thanh tịnh không
hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy. Nhất thiết trí trí thanh tịnh
nên thọ tưởng hành thức thanh tịnh, thọ tưởng hành thức thanh tịnh nên chơn như
thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc thọ tưởng hành
thức thanh tịnh, hoặc chơn như thanh tịnh không hai không hai phần, vì không
riêng không dứt vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên 12 xứ thanh tịnh,
12 xứ thanh tịnh nên chơn như thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí
trí thanh tịnh, hoặc 12 xứ thanh tịnh, hoặc chơn như thanh tịnh không hai không
hai phần, vì không đoạn không diệt vậy. Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên 18
giới thanh tịnh,18 giới thanh tịnh nên chơn như thanh tịnh. Vì sao? Hoặc
Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc 18 giới thanh tịnh, hoặc chơn như thanh
tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy. (Đoạn này cũng
được rút gọn như trên).
(…)Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên vô minh(trong
12 nhân duyên) thanh tịnh, vô minh thanh tịnh nên chơn như thanh tịnh. Vì
sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc vô minh thanh tịnh, hoặc chơn như
thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy. Nhất thiết
trí trí thanh tịnh nên hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu,
sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não thanh tịnh; hành cho đến lão tử sầu thán khổ
ưu não thanh tịnh nên chơn như thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí
thanh tịnh, hoặc hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não thanh tịnh, hoặc chơn
như thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên bố thí Ba la mật(trong
lục Ba la mật) thanh tịnh, bố thí Ba la mật thanh tịnh nên chơn như thanh
tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc bố thí Ba la mật thanh
tịnh, hoặc chơn như thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không
diệt vậy. Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh
lự, Bát nhã Ba la mật thanh tịnh; tịnh giới cho đến Bát nhã Ba la mật thanh
tịnh nên chơn như thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc
tịnh giới cho đến Bát nhã Ba la mật thanh tịnh, hoặc chơn như thanh tịnh không
hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên nội không(trong
18 pháp không) thanh tịnh, nội không thanh tịnh nên chơn như thanh tịnh. Vì
sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc nội không thanh tịnh, hoặc chơn
như thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy. Nhất
thiết trí trí thanh tịnh nên ngoại không, nội ngoại không, không không, đại
không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế
không, vô biến dị không, bốn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất
thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự
tánh không thanh tịnh; ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không thanh tịnh nên
chơn như thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc ngoại
không cho đến vô tánh tự tánh không thanh tịnh, hoặc chơn như thanh tịnh không
hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên chơn như(trong
pháp như) thanh tịnh, chơn như thanh tịnh nên pháp giới thanh tịnh. Vì sao?
Hoặc Nhất trí trí thanh tịnh, hoặc chơn như thanh tịnh, hoặc pháp giới thanh
tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy. Nhất thiết trí trí
thanh tịnh nên pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh,
bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất
tư nghì giới thanh tịnh; pháp giới cho đến bất tư nghì giới thanh tịnh nên
chơn như thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc pháp giới
cho đến bất tư nghì giới thanh tịnh, hoặc chơn như thanh tịnh không hai không
hai phần, vì không đoạn không diệt vậy.
Thiện hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên khổ Thánh đế(trong
Tứ đế) thanh tịnh, khổ Thánh đế thanh tịnh nên chơn như thanh tịnh. Vì sao?
Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc khổ Thánh đế thanh tịnh, hoặc chơn như
thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy. Nhất thiết
trí trí thanh tịnh nên tập diệt đạo Thánh đế thanh tịnh, tập diệt đạo Thánh đế
thanh tịnh nên chơn như thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh,
hoặc tập diệt đạo Thánh đế thanh tịnh, hoặc chơn như thanh tịnh không hai không
hai phần, vì không đoạn không diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên bốn tĩnh lự thanh
tịnh, bốn tĩnh lự thanh tịnh nên chơn như thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết
trí trí thanh tịnh, hoặc bốn tĩnh lự thanh tịnh, hoặc chơn như thanh tịnh không
hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy. Nhất thiết trí trí thanh tịnh
nên bốn vô lượng, bốn định vô sắc thanh tịnh; bốn vô lượng, bốn vô sắc
định thanh tịnh nên chơn như thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh
tịnh, hoặc bốn vô lượng, bốn vô sắc định thanh tịnh, hoặc chơn như thanh tịnh
không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên tám giải thoát
thanh tịnh, tám giải thoát thanh tịnh nên chơn như thanh tịnh. Vì sao? Hoặc
Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc tám giải thoát thanh tịnh, hoặc chơn như
thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy. Nhất thiết
trí trí thanh tịnh nên tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ thanh
tịnh; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ thanh tịnh nên chơn như
thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc tám thắng xứ, chín
thứ đệ định, mười biến xứ thanh tịnh, hoặc chơn như thanh tịnh không hai không
hai phần, vì không đoạn không diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên bốn niệm trụ(trong
37 pháp trợ đạo)thanh tịnh, bốn niệm trụ thanh tịnh nên chơn như thanh
tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc bốn niệm trụ thanh tịnh,
hoặc chơn như thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt
vậy. Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm
căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám Thánh đạo chi thanh tịnh; bốn chánh đoạn
cho đến tám Thánh đạo chi thanh tịnh nên chơn như thanh tịnh. Vì sao? Hoặc
Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc bốn chánh đoạn cho đến tám chánh đạo chi
thanh tịnh, hoặc chơn như thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn
không diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên Không giải thoát môn(Tam
giải thoát môn) thanh tịnh, Không giải thoát môn thanh tịnh nên chơn như
thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc Không giải thoát
môn thanh tịnh, hoặc chơn như thanh tịnh không hai không hai phần, vì không
đoạn không diệt vậy. Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên vô tướng, vô nguyện
giải thoát môn thanh tịnh; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn thanh tịnh
nên chơn như thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc vô
tướng, vô nguyện giải thoát môn thanh tịnh, hoặc chơn như thanh tịnh không hai
không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên Bồ tát thập địa
thanh tịnh, Bồ tát thập địa thanh tịnh nên chơn như thanh tịnh. Vì sao? Hoặc
Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc Bồ tát thập địa thanh tịnh, hoặc chơn như thanh
tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên năm nhãn thanh
tịnh, năm nhãn thanh tịnh nên pháp giới thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí
trí thanh tịnh, hoặc năm nhãn thanh tịnh, hoặc pháp giới thanh tịnh không hai
không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy.Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên sáu
thần thông thanh tịnh, sáu thần thông thanh tịnh nên pháp giới thanh tịnh.
Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc sáu thần thông thanh tịnh,
hoặc pháp giới thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt
vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên Phật mười lực thanh
tịnh, Phật mười lực thanh tịnh nên chơn như thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết
trí trí thanh tịnh, hoặc Phật mười lực thanh tịnh, hoặc chơn như thanh tịnh
không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy. Nhất thiết trí trí
thanh tịnh nên bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại
xả, mười tám pháp Phật bất cộng thanh tịnh; bốn vô sở úy cho đến mười tám
pháp Phật bất cộng thanh tịnh nên chơn như thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết
trí trí thanh tịnh, hoặc bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng thanh
tịnh, hoặc chơn như thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không
diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên pháp vô vong thất
thanh tịnh, pháp vô vong thất thanh tịnh nên chơn như thanh tịnh. Vì sao? Hoặc
Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc pháp vô vong thất thanh tịnh, hoặc chơn như
thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy. Nhất thiết
trí trí thanh tịnh nên tánh hằng trụ xả thanh tịnh, tánh hằng trụ xả
thanh tịnh nên chơn như thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh,
hoặc tánh hằng trụ xả thanh tịnh, hoặc chơn như thanh tịnh không hai không hai
phần, vì không đoạn không diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên Nhất thiết trí
thanh tịnh, nhất thiết trí thanh tịnh nên chơn như thanh tịnh. Vì sao? Hoặc
Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc chơn như
thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy. Nhất thiết
trí trí thanh tịnh nên Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí thanh tịnh; Đạo
tướng trí, Nhất thiết tướng trí thanh tịnh nên chơn như thanh tịnh. Vì sao?
Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí
thanh tịnh, hoặc chơn như thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn
không diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất trí trí thanh tịnh nên tất cả Đà la ni môn thanh
tịnh, tất cả Đà la ni môn thanh tịnh nên chơn như thanh tịnh, Vì sao? Hoặc Nhất
thiết trí trí thanh tịnh, hoặc tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa môn thanh tịnh,
hoặc chơn như thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt
vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên quả Dự lưu thanh
tịnh, quả Dự lưu thanh tịnh nên pháp giới thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết
trí trí thanh tịnh, hoặc quả Dự lưu thanh tịnh, hoặc chơn như thanh tịnh không
hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy. Nhất thiết trí trí thanh tịnh
quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán thanh tịnh; quả Nhất lai, Bất hoàn, A la
hán thanh tịnh nên chơn như thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí
thanh tịnh, hoặc quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán thanh tịnh, hoặc chơn như
thanh tịnh không hai không hai phần, vì không đoạn không diệt vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên Độc giác Bồ đề
thanh tịnh nên chơn như thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh,
hoặc Độc giác Bồ đề thanh tịnh, hoặc chơn như thanh tịnh không hai không hai
phần, vì không đoạn không diệt vậy.
Này Thiện Hiện! Vì Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên tất cả hạnh Bồ tát
thanh tịnh; vì tất cả hạnh Bồ tát thanh tịnh nên chơn như thanh tịnh. Vì sao?
Vì hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc tất cả hạnh Bồ tát thanh tịnh, hoặc
chơn như thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn
diệt.
Này Thiện Hiện! Vì Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên quả vị Giác ngộ tối
cao của chư Phật thanh tịnh; vì quả vị Giác ngộ tối cao của chư Phật thanh tịnh
nên chơn như thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc Nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc quả vị
Giác ngộ tôi cao của chư Phật thanh tịnh, hoặc chơn như thanh tịnh đều không
hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.
Ở đoạn này Kinh lấy “Chơn Như” làm trục chánh và tất cả các pháp
Phật xoay dần chung quanh trái trục chánh này như đoạn kinh ở trên.
Phải nói hai tiểu đoạn trên giống nhau như hai giọt nước, vì viết
cùng một “công thức” như nhau, nếu chúng ta đổi cụm từ “bất khả đắc không” với
“chơn như”. Đó chính là lý do chứng minh tại sao các pháp được tóm lược trong
toàn phẩm “Khó Tin Hiểu” như nhau, không khác!
Phụ đính 2:
E rằng tóm lược trên có nhiều thiếu
sót, nên không gì hơn là để dễ nắm toàn bộ phẩm “Khó Tin Hiểu”, chúng tôi trích
dẫn nguyên văn phần sau của phẩm “Tín Hủy”, Kinh MHBNBLMĐ (chỉ vỏn vẹn
khoảng một trang đánh máy), để quý vị có dịp đọc thêm và so sánh với 103 quyển,
tổng cộng 1075 trang đánh máy của phẩm “Khó Tin Hiểu”, ĐBN:
(…)Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào Bát nhã Ba la mật nầy rất sâu khó
tin, khó hiểu?”
Đức Phật
nói: “Nầy Tu Bồ Đề! Sắc chẳng trói, chẳng mở. Tại sao vậy? Vì tánh vô sở
hữu là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng trói chẳng mở. Tại sao vậy? Vì tánh vô
sở hữu là thọ, tưởng, hành, thức.
Đàn na Ba
la mật đến Bát nhã Ba la mật chẳng trói, chẳng mở. Tại sao vậy? Vì tánh vô sở
hữu là sáu Ba la mật.
Nội không
đến vô pháp hữu pháp không chẳng trói, chẳng mở. Tại sao vậy? Vì tánh vô sở hữu
là nội không đến vô pháp hữu pháp không.
Tứ niệm
xứ đến Nhất thiết trí và Nhất thiết chủng trí chẳng trói, chẳng mở. Tại sao
vậy? Vì tánh vô sở hữu là tứ niệm xứ đến Nhất thiết trí và Nhất thiết chủng trí
chẳng trói, chẳng mở. Tại sao vậy? Vì tánh vô sở hữu là tứ niệm xứ đến Nhất
thiết trí và Nhất thiết chủng trí.
Nầy Tu Bồ
Đề! Sắc bổn tế(1) chẳng trói, chẳng mở. Tại sao vậy? Vì bổn tế tánh vô sở hữu
là sắc.
Nhẫn đến
Nhất thiết chủng trí bổn tế chẳng trói, chẳng mở. Tại sao vậy? Vì bổn tế tánh
vô sở hữu là Nhất thiết chủng trí.
Nầy Tu Bồ
Đề! Sắc hậu tế nhẫn đến Nhất thiết chủng trí hậu tế chẳng chẳng trói, chẳng mở.
Tại sao vậy? Vì hậu tế vô sở hữu là sắc, nhẫn đến là Nhất thiết chủng trí.
Nầy Tu Bồ
Đề! Sắc hiện tại nhẫn đến Nhất thiết chủng trí hiện tại chẳng trói, chẳng mở.
Tại sao vậy? Vì hiện tại tánh vô sở hữu là sắc nhẫn đến là Nhất thiết chủng
trí”.
Ngài Tu
Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Những người chẳng chuyên cần tinh tấn, chẳng
gieo trồng căn lành, gần gũi bạn ác, giải đãi, ưa quên, không trí huệ thiện xảo
phương tiện, thiệt khó tin, khó hiểu Bát nhã Ba la mật”.
Đức Phật
nói: “Nầy Tu Bồ Đề! Đúng như vậy. Những người ấy thiệt khó tin khó hiểu Bát nhã
Ba la mật nầy. Tại sao vậy? Vì sắc thanh tịnh thời quả cũng thanh tịnh. Thọ,
tưởng, hành, thức thanh tịnh thời quả cũng thanh tịnh. Nhẫn đến Vô thượng
Bồ đề thanh tịnh thời quả cũng thanh tịnh (đoạn này nói về thanh tịnh).
Lại vì
sắc thanh tịnh tức là Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Bát nhã Ba la mật thanh
tịnh tức là sắc thanh tịnh. Nhẫn đến Nhất thiết chủng trí thanh tịnh tức
là Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Bát nhã Ba la mật thanh tịnh tức là Nhất thiết
chủng trí thanh tịnh.
Sắc thanh
tịnh và Bát nhã Ba la mật thanh tịnh không hai, không khác, không đoạn, không
hoại. Nhẫn đến Nhất thiết chủng trí thanh tịnh và Bát nhã Ba la mật thanh tịnh
không hai, không khác, không đoạn, không hoại.
Lại nầy
Tu Bồ Đề! Vì chẳng hai thanh tịnh nên sắc thanh tịnh. Vì chẳng hai thanh
tịnh nên Nhất thiết chủng trí thanh tịnh. Tại sao vậy? Vì chẳng hai thanh tịnh
nầy cùng sắc thanh tịnh đến Nhất thiết chủng trí thanh tịnh không hai, không
khác.
Vì ngã
thanh tịnh, chúng sanh đến tri giả, kiến giả thanh tịnh nên sắc nhẫn đến
Nhất thiết chủng trí thanh tịnh.
Vì sắc
nhẫn đến Nhất thiết chủng trí thanh tịnh nên ngã chúng sanh nhẫn đến tri giả,
kiến giả thanh tịnh. Tại sao vậy? Vì ngã đến kiến giả thanh tịnh nầy cùng với
sắc đến Nhất thiết chủng trí thanh tịnh chẳng hai, chẳng khác, không đoạn,
không hoại.
Nầy Tu Bồ
Đề! Vì tham, sân, si thanh tịnh nên sắc đến Nhất thiết chủng trí thanh
tịnh. Tại sao vậy? Vì tham, sân, si thanh tịnh cùng với sắc đến Nhất thiết
chủng trí thanh tịnh chẳng hai, chẳng khác.
Nầy Tu Bồ
Đề! Vì vô minh thanh tịnh nên hành thanh tịnh. Vì hành thanh tịnh
nên thức thanh tịnh. Vì thức thanh tịnh nên danh sắc thanh tịnh.
Vì danh sắc thanh tịnh nên lục nhập thanh tịnh. Vì lục nhập thanh tịnh
nên xúc thanh tịnh. Vì xúc thanh tịnh nên thọ thanh tịnh. Vì thọ
thanh tịnh nên ái thanh tịnh. Vì ái thanh tịnh nên thủ thanh
tịnh. Vì thủ thanh tịnh nên hữu thanh tịnh. Vì hữu thanh tịnh nên sanh
thanh tịnh. Vì sanh thanh tịnh nên lão tử thanh tịnh. Vì lão tử thanh tịnh
nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh (Kinh có ý nói 12 duyên khởi). Vì Bát nhã Ba
la mật thanh tịnh nên Thiền na thanh tịnh. Nhẫn đến vì Đàn na(lục Ba la mật)
thanh tịnh nên nội không thanh tịnh. Vì nội không thanh tịnh nên nhẫn đến vô
pháp hữu pháp không thanh tịnh (18 pháp không). Vì vô pháp hữu phápkhông (tức
nói 18 pháp không)thanh tịnh nên tứ niệm xứ nhẫn đến Nhất thiết trí thanh tịnh
(37 pháp trợ đạo). Vì Nhất thiết trí thanh tịnh nên Nhất thiết chủng trí thanh
tịnh (tam huệ).Tại sao vậy? Vì Nhất thiết trí nầy cùng với Nhất thiết chủng trí
không hai, không khác, không đoạn, không hoại.
Lại nầy
Tu Bồ Đề! Vì Bát nhã Ba la mật thanh tịnh nên sắc thanh tịnh. Nhẫn đến vì Bát
nhã Ba la mật thanh tịnh nên Nhất thiết trí thanh tịnh. Tại sao vậy? Vì Bát nhã
Ba la mật nầy cùng với Nhất thiết trí không hai, không khác.
Nầy Tu Bồ
Đề! Vì Thiền na Ba la mật thanh tịnh nên nhẫn đến Nhất thiết trí thanh tịnh.
Nhẫn đến vì Đàn na Ba la mật thanh tịnh nên nhẫn đến Nhất thiết trí thanh tịnh.
Vì nội không thanh tịnh nên nhẫn đến Nhất thiết trí thanh tịnh. Vì tứ niệm xứ
thanh tịnh nên nhẫn đến Nhất thiết trí thanh tịnh.
Nầy Tu Bồ
Đề! Vì Nhất thiết trí thanh tịnh nên nhẫn đến Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
Nầy Tu Bồ
Đề! Vì hữu vi thanh tịnh nên vô vi thanh tịnh. Tại sao vậy? Vì hữu vi thanh
tịnh nên vô vi thanh tịnh. Vì hữu vi thanh tịnh cùng với vô vi thanh tịnh không
hai, không khác, không đoạn, không hoại.
Nầy Tu Bồ
Đề! Vì quá khứ thanh tịnh nên vị lai và hiện tại thanh tịnh nên vị lai và hiện
tại thanh tịnh. Vì vị lai thanh tịnh nên quá khứ và hiện tại thanh tịnh. Vì
hiện tại thanh tịnh nên quá khứ và vị lai thanh tịnh. Tại sao vậy? Vì hiện tại
thanh tịnh cùng với quá khứ và vị lai thanh tịnh không hai, không khác, không
đoạn, không hoại vậy”.
Phải nói: Kinh viết cô động quá thì
đâm ra khó hiểu, còn dài dòng quá thì thành loãng. Chúng tôi cố gắng trình bày
cốt tủy của Kinh. Tóm lược, như phần sau phẩm “Tín Hủy” của Kinh MHBNBLMĐ, chỉ
vỏn vẹn có một trang giấy thì quá ngắn, nên khó hiểu; còn trùng tụng quá
nhiều như phẩm “Khó Tin Hiểu”, 103 quyển, tổng cộng có tới 1075 trang đánh
máy của Kinh ĐBN thì lại quá dài, có thể làm cho độc giả mệt mỏi.
Cũng nên ghi nhận rằng: Phật thuyết
Kinh, Phật không cho chép Kinh. Còn trùng tuyên Kinh trong các kỳ kết tập Kinh
điển lại do người khác làm, không phải Phật. Tuy nói thế nhưng không phải thế.
Chư Phật thuyết pháp độ sanh, chư Phật không muốn chúng sanh mệt mỏi. Phải đọc,
càng đọc càng trì tụng thì đến một lúc nào đó cái gì giấu kín trong tiềm thức
sẽ vỡ ra cho chúng ta những bông hoa tươi đẹp.
Như trên chúng tôi nói, tóm tắt kinh
cũng là điều lầm lỗi, nhưng chúng tôi nhận cái nghiệp này miễn những điều mà
chúng tôi xiển dương đem lại lợi ích cho chúng sanh!
Thích nghĩa phẩm “Tín Hủy”, Kinh MHBNBLMĐ:
(1). Bổn tế: Cội nguồn (bổn) và giới
hạn (tế) của tất cả các pháp. Ở đây Kinh nói đến đời sau (hậu tế), nói hiện
tại, nên có thể hiểu là tam tế hay tam thế.
Lược giải:
Phẩm này trước thuyết tất cả pháp từ
ngũ uẩn cho tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không buộc không mở, vì là vô sở hữu
nên không buộc không mở, vì cội nguồn của tất cả pháp trong ba đời cũng không
buộc không mở. Những người chẳng tinh tấn, giải đãi, chẳng gieo trồng căn lành,
gần gũi bạn ác, trí tuệ kém cỏi, không phương tiện thiện xảo... thật khó tin,
khó hiểu Bát nhã Ba la mật.
Phật bảo:
“Nầy Tu Bồ Đề! Đúng như vậy. Những
người ấy thiệt khó tin khó hiểu Bát nhã Ba la mật nầy. Tại sao vậy? Vì sắc
thanh tịnh thời quả cũng thanh tịnh. Thọ, tưởng, hành, thức thanh
tịnh thời quả cũng thanh tịnh. Nhẫn đến Vô thượng Bồ đề thanh tịnh thời quả
cũng thanh tịnh”.
Các chủ thể từ ngã, hữu tình, mạng
giả, sanh giả, dưỡng giả, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả… cho đến các uẩn
xứ giới và tất cả pháp Phật đều có cùng liên hệ nhân quả mật thiết với nhau.
Tất cả các pháp này(uẩn xứ giới và tất cả pháp Phật) quấn quýt nhau, tự xoay và
cùng xoay quanh một cái trục (chủ thể thanh tịnh) giống như các hành tinh trong
thái dương hệ mà trong đó mặt trời đứng chính giữa và các hành tinh, vệ tinh
xoay chung quanh. Tất cả hệ thống đó vận hành trong một cơ chế đặc biệt, có
liên hệ nhân quả với nhau. Một chủ thể thanh tịnh thì các chủ thể khác cùng
khởi theo, như nói “ngã thanh tịnh, nên sắc thanh tịnh, sắc thanh tịnh nên Nhất
thiết trí trí thanh tịnh v.v…và v.v..”..
Quyển 190, phẩm “Khó Tin Hiểu”, Hội
thứ I, ĐBN được trích dẫn làm thí dụ:
“Phật bảo: Thiện Hiện! Ngã thanh
tịnh tức là sắc thanh tịnh; sắc thanh tịnh tức là ngã thanh tịnh. Vì sao?
Vì ngã thanh tịnh ấy cùng với sắc thanh tịnh không hai, không khác, không đoạn
không hoại; ngã thanh tịnh tức là thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh;
thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh tức là ngã thanh tịnh. Vì sao? Vì ngã thanh
tịnh ấy cùng với thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh không hai, không khác, không
đoạn, không hoại.
Này Thiện Hiện! Ngã thanh tịnh tức
là nhãn xứ thanh tịnh; nhãn xứ thanh tịnh tức là ngã thanh tịnh. Vì sao?
Vì ngã thanh tịnh ấy cùng với nhãn xứ thanh tịnh không hai, không khác, không
đoạn, không hoại; ngã thanh tịnh tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thanh
tịnh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thanh tịnh tức là ngã thanh tịnh. Vì sao? Vì
ngã thanh tịnh ấy cùng với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thanh tịnh không hai,
không khác, không đoạn, không hoại.
Ngã thanh tịnh tức là sắc xứ
thanh tịnh; và tất cả các pháp từ nhãn giới, nhĩ giới, tỷ giới, thiệt giới, thân
giới, ý giới, địa giới, thập nhị nhân duyên, lục Ba la mật, mười tám pháp
không, chơn như, tứ Thánh đế, bốn tịnh lự, tám giải thoát, bốn niệm trụ, tam
giải thoát, thập địa Bồ tát, năm loại mắt, Phật mười lực, pháp không quên mất,
tánh hằng trụ xả, Nhất thiết trí, tất cả pháp môn Đà la ni, bốn quả Thanh văn,
quả vị Độc giác, tất cả hạnh Bồ tát, cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cũng lại
như thế”.
Nghĩa là Kinh đề cập đến ngã, kế đến
sắc thọ tưởng hành thức(tức năm uẩn), Kinh nhắc tới sắc xứ, nhãn xứ…(mười hai
xứ), rồi đến nhãn giới, thân giới, ý giới…(mười tám giới), thập nhị nhân duyên,
lục Ba la mật, mười tám pháp không, chơn như, Tứ đế, ba mươi bảy pháp trợ đạo,
tam giải thoát môn, Bồ tát thập địa, năm loại mắt, sáu phép thần thông, Phật
mười lực v.v…cho tới quả vị Giác ngộ tối cao (nói chung là tất cả pháp Phật hay
81 khoa danh tướng Bát Nhã), một pháp thanh tịnh thì tất cả pháp đều thanh
tịnh.
Đoạn Kinh kế tiếp thay vì lấy ngã
làm chủ đề thì lấy hữu tình, mạng giả, sanh giả, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến
giả…làm chủ đề để thuyết về thanh tịnh. Kinh thuyết: Một khi các chủ thể này
thanh tịnh, nên uẩn xứ giới cho đến tất cả pháp Phật đều thanh tịnh.
Chủ đề tiếp tục với tam độc tham
sân si: Một khi tham sân si hết hoành hành (thanh tịnh) thì các uẩn xứ giới
và tất cả pháp Phật trở nên vắng lặng(thanh tịnh). Các uẩn tạo thành chủ thể vì
quá náo nhiệt nên giác tâm mới lăng xăng! Một căn thanh tịnh thì các căn khác
đồng thanh tịnh, hoặc nói rộng ra một pháp thanh tịnh thì mười phương thế giới
như cát sông Hằng đồng thanh tịnh (Q. 201, phẩm “Khó Tin Hiểu”).
Ta có thể thấy (bất cứ
quyển nào trong 103 quyển thuộc phẩm “Khó Tin Hiểu”) một liên hệ nhân quả
giữa các pháp từ căn, trần, xứ, giới cho đến tất cả pháp Phật. Một pháp thanh
tịnh thì mười phương thế giới như cát sông Hằng đều thanh tịnh. Một tâm thanh
tịnh thì toàn thể quốc độ đều thanh tịnh. Trong toàn thể ĐBN không có phẩm nào
dài và nói nhiều về thanh tịnh như phẩm này. Vậy, mới biết thanh tịnh là một
pháp môn cực kỳ quan trọng trong việc tu tập để biến thức thành trí. Cứ tụng
đi, tụng mãi đi thì thức sẽ ngủ yên, và khi đó trí sẽ nhảy vào thay thế.
Nếu thấy tất cả pháp là giả danh,
giả thi thiết, các pháp là trì độn, các pháp là không thật, các pháp như huyễn
như mộng. Các pháp là không, bản tánh không, không có tự tánh, lấy vô tánh làm
tự tánh. Tất cả pháp là nhất tướng chỗ gọi là vô tướng. Các pháp trơ lì ra đó,
không phân biệt, không chấp, không thủ, không buộc không mở... Các pháp là như
như, như đó là bình đẳng, bình đẳng đó tức là thanh tịnh. Vì không tri giác
được cái nhiệm mầu như vậy, nên nói Bát nhã Ba la mật là thật khó tin hiểu.
Nhưng một khi hiểu được như thế thì không có gì là khó tin hiểu cả.
Tâm tịnh thì thế giới tịnh. Một pháp
thanh tịnh thì mười phương thế giới như cát sông Hằng đều thanh tịnh. Vì vậy,
nên nói Phật đạo được gọi là thanh-tịnh-đạo bởi các lý do đó.
Trong nhà thiền có câu chuyện là
Ngưỡng Sơn hỏi Thiền sư Trung ấp Hồng Ân trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, nguyên
văn như sau:
“Ngưỡng hỏi:
- Làm thế nào để kiến tánh?
Sư nói:
- Giả tỷ như có căn nhà. Căn nhà có
sáu cửa sổ. Trong nhà có con khỉ nhĩ hầu, góc đông kêu chóe chóe, bên ngoài cửa
sổ cũng có con nhĩ hầukêu chóe chóe ứng như thế. Sáu cửa đều kêu, đều ứng như
thế.
Ngưỡng Sơn lễ tạ rồi đứng dậy nói:
- Cám ơn Hòa thượng thí dụ, chẳng có
gì mà không hiểu biết. Nhưng có một chuyện là nếu như con nhĩ hầu bên trong mệt
mỏi ngủ, nhĩ hầu bên ngoài muốn nhìn thấy thì làm sau đây?
Sư bước xuống giường dây, nắm tay
Ngưỡng Sơn múa, nói:
- Chóe chóe cùng ông nhìn thấy nhau
rồi. Giống như con sâu tiêu mình nhỏ xíu làm tổ trên lông mi con ruồi, đi ra
phía ngã tư đường cái kêu gọi rằng đất rộng, người thưa, gặp nhau hiếm lắm”.
Con khỉ bị nhốt trong một cái lòng
có sáu cửa sổ, nếu có con khỉ khác ở bên ngoài đến một cửa chọc ghẹo thời con khỉ
ở trong sẽ đến cửa đó “khọt khẹt”. Nếu con khỉ bên ngoài đi qua cửa khác chọc
ghẹo thời con khỉ bên trong lại qua cửa đó khọt khẹt. Vậy, nếu con khỉ bên
trong ngủ yên thời sao?
Sáu cửa lòng tượng trưng cho sáu
căn(chủ). Con khỉ bên ngoài chọc ghẹo là trần(khách). Căn may mối cho trần,
trần chuyển thời tâm chuyển, chủ theo khách quên tâm. Nếu tâm lặng thời khách
đến khách đi mặc khách. Tâm lặng rồi thời sáu căn đều lặng. Tâm lặng như con
khỉ ngủ yên thời trần cảnh theo đó mà tự yên!
Tới đây chúng ta có thể phát biểu
được chưa?
“Một phút thanh tịnh là một phút ta
làm Phật”.
Thích nghĩa cho phần lược giải này:
(1). 25 cõi: Ý muốn nói đến thập nhị
ngũ hữu(25 cảnh giới hiện hữu) tức các chúng sanh tu đắc tứ thiền, tứ định vô
sắc được trở thành Thiên vương, Thiên tử trong ba cõi Dục, Sắc và Vô Sắc như đã
thích nghĩa ở phần thứ I Tổng luận.
---o0o---