PHẨM “HẠNH NGUYỆN”
Phần đầu quyển 331, Hội thứ I, ĐBN
(Tương đương phần cuối phẩm “Mộng Hành” quyển thứ 19, MHBNBLMĐ)
Tóm
lược:
Này Thiện Hiện! Có đại Bồ tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy
các hữu tình bị lệ thuộc cảnh chúa tôi thì phát nguyện rằng: Ta phải
tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba la mật, thành thục hữu tình,
nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị Giác ngộ tối cao.
Trong cõi Phật của ta, không có ai là chúa, không có ai là tôi, ai muốn làm
việc gì đều được tự do, cho đến chẳng thấy hình tượng chúa tể, cũng chẳng nghe
danh tự chúa tể, chỉ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng pháp thống nhiếp gọi
là Pháp Vương.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát ấy do sáu phép Ba la mật này, mau
được viên mãn, gần gũi quả vị Giác ngộ tối cao.
Thiện Hiện! Có đại Bồ tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy các
hữu tình sống trong các cảnh giới sai biệt: Địa ngục, quỷ giới, súc
sanh, A tu la, nhơn, thiên, thấy rồi phát nguyện: Khi ta thành đạo, trong cõi
Phật ta, không các cảnh giới sai biệt cũng không có danh tự sai biệt là địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh v.v… Tất cả hữu tình đều cùng một loài, cùng tu một
pháp là lục Ba la mật, an trụ pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự
tánh; an trụ chơn như, an trụ pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật
tế v.v…; an trụ tứ Thánh đế, tu hành 37 pháp trợ đạo; tu hành bốn tịnh lự, bốn
vô lượng, bốn định vô sắc; tu hành tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ
đệ, mười biến xứ; tu hành tam giải thoát môn; tu hành năm loại mắt, sáu phép
thần thông; tu hành pháp môn Đà la ni, Tam ma địa; tu hành Phật mười lực, bốn
điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả,
mười tám pháp Phật bất cộng; tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; tu
hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; tu hành Bồ tát hạnh;
tu hành quả vị Giác ngộ tối cao.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát ấy do sáu phép Ba la mật này, mà
mau được viên mãn, gần gũi quả vị Giác ngộ tối cao.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ tát tu đủ sáu phép Ba la mật,
thấy các hữu tình sanh ra trong bốn loài sai biệt: Noãn sanh, thai sanh,
thấp sanh, hóa sanh(1). Thấy như vậy rồi, mới phát nguyện khi thành Phật rồi
trong cõi Phật Ta, các loài hữu tình đều là hóa sanh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ tát tu đủ sáu phép Ba la mật,
thấy các hữu tình không có năm loại thần thông, đối với việc làm không được
tự tại. Thấy rồi phát nguyện, nếu Ta thành Phật, trong cõi Ta các loại hữu
tình có năm tuệ thần thông đều được tự tại.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ tát tu đủ sáu phép Ba la mật,
thấy các hữu tình thọ dụng đoàn thực(2), thân có các thứ đại tiểu tiện, máu
mủ hôi thối, thật đáng chán bỏ, thệ nguyện rằng: Khi Ta thành Chánh Đẳng Chánh
giác rồi, trong cõi Phật của Ta, các hữu tình đều cùng thọ dụng món ăn diệu
pháp hỷ, thân thể thơm sạch, không có các việc đại tiểu tiện dơ uế.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ tát tu đủ sáu phép Ba la mật,
thấy các hữu tình thân không ánh sáng, có làm việc gì phải nhờ đến ánh
sáng bên ngoài. Nghĩ như thế rồi mới thệ nguyện: Nếu chứng quả vị Giác ngộ tối
cao, trong cõi Phật của ta, thân các loài hữu tình đầy đủ ánh sáng, chẳng nhờ
ánh sáng bên ngoài.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy
nơi cư ngụ của các hữu tình có ngày có đêm, có tháng nửa tháng, thời tiết
số năm, chuyển biến chẳng thường, thì ước nguyện rằng: Trong cõi Phật của ta,
không có ngày đêm, và tháng nửa tháng, thời tiết số năm v.v…
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ tát tu đủ sáu phép Ba la mật,
thấy các hữu tình tuổi thọ ngắn ngủi. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện:
Ta phải tinh cần, tu học, chóng mau chứng quả, khiến trong cõi Phật của ta, tuổi
thọ của các loài hữu tình dài lâu, khó biết kiếp số.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ tát tu đủ sáu phép Ba la mật,
thấy các hữu tình không có các tướng tốt, mới ước nguyện, khi Ta thành
Phật, cõi nước Ta, các loại hữu tình đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám
mươi vẻ đẹp phụ thuộc viên mãn.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ tát tu đủ sáu phép Ba la mật,
thấy loài hữu tình xa lìa các căn lành, mới phát nguyện: Trong cõi Phật
của ta, các loại hữu tình, tất cả đều thành tựu căn lành vi diệu thù thắng. Do căn
lành này, thường cúng dường chư Phật, nương vào phước lực này, tùy theo chỗ thọ
sanh, được hưởng nhiều phúc lợi.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ tát tu đủ sáu phép Ba la mật,
thấy các hữu tình có đủ các bệnh về thân tâm, mới phát nguyện: Khi Ta
thành Phật, cõi nước của ta, các loại hữu tình, thân tâm thanh tịnh, không có
nỗi khổ về bệnh, cho đến không nghe tên của các loại bệnh cũng chẳng nghe các
bệnh phiền não như tham, sân, si, mạn v.v…
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ tát tu đủ sáu phép Ba la mật,
thấy có hữu tình có đủ các ý thích: Hoặc có người thích hướng đến Thanh
văn thừa, hoặc có người thích hướng đến Độc giác thừa, hoặc có người thích
hướng đến Vô thượng thừa. Thấy như vậy rồi mới ước nguyện, khi Ta thành Phật
rồi thì cõi nước Ta chỉ có một thừa duy nhất, là Đại thừa mà thôi.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ tát tu đủ sáu phép Ba la mật,
thấy các hữu tình khởi tăng thượng mạn; chưa có thể thật sự xa lìa thập
ác mà cho ta đã tu xong thập thiện; chưa đắc thiền, chưa đắc định mà cho ta đắc
thiền, đắc định; chưa đắc tứ vô lượng mà cho ta đã hoàn tất từ, bi, hỷ, xả;
chưa đắc các thần thông mà cho là đã
chứng các thần thông; chưa đắc bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Kiến, bậc Bạc,
bậc Ly dục, bậc Dĩ biện mà cho là đắc bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Kiến, bậc
Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện; chưa đắc quả vị Độc giác mà cho là đắc quả vị Độc
giác; chưa đắc lục Ba la mật mà cho là đắc lục Ba la mật. Nói rộng ra, chưa đắc
tất cả pháp Phật mà cho rằng ta đã chứng đắc tất cả pháp Phật.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế
này: Ta phải làm thế nào để cứu giúp các loại hữu tình như thế, khiến họ xa lìa
sự kết buộc của tăng thượng mạn. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh
cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba la mật, thành thục hữu tình,
nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị Giác ngộ tối cao.
Trong cõi Phật của ta, không có hạng tăng thượng mạn như thế, tất cả hữu tình
lìa tăng thượng mạn.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ tát tu đủ sáu phép Ba la mật,
thấy các hữu tình chấp trước các pháp, đó là chấp trước sắc, chấp trước
thọ, tưởng, hành, thức; chấp trước 12 xứ, 18 giới; chấp trước tất cả pháp Phật.
Đại Bồ tát ấy, thấy việc đó rồi, phát thệ nguyện: Trong cõi Phật của ta, các
loại hữu tình không có các loại chấp trước như thế.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ tát tu đủ sáu phép Ba la mật,
thấy có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hào quang giới hạn, tuổi thọ giới hạn,
các chúng đệ tử số lượng giới hạn. Đại Bồ tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ
thế này: Ta làm thế nào để được hào quang vô lượng, thọ mạng vô lượng, và các
chúng đệ tử số lượng không giới hạn. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải
tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba la mật, thành thục hữu
tình, nghiêm tịnh cõi Phật khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị Giác ngộ tối
cao. Bấy giờ, thân ta hào quang vô lượng, thọ mạng vô lượng, số lượng đệ tử
được tăng lên vô lượng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ tát tu đủ sáu Ba la mật, thấy
cõi nước của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, có chu vi giới hạn. Đại Bồ tát
Ma ha tát này thấy việc đây rồi, liền nghĩ: Ta phải làm sao cho cõi Phật này có
chu vi vô hạn. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng
đoái thân mạng, tu hành sáu Ba la mật, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi
Phật khiến cho mau viên mãn chứng quả vị Giác ngộ tối cao. Đại thiên thế giới
mười phương đều như số cát sông Hằng hợp làm một cõi, Ta ở trong ấy thuyết pháp
giáo hoá vô lượng vô số vô biên hữu tình.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ tát tu đủ sáu Ba la mật, thấy
các hữu tình đường sanh tử quá dài, ác cõi hữu tình số ấy vô biên. Đại
Bồ tát này thấy việc đây rồi, liền nghĩ: Ngằn mé sanh tử y như hư không, các
cõi hữu tình cũng lại như thế. Tuy không thật có các loại hữu tình trôi lăn
trong sanh tử hoặc được Niết bàn, mà các hữu tình vọng chấp là có, xoay quanh
sanh tử, chịu khổ vô biên. Ta phải làm sao phương tiện cứu vớt. Đã suy nghĩ
rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành sáu Ba
la mật, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật khiến cho chóng chứng đắc quả
vị Giác ngộ tối cao. Vì các hữu tình thuyết Vô thượng pháp, đều khiến giải
thoát đại khổ sanh tử, cũng khiến chứng biết sanh tử, giải thoát đều vô sở hữu,
đều rốt ráo không.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này do sáu Ba la mật đây, mau được
viên mãn gần gũi Vô thượng Bồ đề.
Thích nghĩa:
(1). Hóa sanh: Noãn sanh là sanh ra từ trứng như trứng nở ra gà; thai sanh là sanh ra
từ bào thai như loài có vú; thấp sanh là sanh nơi ẩm thấp như muỗi. Hóa sanh
chỉ cho các loài không do cha mẹ sanh, mà do nghiệp lực sanh ra tùy theo họ ưa thích nơi nào liền thụ
sanh nơi đó. Những người tu theo Tịnh Độ chẳng hạn, niệm Phật viên mãn thì khi
chết hóa sanh từ các hoa sen trong cõi Cực lạc của Phật A Di Đà.
(2). Đoàn thực hay suyển thực là thức ăn vo tròn. Theo tục
lệ Ấn độ, dân Ấn không dùng muỗng nĩa để ăn mà hay dùng tay vo tròn thức ăn rồi bỏ vào miêng. Đoàn
thực, nói chung là thức ăn cõi Dục, chia làm hai loại: 1- Thô thực: Như cơm,
bánh, miến, mì v.v... 2- Tế thực: Như bơ, dầu, hương vị và các đồ uống v.v...
Lược
giải:
Phần cuối của phẩm “Mộng Hành” quyển thứ 19, MHBNBLMĐ nói
lên ước nguyện sâu xa của một vị Bồ tát giống như ước nguyện của Pháp Tạng
Tỳ kheo trong Kinh Vô Lượng Thọ trước khi thành Phật A di đà. Đó cũng là ước nguyện của Văn Thù, của Phổ Hiền, của Đức Quán Âm Bồ tát hoặc bất cứ một vị Bồ
tát nào trong hằng sa thế giới.
Tu Bồ tát đạo hay Bồ tát hạnh là thực hiện Bồ đề tâm,
quyết tâm đạt Bồ đề vì lợi ích của hữu tình, nhằm dẫn dắt cho chúng sanh đến
Niết bàn dầu phải trải qua bao thử thách gian khổ trong vô lượng kiếp.
Nhưng muốn thực hiện hạnh nguyện đó thì trước nhất phải tu đủ sáu phép Ba la
mật còn gọi là tu lục độ vạn hạnh mới có thể đạt Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, để
phục vụ chúng sanh. Hạnh nguyện của một vị Bồ tát là muốn thực hiện một thế
giới lý tưởng, tạo một mô hình gương mẫu mà vô lượng vô biên thế giới hằng ước
mơ về mọi phương diện vật chất cũng như tinh thần.
Phần cuối phẩm “Mộng Hành” quyển thứ 19, MHBNBLMĐ ghi
như sau:
“Đức Phật bảo Ngài
Tu Bồ Đề: “Có đại Bồ Tát lúc hành bố thí Ba la mật, hoặc thấy chúng sanh
đói rét, y phục rách rưới, phát nguyện rằng: Trong thời gian tôi hành bố thí Ba
la mật đó, nguyện lúc tôi thành Phật, chúng sanh trong cõi nước tôi không có sự
đói rét như vậy. Những đồ dùng, thức ăn, thức uống, y phục… giống như cõi Trời
Tứ Thiên Vương, Trời Đao Lợi, Trời Dạ Ma, Trời Đâu Suất, Trời Hóa Lạc, Trời Tha
Hóa Tự tại.
Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ
Tát tu hành như vậy thì có thể đầy đủ bố thí Ba la mật, gần kề Vô thượng Bồ đề.
Lại nầy Tu Bồ Đề!
Lúc hành trì giới Ba la mật, đại Bồ Tát thấy chúng sanh sát sanh, trộm
cướp nhẫn đến tà kiến, bị chết yểu, nhiều bịnh, tướng xấu, thiếu oai đức, nghèo
hèn, tàn tật, phải phát nguyện rằng: Trong thời gian tôi hành Trì giới Ba la
mật đây, nguyện lúc tôi thành Phật, chúng sanh trong cõi nước tôi không có
nghiệp ác và quả báo xấu như vậy.
Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ
Tát tu hành như vậy thì có thể đầy đủ Trì giới Ba la mật, gần kề Vô thượng Bồ
đề.
Lại này Tu Bồ Đề!
Lúc hành Nhẫn nhục Ba la mật, đại Bồ Tát thấy chúng sanh giận dữ, thù
ghét, mắng nhiếc, đánh đập, tàn sát lẫn nhau, phải phát nguyện rằng: Trong thời
gian tôi hành Nhẫn nhục Ba la mật đây, nguyện lúc tôi thành Phật, chúng sanh
trong cõi nước tôi không có những sự đó, tất cả đều xem nhau như cha, như mẹ,
như anh chị em, như thiện tri thức, đều có lòng từ bi.
Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ
Tát tu hành như vậy thì có thể đầy đủ Nhẫn nhục Ba la mật, gần kề Vô thượng Bồ
đề.
Lại này Tu Bồ Đề!
Lúc thực hành Tinh tấn Ba la mật, đại Bồ Tát thấy chúng sanh lười biếng,
chẳng siêng tu pháp lành, rời bỏ ba thừa Thanh Văn, Bích Chi Phật, Phật thừa,
phải phát nguyện rằng: Trong thời gian tôi hành Tinh tấn Ba la mật, nguyện lúc
tôi thành Phật, chúng sanh trong cõi nước tôi không có sự như vậy, tất cả đều
siêng tu tinh tấn, đều được đắc độ nơi pháp Nhất thừa.
Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ
Tát tu hành như vậy có thể đầy đủ Tinh tấn Ba la mật, gần kề Vô thượng Bồ đề.
Lại này Tu Bồ Đề!
Lúc hành Thiền Ba la mật, đại Bồ Tát thấy chúng sanh bị ngũ cái
che đậy: dâm dục, ngủ nghỉ, điệu hối, nghi ngờ, mất thiền, mất định, mất vô
lượng tâm, phát nguyện rằng: Lúc tôi tu Thiền Ba la mật, nguyện khi thành Phật,
chúng sanh trong cõi nước tôi đều không có sự như vậy.
Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ
Tát tu hành như vậy có thể đầy đủ Thiền Ba la mật, gần kề Vô thượng Bồ đề.
Lại này Tu Bồ Đề!
Lúc hành Bát nhã Ba la mật, đại Bồ Tát thấy chúng sanh ngu si, mất chánh
kiến thế gian, xuất thế gian hoặc cho rằng không nghiệp, không nhân duyên, hoặc
cho rằng thân là thường còn, hoặc cho rằng đoạn diệt, hoặc nói là vô sở hữu,
phải phát nguyện rằng: Trong thời gian tôi hành Bát nhã Ba la mật, tịnh Phật
quốc độ, thành tựu chúng sanh, nguyện lúc tôi thành Phật, chúng sanh trong cõi
nước tôi không có sự như vậy.
Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ
Tát tu hành như vậy thì có thể đầy đủ Bát nhã Ba la mật, gần kề Vô thượng Bồ
đề.
Lại này Tu Bồ Đề! Lúc
hành sáu Ba la mật, đại Bồ Tát thấy chúng sanh an trụ nơi ba tụ: Một là
chánh định tụ, hai là tà định tụ, ba là bất định tụ, phải phát nguyện rằng: Lúc
tôi hành lục Ba la mật, tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh, nguyện khi tôi
thành Phật, chúng sanh trong cõi nước tôi không có tà định tụ, cũng không có
danh từ tà tụ.
Nầy Tu Bồ Đề! Đại Bồ
Tát tu hành như vậy có thể đầy đủ sáu Ba la mật, gần kề Nhất thiết tướng trí”.
Chúng ta có thể lấy “Tứ hoằng thệ nguyện” sau đây
làm châm ngôn để kết luận cho phẩm “Hạnh Nguyện” này:
“Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.