PHẨM “KHEN CÁC ĐỨC”
Phần sau quyển 98 cho đến phần đầu quyển 99, Hội thứ I,
ĐBN.
(Tương đương phần cuối của phẩm “Tán Hoa” quyển thứ 09,
MHBNBLMĐ)
Gợi
ý:
Phẩm “Khen Các Đức” của Kinh ĐBN do Ngài Huyền Trang dịch
nằm ở phần cuối cũng là phần kết luận của phẩm “Tán Hoa” thuộc Kinh MHBNBLMĐ do
Ngài La Thập dịch. Phẩm này khen tặng Bát nhã Ba la mật là đại, là vô lượng, vô
biên... Nhất thừa học pháp này thì đắc quả A La Hán, Nhị thừa học pháp này thì
đắc Độc giác Bồ đề, Đại thừa học pháp này thì được quả vị Giác ngộ tối cao.
Tóm
lược:
Khi ấy, trời Đế Thích bạch Thiện Hiện: Bạch Đại đức! Bát nhã
Ba la mật mà đại Bồ tát tu hành là Ma ha Ba la mật(1), là vô lượng Ba la mật,
là vô biên Ba la mật. Bậc A la hán học pháp này thì đắc quả A la hán; bậc Độc
giác học pháp này thì đắc quả vị Độc giác; các đại Bồ tát học pháp này thì có
khả năng thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng đắc quả vị Giác ngộ tối
cao.
Thiện Hiện bảo: Đúng vậy! Như ông đã nói! Kiều Thi Ca! Bát
nhã Ba la mật mà đại Bồ tát tu hành là lớn, là vô lượng, là vô biên Ba la mật.
Bậc A la hán học pháp này thì đắc quả A la hán, bậc Bồ tát học pháp này thì đắc
quả vị Giác ngộ tối cao.
Kiều Thi Ca! Vì sắc là đại nên Bát Nhã cũng đại; vì
thọ, tưởng, hành, thức là đại nên Bát Nhã cũng đại. Vì sao? Vì sắc uẩn v.v...
khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được (2)nên nói là đại.
Mười hai xứ đại nên Bát Nhã cũng đại; mười tám giới đại nên Bát Nhã cũng đại.
Vì sao? Vì các xứ, giới khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên
nói là đại. Vì đất nước gió lửa... đại, nên Bát Nhã cũng nói là đại. Vì sao? Vì
các đại chủng khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
đại.
Vì tất cả pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ vô sắc định,
Tứ đế, 12 nhân duyên, 37 pháp trợ đạo, lục Ba la mật, các Đà la ni, Tam ma địa,
Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao là lớn nên Bát Nhã cũng đại. Vì
sao? Vì tất cả pháp Phật nói trên v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể
nắm bắt được nên nói là đại.
Vì sắc là vô lượng, nên Bát Nhã cũng vô lượng, vì thọ,
tưởng, hành, thức là vô lượng, nên Bát Nhã cũng vô lượng. Vì sao? Vì sắc uẩn
v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô lượng.
Mười hai xứ vô lượng nên Bát Nhã cũng vô lượng; mười tám giới
vô lượng nên Bát Nhã cũng vô lượng. Vì sao? Vì các xứ, giới khoảng trước, giữa,
sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô lượng. Vì các đại chủng (đất
nước gió lửa...) vô lượng, nên Bát Nhã cũng nói là vô lượng. Vì sao? Vì đại
chủng khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô lượng.
Vì tất cả pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ vô sắc định,
tứ Thánh đế, 12 nhân duyên, 37 pháp trợ đạo, lục Ba la mật v.v... cho đến quả
vị Giác ngộ tối cao là vô lượng nên Bát Nhã cũng vô lượng. Vì sao? Vì tất cả
pháp Phật nói trên khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói
là vô lượng.
Vì sắc là vô biên, nên Bát Nhã cũng vô biên, thọ,
tưởng, hành, thức là vô biên, nên Bát Nhã cũng vô biên. Vì sao? Vì sắc uẩn
v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là vô biên.
Mười hai xứ vô biên nên Bát Nhã cũng vô biên; vì mười tám giới vô biên nên Bát
Nhã cũng vô biên. Vì sao? Vì các xứ, giới khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể
nắm bắt được nên nói là vô biên. Vì đại chủng vô biên, nên Bát Nhã cũng nói là
vô biên.
Vì tất cả pháp Phật là vô biên, nên Bát Nhã cũng vô biên. Vì
sao? Vì tất cả pháp Phật nói trên khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt
được nên nói là vô biên. Vì tất cả pháp vô biên, nên Bát Nhã mà đại Bồ tát tu
hành cũng nói là vô biên.
Kiều Thi Ca! Do duyên cớ này nên tôi nói, vì sắc thảy vô biên
nên Bát Nhã cũng vô biên.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Sở duyên vô biên, nên đại Bồ tát sở
hành Bát Nhã cũng vô biên.
Khi ấy, Thiên Đế Thích hỏi Thiện Hiện rằng: Bạch Đại đức! Vì
sao sở duyên vô biên, nên sở hành của đại Bồ tát Bát Nhã cũng vô biên?
Thiện Hiện đáp: Kiều Thi Ca! Nhất thiết trí trí sở
duyên vô biên, nên sở hành của đại Bồ tát Bát Nhã cũng vô biên.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Pháp giới sở duyên vô biên, nên
sở hành của đại Bồ tát Bát Nhã cũng vô biên.
Thiên Đế Thích lại hỏi Thiện Hiện rằng: Bạch Đại đức! Vì sao
pháp giới sở duyên vô biên, nên sở hành của đại Bồ tát Bát Nhã cũng vô biên?
Thiện Hiện đáp: Pháp giới vô biên nên sở duyên cũng vô biên.
Pháp giới sở duyên vô biên, nên sở hành của đại Bồ tát Bát Nhã cũng vô biên.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Chơn như sở duyên vô biên, nên
sở hành của đại Bồ tát Bát Nhã cũng vô biên.
Khi ấy, Thiên Đế Thích hỏi Thiện Hiện rằng: Bạch Đại đức! Vì
sao chơn như sở duyên vô biên, nên sở hành của đại Bồ tát Bát Nhã cũng vô biên?
Thiện Hiện đáp: Kiều Thi Ca! Chơn như vô biên nên sở duyên
cũng vô biên, sở duyên vô biên nên chơn như cũng vô biên. Chơn như sở duyên vô
biên, nên sở hành của đại Bồ tát Bát Nhã cũng vô biên.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Hữu tình vô biên, nên sở hành
của đại Bồ tát Bát Nhã cũng vô biên.
Khi ấy, Thiên Đế Thích hỏi Thiện Hiện rằng: Vì sao hữu tình
vô biên, nên sở hành của đại Bồ tát Bát Nhã cũng vô biên?
Thiện Hiện hỏi lại: Kiều Thi Ca! Theo ý ngươi chỗ nói hữu
tình đây thì y cứ vào sở duyên gì mà gọi tên là hữu tình?
Thiên Đế Thích nói: Bạch Đại đức! Chỗ nói hữu tình, hữu tình
đây chẳng phải là giả pháp cũng chẳng phải là giả phi pháp. Chỉ là giả nhiếp
thuộc khách danh, nhiếp thuộc vô sự danh và nhiếp thuộc vô duyên danh(3).
Thiện Hiện lại nói: Kiều Thi Ca! Theo ý ngươi trong Bát Nhã
chỉ rõ có thật hữu tình chăng?
Thiên Đế Thích nói: Bạch Đại đức! Không.
Thiện Hiện bảo rằng: Kiều Thi Ca! Trong Bát Nhã đây, đã chẳng
chỉ rõ có thật hữu tình, nên nói hữu tình vô biên, vì chúng ở giữa, ở bên đều
chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca! Theo ý ngươi nếu các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác an trụ trải qua hằng sa kiếp thảy, thuyết danh tự các hữu tình, trong đây
vả có hữu tình có sanh có diệt chăng?
Thiên Đế Thích nói: Bạch Đại đức! Không. Vì sao? Vì các
hữu tình bản tính tịnh. Vì bản lai chúng vô sở hữu vậy.
Thiện Hiện bảo rằng: Kiều Thi Ca! Bởi duyên cớ này nên tôi
tác thuyết: Hữu tình vô biên, nên sở hành của đại Bồ tát Bát nhã Ba la mật cũng
vô biên. (Q.99, ĐBN)
Thích nghĩa:
(1). Ma ha Ba la mật: Ma ha (Phạm: Pàli: Mahà) Cũng
gọi Mạc ha, Ma hạ, Ma hê. Hán dịch: Đại. Hàm ý là nhiều, lớn, thù thắng, mầu
nhiệm; Ba la mật (Phạm: Pàramità, Pàli: Pàramì hoặc Pàramità) Tức là từ bờ sống
chết cõi mê bên này mà đến bờ Niết bàn giải thoát bên kia, còn gọi là Ba la mật,
Ba la nhĩ đa: Dịch ý là Đáo bỉ ngạn, Độ vô cực, Độ, Sự cứu kính. Thông thường,
nói về sự tu hành của Bồ tát, đại hạnh của Bồ tát có khả năng hoàn thành tất cả
mọi việc lợi mình lợi người một cách mỹ mãn rốt ráo, cho nên gọi là Sự cứu
kính. Làm theo hạnh lớn ấy mà có thể từ bờ sống chết bên này đến được bờ Niết
bàn bên kia, cho nên gọi là Đáo bỉ ngạn. Hạnh lớn ấy có khả năng cứu giúp mọi
loài một cách bao la vô hạn, cho nên gọi là Độ vô cực. Tiếng Phạm: Pàramità, có
các nghĩa đến bờ bên kia, trọn vẹn, đầy đủ; tiếng Pàli: Pàramì, thì có các
nghĩa tối thượng, chung cực. Hợp lại Ma ha Ba la mật là pháp lớn có thể giúp
mọi loài từ bờ sanh tử bên này sang bờ Niết bàn giải thoát bên kia.
(2). Không thể nắm bắt được dịch từ nhóm chữ “bất khả đắc”(不可得): Không thể được. Phạm:
An-upalambha. Tên khác của không. Dù có tìm cầu như thế nào đi nữa, cũng đều
không thể biết được. Phật giáo cho rằng, sự tồn tại của tất cả các pháp, không
có hình thái cố định bất biến, nếu có suy xét tìm cầu thì đều cũng không thể
được, gọi là bất khả đắc không. Danh từ bất khả đắc này bao hàm bốn nghĩa sau
đây : 1. Không thể được. 2. Không tồn tại. 3. Không bám dính tự thể tồn tại,
như các pháp chẳng thể được. 4. Đối với vật không xác định và không bản chất,
tìm cũng không thể được. (xt. Tứ Bất Khả Đắc)- Tự điển Phật Quang.
(3). Chỉ là giả nhiếp thuộc khách danh, nhiếp thuộc vô sự
danh và nhiếp thuộc vô duyên danh: Dịch nghĩa là “chỉ là giả thuộc cái danh
tạm, giả thuộc cái danh vô tích sự, giả thuộc cái danh vô căn cứ, vô gốc rễ”.
Lược
giải:
Bát nhã Ba la mật mà Bồ tát tu hành là đại, là vô lượng,
vô biên. A la hán học pháp này thì đắc A la hán, Độc giác học pháp này thì đắc
Độc giác, Bồ tát học pháp này thì có thể thành thục hữu tình, thanh tịnh quốc
độ chứng quả Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Vì ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới, các đại chủng khoảng trước,
khoảng giữa, khoảng sau đều không thể nắm bắt được nên nói là đại, là vô lượng,
vô biên. Tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế, 12 nhân duyên, thập nhị nhân chân
như, 18 pháp không, 37 pháp trợ đạo, đại từ đại bi đại hỷ đại xả... cho đến quả
vị Giác ngộ tối cao, khoảng trước, khoảng giữa, khoảng sau đều không thể nắm
bắt được nên nói là đại, là vô lượng, vô biên.
Sở duyên của chơn như, pháp giới, pháp tánh... vô biên,
nên sở hành của Bồ tát cũng vô biên. Cũng vậy, chúng sanh vô biên nên sở hành
của Bồ tát cũng vô biên.
Chúng sanh (là ngũ uẩn, tứ đại hợp thành) vô lượng nên
phiền não (là khách trần) cũng vô lượng. Chúng sanh vô biên nên phiền não cũng
vô biên. Chúng sanh vô tận nên phiền não cũng vô tận. Muốn đoạn phiền não vô
lượng, vô biên, vô tận đó thì phải học vô lượng, vô biên, vô tận pháp môn Phật
học. Kinh nói rằng: Tất cả pháp môn Phật đạo đều được thâu nhiếp vào Bát nhã Ba
la mật. Nếu tất cả pháp môn Phật đạo là vô lượng, vô biên, vô tận thì Bát nhã
Ba la mật cũng vô lượng, vô biên, vô tận thì mới có thể đoạn trừ sở duyên phiền
não vô lượng, vô biên, vô tận cho toàn thể chúng sanh.
Phẩm “Khen Ngợi Đức Thắng”, phần đầu quyển thứ 10, Hội thứ
I, ĐBN, tất cả chúng hội đều đứng lên, cất tiếng khen tặng Bát nhã Ba la mật: “Bạch
Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật mà đại Bồ tát sở hữu là Ba la mật vĩ đại; bạch Thế
Tôn! Bát nhã Ba la mật mà đại Bồ tát sở hữu là Ba la mật sâu rộng. Bạch Thế
Tôn! Bát nhã Ba la mật mà đại Bồ tát sở hữu là Ba la mật thù thắng, là thâm
diệu, là nhiệm mầu, là tôn quí; cao siêu, hơn hết, tột bực, vô thượng, tối
thượng, siêu đẳng, không gì bằng, tuyệt đối, như hư không...!”
Bệnh nhân càng nhiều, thì bác sĩ phải đông. Bệnh càng nặng
thì thuốc phải tốt. Bệnh nhân ví như chúng sanh. Bác sĩ ví như Bồ tát. Bệnh
nặng như phiền não. Thuốc tốt như Bát nhã Ba la mật. Tất cả đều phải tương ưng
với nhau. Nếu được như thế Bát nhã Ba la mật mới được tán tụng là mẹ của chư
Phật chư Bồ tát, là thuốc hay cứu độ trời người. Vậy, phải học Bát nhã Ba la
mật mới có thể thực hiện “Tứ hoằng thệ nguyện”:
“Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.
---o0o---