PHẨM “TRÍ HƯỚNG ĐẾN”
Phần sau quyển 316 đến phần đầu quyển
318, Hội thứ I, ĐBN.
(Tương đương với quyển thứ 17 , phẩm “Xu Hướng Nhất
Thiết Trí”MHBNBLMĐ)
Tóm
lược:
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đối với Bát nhã
Ba la mật sâu xa như thế, ai có thể phát sanh tin, hiểu?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát, từ lâu đối với quả vị Giác ngộ
tối cao phát tâm hướng cầu, tinh cần tu hành, đã từng cúng dường trăm ngàn muôn
ức Phật, ở chỗ chư Phật phát nguyện rộng lớn, thiện căn thuần thục, được vô
lượng thiện hữu nhiếp thọ thì đối với Bát nhã Ba la mật sâu xa như vậy, mới có
khả năng phát sanh tin, hiểu.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát đối với Bát
nhã Ba la mật sâu xa như thế có khả năng phát sanh tin hiểu, thì phải có tánh
gì, tướng gì, trạng gì, mạo gì?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát ấy điều phục tánh tham, sân, si làm
tánh; xa lìa tướng tham, sân, si làm tướng; xa lìa trạng thái tham,
sân, si làm trạng; xa lìa diện mạo tham, sân, si làm mạo.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ tát ấy điều phục tánh tham - vô tham; sân -
vô sân; si - vô si làm tánh; xa lìa tướng tham - vô tham; sân - vô sân; si - vô
si làm tướng; xa lìa trạng thái tham - vô tham; sân - vô sân; si - vô si làm
trạng; xa lìa diện mạo tham - vô tham; sân - vô sân; si - vô si làm mạo.
Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát thành tựu tánh, tướng, trạng, mạo như thế
thì đối với Bát nhã Ba la mật sâu xa ấy mới có khả năng phát sanh tin, hiểu.
Nếu đại Bồ tát có khả năng tin hiểu Bát nhã Ba la mật sâu xa này thì mới
có khả năng hướng đến Nhất thiết trí trí; nếu có khả năng hướng đến Nhất thiết
trí trí thì mới có khả năng làm chỗ hướng về cho tất cả hữu tình.
Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát ấy có khả năng làm
việc khó làm đó là mang giáp mũ kiên cố(1) thế này: Ta sẽ độ thoát tất cả hữu
tình, đều khiến chứng đắc Niết bàn rốt ráo. Tuy đối với hữu tình làm việc như
vậy, nhưng hoàn toàn chẳng thấy có hữu tình nào được an lập(2).
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ông đã nói. Đại Bồ tát
ấy có khả năng làm việc khó làm, đó là mang giáp mũ kiên cố như vầy: Ta sẽ độ
thoát tất cả hữu tình, khiến đều chứng đắc Niết bàn rốt ráo. Tuy đối với hữu
tình làm việc như vậy, nhưng hoàn toàn chẳng thấy có hữu tình nào được an lập.
Lại nữa, Thiện Hiện! Giáp mũ mà đại Bồ tát ấy đã mang, đội chẳng thuộc
sắc. Vì sao? Vì sắc rốt ráo không có sở hữu. Không có (phi) Bồ tát,
không (phi) giáp mũ nên nói giáp mũ kia chẳng thuộc sắc(3). Giáp mũ mà
đại Bồ tát ấy đã mang, đội chẳng thuộc thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì thọ,
tưởng, hành, thức rốt ráo không có sở hữu. không có Bồ tát, không giáp mũ nên
nói giáp mũ kia chẳng thuộc thọ, tưởng, hành, thức. (Q.317, ĐBN)
Này Thiện Hiện! Giáp mũ mà đại Bồ tát ấy đã mang, đội chẳng thuộc mười
hai xứ, mười tám giới. Vì sao? Vì mười hai xứ, mười tám giới rốt ráo không có
sở hữu. Không có Bồ tát, không giáp mũ nên nói giáp mũ kia chẳng thuộc mười hai
xứ, mười tám giới. Giáp mũ mà đại Bồ tát ấy đã mang, đội chẳng thuộc tất cả
pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, tứ Thánh đế, mười hai duyên
khởi, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí…
cho đến quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì tất cả pháp Phật rốt ráo không có
sở hữu. Không có Bồ tát, không giáp mũ nên nói giáp mũ kia chẳng thuộc tất cả
pháp Phật.
Này Thiện Hiện! Giáp mũ mà đại Bồ tát ấy mang, đội chẳng thuộc tất cả
pháp. Vì sao? Vì tất cả pháp rốt ráo không có sở hữu. Không có Bồ tát, không
giáp mũ nên nói giáp mũ kia chẳng thuộc tất cả pháp.
Đại Bồ tát ấy chẳng phải vì độ thoát một số ít hữu tình mà mang giáp,
đội mũ, cũng chẳng phải vì cầu một phần nhỏ trí mà mang giáp, đội mũ, mà đại Bồ
tát ấy vì cứu vớt tất cả hữu tình khiến nhập Niết bàn nên mang giáp, đội mũ.
Đại Bồ tát ấy chỉ vì cầu chứng đắc Nhất thiết trí trí mà mang giáp, đội mũ. Do
nhân duyên này đại Bồ tát ấy chẳng rơi vào bậc Thanh văn, Độc giác.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật
như vậy rất sâu xa không có người năng tu, không có pháp sở tu, cũng không có
chỗ tu, cũng không do pháp này mà được tu tập. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Chẳng phải
trong ý nghĩa sâu xa của Bát nhã Ba la mật này có một phần nhỏ thật pháp có thể
đạt được để gọi là người năng tu và pháp sở tu, hoặc chỗ tu tập, hoặc do pháp
này mà tu tập.
Bạch Thế Tôn! Nếu tu hư không là tu Bát nhã Ba la mật. Nếu tu tất cả
pháp(4) là tu
Bát nhã Ba la mật. Nếu tu pháp chẳng thật(5) là tu Bát nhã Ba la mật.
Nếu tu vô sở hữu là tu Bát nhã Ba la mật. Nếu tu không nhiếp thọ là tu Bát nhã
Ba la mật. Nếu tu trừ khiển(6) là tu Bát nhã Ba la mật.
Phật hỏi: Này Thiện Hiện! Tu trừ khiển những gì mà được coi là tu Bát
nhã Ba la mật?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Tu trừ khiển sắc là tu Bát nhã Ba la mật;
tu trừ khiển thọ, tưởng, hành, thức là tu Bát nhã Ba la mật. Nếu tu trừ khiển
mười hai xứ, mười tám giới là tu Bát nhã Ba la mật; tu trừ khiển tứ thiền, tứ
vô lượng, tứ định vô sắc, tứ Thánh đế, mười hai duyên khởi, ba mươi bảy pháp
trợ đạo, mười tám pháp Phật bất cộng… là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển
Nhất thiết trí là tu Bát nhã Ba la mật; tu trừ khiển Đạo tướng trí, Nhất thiết
tướng trí là tu Bát nhã Ba la mật.
Lúc bấy giờ, Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện: Này Thiện Hiện! Nên nương vào Bát
nhã Ba la mật sâu xa để nghiệm biết đại Bồ tát bất thối chuyển. Nếu đại Bồ tát
đối với Bát nhã Ba la mật, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí chẳng sanh
chấp trước, thì nên biết đó là đại Bồ tát bất thối chuyển.
Nếu đại Bồ tát đối với pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự
tánh chẳng sanh chấp trước, thì nên biết đó là đại Bồ tát bất thối chuyển. Nếu
đại Bồ tát đối với chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh
chẳng đổi khác, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế…
chẳng sanh chấp trước, thì nên biết đó là đại Bồ tát bất thối chuyển. Nếu đại
Bồ tát đối với tất cả pháp Phật chẳng sanh chấp trước, thì có thể nghiệm biết
đó là đại Bồ tát bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Có các đại Bồ tát bất thối chuyển tu hành thậm thâm Bát
nhã Ba la mật, chẳng quán chiếu lời lẽ và sự dạy bảo của kẻ khác cho là chơn
yếu. Có các đại Bồ tát bất thối chuyển tu hành thậm thâm Bát nhã Ba la mật,
chẳng phải chỉ tin người có sở tác. Có các đại Bồ tát bất thối chuyển tu hành
thậm thâm Bát nhã Ba la mật, chẳng bị tâm tham dẫn dắt, chẳng bị tâm sân dẫn
dắt, chẳng bị tâm si dẫn dắt, chẳng bị tâm kiêu mạn dẫn dắt, chẳng bị các loại
tâm tạp nhiễm khác dẫn dắt. Có các đại Bồ tát bất thối chuyển tu hành thậm thâm
Bát nhã Ba la mật chẳng lìa bố thí, chẳng lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn,
tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Có các đại Bồ tát bất thối chuyển nghe nói Bát nhã
Ba la mật thậm thâm như vậy, tâm họ chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi, chẳng
chìm, chẳng đắm, cũng chẳng thối bỏ; đối với Bát nhã Ba la mật sâu xa hoan hỷ,
ưa nghe, thọ trì, đọc tụng, rốt ráo thông suốt, gắn chặt tư duy, như thuyết tu
hành, không hề mệt mỏi.
Này Thiện Hiện! Nên biết, đại Bồ tát bất thối chuyển ấy vì đời trước đã
nghe nghĩa lý Bát nhã Ba la mật thậm thâm, thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy,
như thuyết tu hành, không hề mệt mỏi.
Đại Bồ tát ấy muốn thâm nhập Nhất thiết trí trí thì phải liên
tục, tùy thuận, hướng đến, thâm nhập pháp không, vô tướng, vô
nguyện. Đó là đại Bồ tát liên tục, tùy thuận, hướng đến, thâm nhập Nhất
thiết trí trí để tu hành thậm thâm Bát nhã Ba la mật.
Nếu đại Bồ tát liên tục, tùy thuận, hướng đến, thâm nhập hư không, vô
sở hữu, vô sanh - vô diệt, vô nhiễm - vô tịnh để tu hành Bát Nhã thì đó là
đại Bồ tát liên tục, tùy thuận, hướng đến, thâm nhập Nhất thiết trí trí để tu
hành thậm thâm Bát nhã Ba la mật.
Nếu đại Bồ tát liên tục, tùy thuận, hướng đến, thâm nhập chơn như,
pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, bình đẳng
tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì
giới để tu hành Bát Nhã thì đó là đại Bồ tát liên tục, tùy thuận, hướng đến,
thâm nhập Nhất thiết trí trí để tu hành thậm thâm Bát nhã Ba la mật.
Nếu đại Bồ tát liên tục, tùy thuận, hướng đến, thâm nhập không tạo
tác để tu hành Bát Nhã thì đó là đại Bồ tát liên tục, tùy thuận, hướng đến,
thâm nhập Nhất thiết trí trí để tu hành thậm thâm Bát nhã Ba la mật.
Nếu đại Bồ tát liên tục, tùy thuận, hướng đến, thâm nhập huyễn, mộng,
tiếng vang, ảnh tượng, bóng sáng, bóng nắng, sự biến hóa, ảo thành để tu
hành Bát Nhã, thì đó là đại Bồ tát liên tục, tùy thuận, hướng đến, thâm
nhập Nhất thiết trí trí để tu hành thậm thâm Bát nhã Ba la mật.
“Phật đã dạy, nếu đại Bồ tát liên tục, tùy thuận, hướng đến, thâm nhập không,
vô tướng, vô nguyện, hư không, vô sở hữu, vô sanh - vô diệt, vô nhiễm - vô
tịnh, chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác,
bình đẳng tánh, ly sanh tánh, định pháp, trụ pháp, thật tế, hư không giới, bất
tư nghì giới, vô tạo tác, huyễn, mộng, tiếng vang, ảnh tượng, bóng sáng, bóng
nắng, việc biến hóa, ảo thành để tu hành Bát Nhã thì đó là đại Bồ tát liên tục,
tùy thuận, hướng đến, thâm nhập Nhất thiết trí trí để tu hành thậm thâm Bát nhã
Ba la mật”. (Q. 318, ĐBN)
Muốn đạt đến Nhất thiết trí trí đại Bồ tát ấy chẳng hành sắc, chẳng hành
thọ, tưởng, hành, thức. Đại Bồ tát ấy cũng chẳng hành mười hai xứ, mười tám
giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết
trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao.
Vì sự tùy thuận, hướng đến, thâm nhập Nhất thiết trí trí của đại Bồ tát ấy,
không năng tác, không năng hoại, không từ đâu đến, không đi đến đâu, cũng không
chỗ trụ, không phương cõi, không số lượng, không vãng lai.
Nhất thiết trí trí như thế đã không số lượng, không vãng lai, không thể
nắm bắt được nên cũng không thể chứng đắc. Nhất thiết trí trí như thế, chẳng
thể dựa vào sắc để chứng, chẳng thể dựa vào thọ, tưởng, hành, thức để chứng.
Nhất thiết trí trí như thế, chẳng thể dựa vào mười hai xứ, mười tám giới, tứ
thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo
tướng trí, Nhất thiết chủng trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao để chứng. Vì
sắc tức là Nhất thiết trí trí; thọ, tưởng, hành, thức tức là Nhất thiết trí
trí; vì mười hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, mười
tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí… cho đến
quả vị Giác ngộ tối cao hay nói chung tất cả pháp Phật tức là Nhất thiết trí
trí.
Vì sao? Thiện Hiện! Hoặc sắc như, hoặc Nhất thiết trí trí như hoặc tất
cả pháp như, đều một như không hai không khác; hoặc thọ tưởng hành thức như,
hoặc Nhất thiết trí trí như, hoặc tất cả pháp như, đều một như không hai không
khác v.v...
Thích nghĩa:
(1). Mang giáp mũ kiên cố, mặc giáp bị đại thừa hay mặc giáp bị đại công
đức, Hán ngữ dùng cụm từ “擐 hoàn 大 Đại 乘 Thừa 鎧 khải”. Kinh MHBNBLMĐ gọi là “đại thệ trang nghiêm”
cũng gọi “hoằng thệ nguyện” như đã thích nghĩa trong phẩm “Ma Ha Tát” và phẩm “Giáp
Bị Đại Thừa”.
(2). An lập: (安立) đã thích
nghĩa trong phẩm “Trước và Chẳng Trước Tướng”. Nói nôm na an lập là “xếp đặt
cho yên thân y chốn”.
(3). Không có (phi) Bồ tát, Không (phi) giáp mũ nên nói giáp mũ kia
chẳng thuộc sắc. Nguyên văn bằng chữ Hán là
“非 phi 菩 Bồ 薩 Tát 非 phi 甲 giáp 冑 trụ 故
cố . 說thuyết 彼 bỉ 甲 giáp 冑 trụ 不 bất 屬 thuộc 色 sắc”.
(4). Nếu tu tất cả pháp là tu Bát nhã Ba la mật, nguyên văn là “若 nhược 修 tu
一 nhất 切 thiết 法 pháp 是 thị 修 tu”. Như vậy,
cụm từ tu “tất cả pháp” là dịch từ chữ Hán “Nhất thiết pháp” (s: sarva-dharma,
p: sabba-dhamma) có nghĩa là tất cả các pháp, hết thảy các pháp, toàn bộ các
pháp, còn có tên là nhất thiết vạn pháp. Hết thảy các pháp là tên gọi chung bao
gồm tất cả vạn hữu. Đại Trí Độ Luận 2 có đoạn rằng: “Nhất thiết pháp lược
thuyết hữu tam chủng, nhất giả hữu vi pháp, nhị giả vô vi pháp, tam giả bất khả
thuyết pháp, thử tam kỷ nhiếp nhất thiết pháp (dịch: hết thảy các pháp nói tắt
có 3 loại, một là pháp hữu vi, hai là pháp vô vi, ba là pháp không thể nói được;
cả 3 loại này gồm thâu hết thảy các pháp”- Phật học Tinh tuyển. Tất cả pháp
trong bản dịch này là nhất thiết pháp. Chúng tôi giữ y lời dịch khi tóm lược, không
sửa đổi!
(5). Nếu tu pháp chẳng thật là tu Bát nhã Ba la mật, nguyên văn bằng chữ
Hán là 若 nhược 修 tu 不 bất 實 thật 法 pháp 是 thị 修 tu. Cụm từ “pháp chẳng thật” dịch từ
chữ Hán “bất thật pháp”.
(6). Khiển và trừ khiển:
- 1. Khiển: Trách hay ra lệnh như cha trách con không nên làm như vậy
nữa.
- 2. Trừ khiển: Trừ là bỏ; khiển là trách: Bỏ đừng trách nữa
như mẹ trách lại cha: Trách con như vậy không đúng, không nên trách như vậy.
Lược giải:
Mục tiêu kỳ cùng, tối hậu của hành giả Bát nhã Ba la mật là hướng đến
Giác ngộ, đạt Chánh giác và Nhất thiết trí trí. Không có Giác
ngộ, không có Chánh giác, không có Nhất thiết trí trí thì không phải là Bát Nhã.
Vậy, điều kiện để đạt Nhất thiết trí trí thì phải chứng Bát nhã Ba la mật, rồi
mới có khả năng thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ hay nói khác mới có
khả năng làm chỗ quy hướng cho tất cả hữu tình. Đó là mục tiêu của người hành
Bồ tát đạo. Nên Kinh nói: “Nếu đại Bồ tát có khả năng tin hiểu Bát nhã Ba la
mật sâu xa này thì mới có khả năng hướng đến Nhất thiết trí trí; nếu có khả
năng hướng đến Nhất thiết trí trí thì mới có khả năng làm chỗ hướng về cho tất
cả hữu tình”.
Phẩm “So Lường Công Đức” quyển 106, Hội thứ I, ĐBN. Phật bảo trời Đế Thích: “(...) Kiều
Thi Ca! Muốn chứng đắc Nhất thiết trí trí của chư Phật, phải cầu Bát nhã Ba la
mật; muốn chứng đắc Bát Nhã, phải cầu Nhất thiết trí trí của chư Phật. Vì sao?
Vì Nhất thiết trí trí của chư Phật đã chứng đắc, đều được phát sanh từ Bát Nhã;
Bát Nhã như thế đều được phát sanh từ Nhất thiết trí trí của chư Phật. Vì sao?
Vì Nhất thiết trí trí của chư Phật đã chứng đắc chẳng khác Bát Nhã; Bát Nhã như
thế chẳng khác Nhất thiết trí trí của chư Phật. Nhất thiết trí trí của chư Phật
đã chứng đắc cùng với Bát Nhã này, nên biết, không hai, không khác. Vì vậy, nên
công đức oai thần của Bát nhã Ba la mật thật là hy hữu”.
Phẩm “Tôn Đạo” quyển 10, MHBNBLMĐ, cũng nói:
“Muốn được Nhất thiết trí phải
tìm cầu trong Bát nhã Ba la mật. Muốn được Bát nhã Ba la mật phải tìm cầu trong
Nhất thiết trí”.
Hai đoạn Kinh trên đủ để chứng minh sự hỗ tương sinh khởi giữa Bát nhã
Ba la mật và Nhất thiết trí trí. Muốn làm chỗ nương tựa, làm chỗ hướng về...
cho tất cả hữu tình thì Bồ tát phải đạt ngộ, muốn đạt ngộ phải tu hành Bát Nhã,
có tu hành Bát Nhã mới có thể hướng đến Nhất thiết trí trí. Đó là con đường tất
yếu, không có giải pháp nào khác.
Tuy nhiên, để đắc Bát Nhã hay Nhất thiết trí trí thì Bồ tát cần tu khổ
hạnh, cúng dường trăm ngàn muôn ức Phật, ở chỗ chư Phật phát nguyện rộng lớn,
tu tập thiện căn, chứa nhóm công đức, nhưng phải được vô
lượng thiện hữu nhiếp thọ thì đối với Bát nhã Ba la mật sâu xa như vậy, mới có
khả năng phát sanh tin, hiểu.
1. “Tu không nhiếp thọ là tu Bát
nhã Ba la mật”:
Suốt 600 quyển Đại Bát Nhã hầu như chỗ nào Kinh cũng khuyến cáo hành giả
Bát Nhã muốn Giác ngộ, muốn thành bậc Chánh giác hay được Nhất thiết trí trí
thì phải nhiếp thọ Bát Nhã. Phẩm "Các Dụ" quyển 312, Hội
thứ I, ĐBN, mới vừa thuyết ở trên, Phật bảo “... tu Bát
Nhã là phải nhiếp thọ tất cả pháp Phật hay nói khác là phải nhiếp thọ Bát nhã
Ba la mật”. Vì tất cả pháp đều thu nhiếp vào Bát nhã Ba la mật.
Ở đoạn này cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật ngược lại: “... nếu
tu không nhiếp thọ là tu Bát nhã Ba la mật” và được Phật khả chứng!
Phẩm “Vô Tướng" quyển 467, Hội thứ II,
ĐBN, Phật cũng thuyết: "Chẳng nhiếp thọ
hoặc pháp thiện hoặc pháp phi thiện, hoặc pháp hữu ký hoặc pháp vô ký, hoặc
pháp thế gian hoặc pháp xuất thế gian, hoặc pháp hữu lậu hoặc pháp vô lậu, hoặc
pháp hữu vi hoặc pháp vô vi. Cũng chẳng nhiếp thọ kể cả sở chứng Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề”.
Tại sao lại có sự mâu thuẫn như vậy? Nếu không nhiếp thọ tất cả pháp
Phật thì lấy gì mà tu, lấy gì mà chứng. Tu là phải nhiếp thọ, chắc chắn như
vậy!
Bát Nhã không tự mâu thuẫn: Phủ định ở đây chính là xác định. Lối lập
ngôn đó có vẻ nghịch đời đối với pháp thức thường tục, nhưng lại rất tự nhiên đối với Bát
Nhã, vì nó rất phù hợp với Tánh Không. Không
nhiếp thọ ở đây là nhiếp thọ Bát Nhã! Đây không phải là lối biện hộ có tánh
cách “dở hơi”. Tại sao?
Phẩm “Phương Tiện Khéo Léo” quyển 524, Hội thứ III,
ĐBN. Phật xác nhận rõ rằng: “Bát nhã Ba la
mật thậm thâm đối tất cả pháp không sở chấp đắm, không sở
nhiếp thọ. Nếu đối các pháp có sở chấp đắm, có sở nhiếp thọ thời lìa Bát nhã Ba
la mật”.
Đó chính là lý do, một khi có thọ có thủ là có chấp đắm, và một khi đã
chấp đắm thì Bát Nhã dỡ nón ra đi. Do đó, tu chẳng vì nhiếp thủ, cũng chẳng vì
xả bỏ, cũng chẳng khiển trừ. Đó chính là tu Bát nhã Ba la mật. Có chấp đắm, có
nắm có bỏ, có thủ xả... là có động chuyển, có sinh diệt đổi dời thì làm sao tu Bát
nhã Ba la mật được. Vì vậy, mà Kinh "Tứ Thập Nhị Chương" nói: Học như
vô học, tu như vô tu, hành như vô sự, chứng như vô chứng mới gọi là học, là tu,
là hành, là chứng.
Do đó, đoạn Kinh sau đây nâng nhận thức của chúng ta lên một tầng cao
hơn. Phẩm “Chơn Như” quyển 321, Hội thứ I, ĐBN, Phật cũng bảo:
“(...) Nếu Bồ tát vì nhiếp thủ sắc mà tu hành, vì xả bỏ sắc mà tu hành;
vì nhiếp thủ thọ, tưởng, hành, thức mà tu hành, vì xả bỏ thọ, tưởng, hành, thức
mà tu hành, thì Bồ tát ấy chẳng có thể tu Bát nhã Ba la mật, cũng
chẳng có thể tu tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật; Bồ tát
ấy chẳng có thể chứng pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh; Bồ
tát ấy chẳng có thể chứng chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ,
thật tế…; Bồ tát ấy chẳng có thể tu tứ Thánh đế, ba mươi bảy pháp trợ đạo; Bồ
tát ấy chẳng có thể tu năm loại mắt, sáu phép thần thông; Bồ tát ấy chẳng có
thể tu pháp môn Đà la ni, Tam ma địa; Bồ tát ấy chẳng có thể tu Phật mười lực,
cũng chẳng có thể tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ,
đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; Bồ tát ấy chẳng có thể tu
Nhất thiết tri, cũng chẳng có thể tu Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.
(...) Nếu Bồ tát vì nhiếp thủ tất cả pháp Phật mà tu hành, vì xả bỏ tất
cả pháp Phật mà tu hành, Bồ tát ấy chẳng có thể tu Nhất thiết trí, cũng chẳng
có thể tu Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí”.
Đó là lập cước của Bát Nhã: Học Bát Nhã là không có “nọ kia”, có nọ kia
là xa lìa Bát Nhã. Chẳng nhiếp thủ không phải là không nhiếp thủ, xa lìa mà
cũng chẳng xa lìa. Tu hành cốt yếu là đừng phân biệt chấp đắm thì pháp nào pháp
nào cũng là hoa vàng rực rỡ. Tu hành khó khăn tế nhị và công phu là vậy.
2. “Tu trừ khiển là tu Bát nhã Ba la
mật”?
Cũng cùng phẩm trên, cụ thọ Thiện Hiện lại nói “Tu trừ
khiển là tu Bát nhã Ba la mật” và Phật khả chứng! Sắc thọ
tưởng hành thức là ngũ uẩn, ngũ che vì nó che đậy tánh giác. Nên tu là “phải
khiển, phải trừ”, không nên dựa vào các uẩn mà tu. Khiển trừ có nghĩa là hành Bát
Nhã không được hành nơi sắc thọ tưởng hành thức, hành như vậy là lấy
cảm quan và ý thức phân biệt mà hành, tức tạo tác thi vi, nên
phải khiển trừ. Nhưng, Bát Nhã lại khuyến cáo là phải trừ khiển, phải bỏ cả
cái khiển đó đi! Vì sao? Vì khiển trừ cũng lại là một thứ động niệm. Phẩm “Huệ Đến Bờ Kia”, quyển 527, Hội thứ
III, ĐBN, nói rõ rằng: “Các Bồ tát Ma
ha tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, nếu nhớ có sắc và nghĩ phải tu, như vậy
là chẳng trừ khiển sắc, chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật. Nếu nhớ có thọ tưởng
hành thức và nghĩ phải tu, như vậy là chẳng trừ khiển thọ tưởng hành thức,
chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật. Nói rộng cho đến nếu nhớ có dứt hẳn phiền não
tập khí nối nhau và nghĩ phải tu, như vậy là chẳng trừ khiển dứt hẳn phiền não
tập khí nối nhau, chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật...
(…)Ngược lại, các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la
mật thậm thâm, chẳng nhớ có sắc và chẳng nghĩ phải tu trừ khiển sắc, là tu Bát
nhã Ba la mật. Chẳng nhớ có thọ tưởng hành thức và chẳng nghĩ phải tu trừ khiển
thọ tưởng hành thức, là tu Bát nhã Ba la mật. Nói rộng cho đến chẳng nhớ có dứt
hẳn phiền não tập khí nối nhau và chẳng nghĩ phải tu trừ khiển dứt hẳn phiền
não tập khí nối nhau, là tu Bát nhã Ba la mật… Vì sao? Vì chẳng
phải kẻ tưởng có dứt tham sân si, tùy miên trói buộc thường dễ tu Bát nhã Ba
la mật.
Vậy nên, Tu Bồ Đề! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu trừ khiển
sắc, cũng tu trừ cái khiển đây, gọi tu Bát
nhã Ba la mật. Tu trừ khiển thọ tưởng hành thức, cũng tu trừ cái khiển đây, gọi tu Bát nhã
Ba la mật. Nói rộng cho đến tu trừ khiển dứt hẳn phiền não tập khí nối nhau và tu trừ cái khiển đây, gọi
tu Bát nhã Ba la mật…”.
Nếu cứ nghĩ tưởng phải tu, phải hành, phải khiển, phải chứng… bất cứ pháp
nào dù pháp đó mang nhiều công đức nhất thì cũng coi như chẳng
tu Bát nhã Ba la mật.
Nếu nhớ, nếu nghĩ ngũ uẩn là cái che đậy tánh giác thì
nên khiển trừ cái nhớ cái nghĩ đó. Nhưng mỗi khi khởi niệm thì vọng sanh. Nếu
coi ngũ uẩn là không thì không cần lìa cũng không cần khiển. Đó cũng
chính là giáo lý siêu tuyệt của Tâm Kinh.
Khiển chính là động niệm thì khiển cũng
là cái đáng bỏ, đáng trừ. Vậy lìa cũng
bỏ, khiển cũng bỏ và cái bỏ sau cùng đó cũng bỏ nốt, phủi
tay, coi tất cả là không. Như thế thì tâm hành diệt, ngôn ngữ
đoạn, mới an trụ trong Tánh Không, “tức hành cảnh vô
tướng, nguyện vô phân biệt” tâm mới an nhiên tịch lặng. Bát Nhã
nghịch đời ở chỗ đó. Thói thường thấy cái
gì nghịch lại tri thức thường tục thì muốn
trừ, muốn lìa, muốn khiển ngay mà không biết
rằng chính cái phải trừ, phải lìa, phải khiển đó là những biện
pháp chống lại sự an tịnh của tâm. Lấy động chế
động, tâm càng thêm động. Trong “Tín Tâm Minh” Tổ Tăng Xán nói:
Ngăn động mà cầu tịnh
Hết ngăn lại động thêm.
Muốn tâm thanh tịnh thì phải xả bỏ: Khiển cũng bỏ mà trừ khiển cũng phải
bỏ thì tâm mới được như như. Đó là cái khó khăn tế nhị của tu
hành. Nếu có khả năng tin hiểu Bát nhã Ba la mật và thực hành được như vậy thì
có thể tùy thuận thâm nhập được Nhất thiết trí trí.
3. Làm sao biết là Bồ tát Bất thối chuyển?
Nếu đại Bồ tát đối với sáu pháp Ba la mật chẳng sanh chấp trước,
thì nên biết đó là đại Bồ tát bất thối chuyển. Nếu Bồ tát đối với 18 pháp
không, thập nhị chân như chẳng sanh chấp trước, thì nên biết đó là đại Bồ tát
bất thối chuyển. Nếu đại Bồ tát đối với tất cả pháp Phật cũng chẳng sanh chấp
trước, thì có thể nghiệm biết đó là đại Bồ tát bất thối chuyển.
Đại Bồ tát bất thối chuyển tu hành thậm thâm Bát nhã Ba la mật rồi, thời
chẳng cho lời lẽ và sự dạy bảo của kẻ khác là chơn yếu; chẳng bị tâm tham, sân,
si dẫn dắt; chẳng bị tâm kiêu mạn dẫn dắt; chẳng bị các loại tâm tạp nhiễm khác
dẫn dắt. Đại Bồ tát bất thối chuyển đối với Bát nhã Ba la mật sâu xa hoan hỷ, ưa
nghe, thọ trì, đọc tụng, rốt ráo thông suốt, gắn chặt tư duy, như thuyết tu
hành, không hề mệt mỏi. Đó chính là Bồ tát bất thối.
4. Làm sao thâm nhập Nhất thiết trí trí?
Như chúng ta đã biết có học Bát Nhã mới có giác ngộ, có giác ngộ thì
đương nhiên có Nhất thiết trí trí. Vậy, hỏi làm sao thâm nhập Nhất thiết trí
trí và câu hỏi làm sao thâm nhập Bát Nhã như nhau. Nhưng thâm nhập Bát Nhã hết
sức khó khăn thì thâm nhập Nhất thiết trí trí cũng khó khăn như nhau. Muốn thế
Bồ tát phải liên tục, tùy thuận, hướng đến, thâm nhập không,
vô tướng, vô nguyện; Bồ tát phải liên
tục, tùy thuận, hướng đến, thâm nhập chân như, pháp giới, pháp tánh...; Bồ tát
phải có tâm lượng rộng lớn như hư không, đối với tất cả pháp vô sở hữu, vô sanh
- vô diệt, vô nhiễm - vô tịnh, vô tạo tác, và phải xem tất cả pháp như huyễn,
như mộng, tiếng vang, ảnh tượng, bóng sáng, bóng nắng, như việc biến hóa, ảo
thành để tu hành Bát Nhã thì đó tức là đại Bồ tát hướng đến, thâm nhập Nhất
thiết trí trí.
Lại nữa, Bồ tát muốn đạt đến Nhất thiết trí trí thì chẳng nên hành
sắc, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức, chẳng hành 12 xứ, 18 giới, tứ thiền, tứ
vô lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết chủng trí… cho đến
quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sự tùy thuận, hướng đến, thâm nhập Nhất thiết trí
trí của Bồ tát ấy, không năng tác, không năng hoại, không từ đâu đến, không đi
đến đâu, cũng không chỗ trụ, không phương cõi, không số lượng, không
vãng lai.
Kinh nói: “Nhất thiết trí trí như thế đã không số lượng, không
vãng lai, không thể nắm bắt được nên cũng không thể chứng đắc. Nhất thiết trí
trí như thế, chẳng thể dựa vào sắc để chứng, chẳng thể dựa vào thọ, tưởng,
hành, thức để chứng. Nhất thiết trí trí như thế, chẳng thể dựa vào mười hai xứ,
mười tám giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng,
Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí… cho đến quả vị Giác ngộ
tối cao để chứng. Vì sắc tức là Nhất thiết trí trí; thọ, tưởng, hành, thức
tức là Nhất thiết trí trí; vì mười hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ vô lượng,
tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất
thiết chủng trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao hay nói chung tất cả pháp Phật
tức là Nhất thiết trí trí.
Vì sao? Thiện Hiện! Hoặc sắc như, hoặc Nhất thiết trí trí như hoặc tất
cả pháp như, đều một như không hai không khác; hoặc thọ tưởng hành thức như,
hoặc Nhất thiết trí trí như, hoặc tất cả pháp như, đều một như không hai không
khác v.v..”. (cuối Q.318, ĐBN)
Đồng ý Nhất thiết trí trí không thể nắm bắt được nên cũng
không thể chứng đắc, chúng ta cũng đồng ý Nhất thiết trí trí không bao giờ “dựa
vào” bất cứ pháp nào dù là pháp Phật, nếu xem dựa vào như là một thứ vin duyên
thì chắc chắn Nhất thiết trí trí không bao giờ làm việc đó. Nói như thế nhưng
không phải thế. Nhất thiết trí trí không phải từ trên trời rơi xuống, nếu không
có tất cả pháp thì cũng không có Nhất thiết trí trí. Nhất thiết trí trí từ sắc
mà ra, Nhất thiết trí trí cũng từ thọ tưởng hành thức mà ra, Nhất thiết trí trí
cũng từ 12 xứ, 18 giới nói rộng cũng từ tất cả pháp Phật mà ra. Nên nói sắc tức
là Nhất thiết trí trí, thọ tưởng hành thức là Nhất thiết trí trí, 12 xứ, 18
giới là Nhất thiết trí trí, tứ Thánh đế, thập nhị nhân duyên, 18 pháp không,
thập nhị chân như, Nhất thiết chủng trí... cho đến nói rộng ra tất cả pháp Phật
là Nhất thiết trí trí. Vì vậy, phẩm “Các Tướng Công Đức” quyển 380, Hội thứ I,
ĐBN, Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện tất cả pháp Phật được gọi là trí không thảy
hay trí không. Trí đó là Thánh trí chẳng khác gì Bát Nhã Trí hay Nhất
thiết trí trí:
“Thiện Hiện! Thánh pháp của Đại Bồ tát là trí quả Dự lưu, trí quả Nhất
lai, trí quả Bất hoàn, trí quả A la hán, trí quả vị Độc giác, trí quả vị Giác
ngộ tối cao của chư Phật; trí bốn niệm trụ, trí bốn chánh đoạn, bốn thần túc,
năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi Thánh đạo; trí pháp môn giải thoát
không, trí pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; trí bốn tịnh lự, trí bốn vô
lượng, bốn định vô sắc; trí tám giải thoát, trí tám thắng xứ, chín định thứ đệ,
mười biến xứ; trí bố thí Ba la mật, trí tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát
nhã Ba la mật; trí tất cả pháp môn Đà la ni, trí tất cả pháp môn Tam ma địa;
trí Thánh đế khổ, trí Thánh đế tập, diệt, đạo; trí pháp không nội, trí pháp
không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không
thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp
không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp
không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả
pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự
tánh, pháp không không tánh tự tánh; trí chơn như, trí pháp giới, pháp tánh,
tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp
định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; trí mười
địa Bồ tát; trí năm loại mắt, trí sáu phép thần thông; trí mười lực Như Lai,
trí bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại
xả, mười tám pháp Phật bất cộng; trí pháp không quên mất, trí tánh luôn luôn
xả; trí Nhất thiết trí, trí Đạo tướng trí, trí Nhất thiết tướng trí và tất cả
trí pháp thế gian và trí xuất thế gian khác; trí pháp hữu lậu, vô lậu; trí pháp
hữu vi, vô vi”. Rốt ráo, tất cả trí liệt kê trên không ngoài pháp Phật hay
các pháp mầu Phật đạo mà ra. Học tất cả pháp Phật thì đắc tất cả trí này, cũng
như đắc Bát Nhã Trí hay Nhất thiết trí trí.
Nhưng phần kết của phẩm “Trí Hướng Đến”, gây ngạc nhiên với nghi vấn: “... sắc tức
là Nhất thiết trí trí... cho đến quả vị Giác ngộ tối cao là Nhất thiết trí trí”.
Vì sao? Phật trả lời: “Thiện Hiện! Hoặc sắc như, hoặc Nhất thiết trí
trí như hoặc tất cả pháp như, đều một như không hai không khác; hoặc thọ tưởng
hành thức như, hoặc Nhất thiết trí trí như, hoặc tất cả pháp như, đều một như
không hai không khác v.v..”.
Ở đây, Phật không nói Nhất thiết trí trí từ vạn pháp sanh, mà Phật bảo
tất cả pháp đều như (chơn như của tất cả pháp), tất cả đều một như. Chúng ta
cũng biết rằng như đó là như thường tại, chẳng lúc nào chẳng như và người biết
như thế gọi là Như Lai. Như Lai dĩ nhiên là có Nhất thiết trí trí. Vậy, muốn
hiểu thế nào là như, thế nào là chơn như của tất cả pháp, thế nào là Như Lai
thì phải học phẩm “Chơn Như” kế tiếp.
---o0o---