PHẨM “TƯƠNG
ƯNG(1)”
Phần sau
quyển 04 cho đến phần đầu quyển 07, Hội thứ I, ĐBN.
(Tương đương với quyển thứ 01, phẩm “Tu Tập Đúng”, MHBNBLMĐ)
Tóm lược:
Để mở đầu cho phẩm này, Xá Lợi Tử bạch Phật: “Thế nào đại
Bồ Tát tu tập đúng và tương ứng với Bát nhã Ba la mật?”
Phật bảo cụ thọ Xá Lợi Tử: “Đại Bồ Tát tu tập đúng sắc
không, tu tập đúng thọ, tưởng, hành, thức không, đây gọi là tương ứng với Bát
nhã Ba la mật”.(2)
Phật bảo cụ thọ Xá Lợi Tử: Không những tu tập ngũ uẩn
không; mà cả xứ giới không; tứ đế, mười hai nhân duyên, lục
Ba la mật không; mười tám
pháp không; ba mươi bảy pháp
trợ đạo, mười tám pháp bất cộng không; Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí… cho đến quả
vị Giác ngộ tối cao đều không, thì coi là tu tập đúng và tương ứng với Bát nhã
Ba la mật. Vì sao? Vì trong sắc không chẳng có sắc, trong thọ không, tưởng
không, hành không, thức không chẳng có thọ, tưởng, hành, thức, trong xứ giới,
tứ đế, mười hai nhân duyên v.v…cho đến quả vị Giác ngộ cũng như thế. Bồ
Tát tu tập đúng như vậy gọi là tương ứng với Bát nhã Ba la mật!
Phật tiếp tục dạy:
- Này Xá Lợi Tử! Đại Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật,
do khi cùng tương ưng với những cái không như vậy, chẳng thấy sắc hoặc tương
ưng hoặc chẳng tương ưng; chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức hoặc tương ưng hoặc
chẳng tương ưng. Vì sao? Vì đại Bồ tát ấy, chẳng thấy sắc, là pháp sanh hoặc
là pháp diệt; chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức, là pháp sanh hoặc là pháp
diệt; chẳng thấy sắc là pháp nhiễm hoặc là pháp tịnh; chẳng thấy thọ,
tưởng, hành, thức là pháp nhiễm, hoặc là pháp tịnh. Đại Bồ tát ấy, chẳng
thấy sắc hợp với thọ, chẳng thấy thọ hợp với tưởng, chẳng thấy tưởng hợp
với hành, chẳng thấy hành hợp với thức. Vì sao? Không có một pháp nhỏ nhiệm nào
hợp với một pháp nhỏ nhiệm nào, vì bản tánh là không, rỗng không. Vì
sao? Vì cái không của sắc, nó chẳng phải là sắc; các cái không của thọ, tưởng,
hành, thức, chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì sắc rỗng không nên
không có tướng não hoại, vì thọ rỗng không nên không có tướng thọ, vì tưởng
rỗng không nên không có tướng biết, vì hành rỗng không nên không có tướng tạo
tác, vì thức rỗng không nên không có tướng tri giác. Tại sao? Vì sắc chẳng
khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ,
tưởng, hành, thức chẳng khác không, không chẳng khác thọ, tưởng, hành, thức;
thọ, tưởng, hành, thức tức là không, không tức là thọ, tưởng, hành, thức. Vì
sao? Vì tướng không của các pháp ấy chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng
tịnh, chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải
hiện tại. (Q.04, ĐBN)
- Này Xá Lợi Tử! Như vậy, trong cái không, không có
sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức; không có xứ giới, không có mười hai nhân
duyên, không có tứ đế; không có đắc, không có hiện quán; không có Dự lưu, không
có quả Dự lưu, không có Nhất lai, không có quả Nhất lai, không có Bất hoàn,
không có quả Bất hoàn, không có A la hán, không có quả A la hán, không có Độc
giác, không có quả vị Độc giác, không có Bồ tát, không có Bồ tát hạnh,
không có Phật, không có quả vị Phật.
Này Xá Lợi Tử! Bồ Tát tu tập đúng như vậy gọi là tương ứng
với Bát nhã Ba la mật.
Phật tiếp tục:
- Này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật, chẳng
thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với sắc. Chẳng thấy tương ưng, hoặc
chẳng tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng
tương ưng với mười hai xứ, mười tám giới; chẳng thấy
tương ưng hoặc chẳng tương ưng thập nhị nhân duyên, lục Ba la mật, mười tám
pháp không; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với chơn như, chẳng thấy
tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng,
tánh không đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật
tế…; chẳng thấy tương ưng hoặc chẳng tương ưng với tứ đế, 37 pháp trợ đạo, tam
giải thoát môn, các Đà la ni, Tam ma địa; Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất
thiết tướng trí… cho đến chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với tất cả
Bồ tát hạnh, quả vị Giác ngộ tối cao của chư Phật.
Lại nữa, này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la
mật, chẳng quán sự tương ưng, chẳng tương ưng giữa cái không với cái
không, chẳng quán sự tương ưng, chẳng tương ưng giữa cái vô tướng với cái vô
tướng, chẳng quán sự tương ưng, chẳng tương ưng giữa cái vô nguyện với cái vô
nguyện. Vì sao? Vì không, vô tướng, vô nguyện đều chẳng thấy tương ưng, hoặc
chẳng tương ưng.
Này Xá Lợi Tử! Bồ Tát tu tập đúng như vậy gọi là tương ứng
với Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la
mật, đã thể nhập cái không tự tướng của tất cả pháp rồi, thì chẳng quán
sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng của sắc, chẳng quán sự tương ưng, chẳng
tương ưng của thọ, tưởng, hành, thức; chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương
ưng giữa ngũ uẩn với đời trước, đời sau hay hiện tại hoặc chẳng quán sự tương ưng
giữa các đời: Trước, sau và hiện tại. Vì ba đời đều không!
Này Xá Lợi Tử! Bồ Tát tu tập đúng như vậy gọi là tương ứng
với Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la
mật, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa Nhất thiết trí trí
với sắc. Vì sao? Vì sắc còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc
chẳng tương ưng giữa Nhất thiết trí trí với sắc. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc
chẳng tương ưng giữa Nhất thiết trí trí với thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì thọ,
tưởng, hành, thức còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng
tương ưng giữa Nhất thiết trí trí với thọ, tưởng, hành, thức. Các đại Bồ tát tu
hành Bát nhã Ba la mật, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa Nhất
thiết trí trí với mười hai xứ, mười tám giới. Vì mười hai xứ, mười tám giới chẳng thấy có, huống là quán sự
tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa Nhất thiết trí trí với mười hai xứ, mười tám giới. Cũng như vậy, các đại Bồ tát tu
hành Bát Nhã, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa Nhất thiết trí
trí với tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì tất cả pháp Phật còn chẳng thấy có, huống
là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa Nhất thiết trí trí với tất cả
pháp Phật.
Này Xá Lợi Tử! Bồ Tát tu tập đúng như vậy gọi là tương ứng
với Bát nhã Ba la mật.
Này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ tát tu hành Bát Nhã, chẳng quán
sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa Nhất thiết trí trí với Phật. Vì
sao? Vì Phật còn chẳng thấy có, huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương
ưng giữa Nhất thiết trí trí với Phật. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương
ưng giữa Nhất thiết trí trí với Bồ đề. Vì sao? Vì Bồ đề còn chẳng thấy có,
huống là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa Nhất thiết trí trí với Bồ
đề. Các đại Bồ tát tu hành Bát Nhã, cũng chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng
tương ưng giữa Phật hay Bồ đề với Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì Nhất thiết
trí trí tức là Phật hay Bồ đề, Phật hay Bồ đề tức là Nhất thiết trí trí.
Này Xá Lợi Tử! Bồ Tát tu tập đúng như vậy gọi là tương ứng
với Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la
mật, chẳng đắm vào cái có hay chẳng phải có của sắc, chẳng đắm vào cái
có hay chẳng phải có của thọ, tưởng, hành, thức; chẳng đắm vào cái thường hay
vô thường, vui hay khổ, ngã hay vô ngã, tịch tịnh hay chẳng tịch tịnh của sắc
thọ tưởng hành thức; chẳng đắm vào cái không, chẳng không; chẳng đắm vào cái vô
tướng hay hữu tướng; chẳng đắm vào cái vô nguyện hay hữu nguyện của ngũ uẩn.
Các đại Bồ tát tu hành Bát Nhã, chẳng đắm vào cái có hay chẳng phải có của mười
hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ
vô lượng, tứ định vô sắc, tứ đế, mười hai nhân duyên, ba mươi bảy pháp trợ đạo,
mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao;
chẳng đắm vào cái thường hay vô thường, vui hay khổ, ngã hay vô ngã, tịch tịnh
hay chẳng tịch tịnh của tất cả pháp trên; chẳng đắm vào cái không, chẳng không;
chẳng đắm vào cái vô tướng hay hữu tướng; chẳng đắm vào cái vô nguyện hay hữu
nguyện của tất cả pháp Phật nói chung.
Này Xá Lợi Tử! Bồ Tát tu tập đúng như vậy gọi là tương ứng
với Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, này Xá Lợi Tử! Đại Bồ tát tu hành Bát Nhã, chẳng
khởi lên ý nghĩ thế này: Ta hành Bát Nhã; ta chẳng hành Bát Nhã; chẳng khởi
lên ý nghĩ thế này: Ta cũng hành, cũng không hành, ta chẳng phải hành, chẳng
phải chẳng hành Bát Nhã.
Này Xá Lợi Tử! Bồ Tát tu tập đúng như vậy gọi là tương ứng
với Bát nhã Ba la mật.
Này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã, chẳng
vì bố thí, mà tu hành Bát Nhã; chẳng vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tịnh
lự, Bát Nhã, mà tu hành Bát Nhã; các đại Bồ tát, khi tu hành Bát Nhã, chẳng vì
mười tám pháp không, chẳng vì chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp
trụ, thực tế… mà tu hành Bát Nhã; các đại Bồ tát, khi tu hành Bát Nhã, chẳng vì
tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp
Phật bất cộng, mà tu hành Bát Nhã; chẳng vì chứng nhập Chánh tánh, xa lìa sanh
tử, mà tu hành Bát Nhã; chẳng vì chứng đắc bậc Bất thối chuyển, chứng Nhất
thiết trí trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao mà tu hành Bát Nhã; chẳng vì
thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, quay xe diệu pháp mà tu hành Bát Nhã.
Vì sao? Vì các đại Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật, chẳng thấy sự sai biệt
của các pháp tánh.
Này Xá Lợi Tử! Bồ Tát tu tập đúng như vậy gọi là tương ứng
với Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ tát, khi tu hành Bát Nhã,
vì cùng tương ưng với Bát Nhã như vậy, nên có thể khéo an lập vô
lượng, vô số, vô biên hữu tình, ở cảnh giới Vô dư y Niết bàn, tất cả ác ma
không tùy tiện được, tất cả phiền não đều được phục diệt, các việc trong đời,
tùy theo ý muốn. Tất cả các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng đại Bồ
tát, ở vô số thế giới trong mười phương đều cùng hộ niệm, khiến chẳng thối đọa
xuống bậc Thanh văn, Độc giác. Các chúng trời cõi Dục, cõi Sắc, tất cả Thanh
văn, Độc giác trong vô số thế giới mười phương đều cùng ủng hộ, bảo vệ Bồ tát,
khiến mọi việc làm không bị trở ngại, tật bệnh, lo phiền của thân tâm đều được
thuyên giảm tiêu trừ; dù có nghiệp, phải chịu khổ báo ở đời sau cũng chuyển
nặng thành nhẹ.
Này Xá Lợi Tử! Đại Bồ tát ấy, tu hành Bát Nhã, nhờ sức oai
thần, nên dùng ít gia hạnh(3), mà có thể dẫn phát(4) một cách tối thắng các
pháp môn Đà la ni, Tam ma địa, khiến mau hiện khởi; tùy theo nơi sanh, thường
được phụng sự tất cả Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cho đến khi chứng được
quả vị Giác ngộ tối cao, ở khoảng giữa ấy, thường chẳng xa Phật.
Này Xá Lợi Tử! Bồ Tát tu tập đúng như vậy gọi là tương ứng
với Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ tát, khi tu hành Bát Nhã,
chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Có sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng, bình
đẳng hoặc chẳng bình đẳng, giữa pháp với pháp. Vì sao? Vì đại Bồ tát
ấy, chẳng thấy có sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng, bình đẳng hoặc chẳng bình
đẳng giữa pháp với pháp.
Này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ tát, khi tu hành Bát Nhã, chẳng
khởi lên ý nghĩ thế này: Đối với pháp giới, ta mau hiện Đẳng giác,
hoặc chẳng mau hiện Đẳng giác(5). Vì sao? Vì đối với pháp giới, đại
Bồ tát ấy, chẳng thấy có một pháp nhỏ nhiệm nào có thể hiện Đẳng giác.
Này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ tát, khi tu hành Bát Nhã, chẳng
thấy có một pháp nào lìa pháp giới, chẳng thấy có pháp giới lìa các pháp mà có,
cũng chẳng thấy các pháp tức là pháp giới, chẳng thấy pháp giới tức là các
pháp. Các đại Bồ tát, khi tu hành Bát Nhã, chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Pháp
giới có thể làm nhân duyên cho các pháp; chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Các
pháp chẳng thể làm nhân duyên cho pháp giới; chẳng khởi lên ý nghĩ thế này:
Pháp này có thể chứng pháp giới, pháp này chẳng có thể chứng pháp giới. Vì sao?
Vì đại Bồ tát ấy, pháp còn chẳng thấy có, huống là thấy có pháp có thể chứng
pháp giới, hoặc chẳng có thể chứng.
Này Xá Lợi Tử! Bồ Tát tu tập đúng như vậy gọi là tương ứng
với Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã, chẳng
thấy sự tương ưng giữa sắc với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa
không với sắc; chẳng thấy sự tương ưng giữa thọ, tưởng, hành, thức
với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với thọ, tưởng,
hành, thức. Các đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã, chẳng thấy sự tương ưng giữa mười hai xứ với
không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với mười hai xứ; chẳng
thấy sự tương ưng giữa mười tám giới với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng
giữa không với mười tám giới. Các đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã, chẳng
thấy sự tương ưng giữa mười hai nhân duyên với không, cũng chẳng thấy sự tương
ưng giữa không với mười hai nhân duyên; chẳng thấy sự tương ưng giữa lục Ba la
mật với không, cũng chẳng thấy sự tương ưng giữa không với lục Ba la mật, mười
tám pháp không, chơn như, pháp giới, pháp tánh, định pháp, trụ pháp, thật tế
v.v… Các đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã, chẳng thấy sự tương ưng giữa tất cả
pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo,
mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí…, cho đến quả vị Giác ngộ tối thượng cũng lại như thế.
Này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã, trong
các tương ưng, tương ưng với Bát Nhã là cao tột, tối tôn, tối thắng, tối
thượng, tối diệu, vô thượng, vô thượng thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng. Vì sao?
Vì sự tương ưng với Bát Nhã là cao tột, tức là tương ưng với không, tức
là tương ưng với vô tướng, tức là tương ưng với vô nguyện. Do nhân
duyên này, nên được coi là cao tột nhất.
Này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã, khi cùng
tương ưng với Bát Nhã như vậy, thì biết ngay là được thọ ký, hoặc gần được thọ
ký làm Phật. Đại Bồ tát ấy, do sự tương ưng này, có thể làm việc lợi ích lớn
cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình.
Này Xá Lợi Tử! Đại Bồ tát ấy, chẳng khởi lên ý nghĩ thế này:
Ta cùng tương ưng với Bát Nhã; chẳng khởi lên ý nghĩ thế này: Ta sẽ được thọ ký
làm Phật, hoặc gần được thọ ký; Ta có thể nghiêm tịnh cõi Phật; Ta có thể thành
thục hữu tình, Ta sẽ chứng được điều mong cầu là quả vị Giác ngộ tối cao,
chuyển bánh xe pháp mầu nhiệm, độ vô lượng hữu tình. Vì sao? Vì đại Bồ tát ấy, chẳng
thấy có pháp lìa pháp giới, chẳng thấy pháp giới lìa các pháp; chẳng thấy
các pháp tức là pháp giới, chẳng thấy pháp giới tức là các pháp; chẳng thấy có
pháp tu hành Bát Nhã, chẳng thấy có pháp được Phật thọ ký, chẳng thấy có pháp
sẽ chứng được quả vị Giác ngộ tối cao, chẳng thấy có pháp nghiêm tịnh cõi Phật,
chẳng thấy có pháp thành thục hữu tình. Vì sao? Vì các đại Bồ tát, khi tu hành Bát
Nhã, chẳng khởi tưởng ngã, tưởng hữu tình, tưởng dòng sinh mạng,
tưởng sự sanh, tưởng sự dưỡng, tưởng sự trưởng thành, tưởng chủ thể luân hồi...
cho đến cái thấy cái biết. Vì sao? Vì ngã, hữu tình v.v… rốt ráo đều chẳng
sanh, lại cũng chẳng diệt. Những thứ ấy rốt ráo, chẳng sanh chẳng diệt, thì vì
sao cần phải tu hành Bát Nhã, và được các thứ công đức lợi ích thù thắng? Đại
Bồ tát ấy, vì chẳng thấy sự sanh của hữu tình, nên tu hành Bát Nhã; chẳng thấy
sự diệt của hữu tình, nên tu hành Bát Nhã; vì biết cái không của các hữu tình,
nên tu hành Bát Nhã; vì biết cái chẳng phải ngã của các hữu tình, nên tu hành Bát
Nhã; vì biết cái không thể nắm bắt được của các hữu tình, nên tu hành Bát Nhã;
vì biết sự xa lìa của các hữu tình, nên tu hành Bát Nhã; vì biết bản tánh của
các hữu tình chẳng phải là hữu tình, nên tu hành Bát Nhã.
Này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ tát tu hành Bát Nhã, trong các
tương ưng, tương ưng với không là cao tột, tương ưng với Bát Nhã là tối tôn,
tối thắng, không có gì sánh kịp. (Q.06,
ĐBN)
Này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ tát, vì sự tương ưng như vậy, nên
phát huy rộng lớn khả năng dẫn phát mười lực của Như Lai, bốn điều không
sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp
Phật bất cộng; ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp kèm theo; pháp không
quên mất, tánh luôn luôn xả, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng
trí và vô lượng, vô biên, pháp Phật khác.
Này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ tát, tu hành Bát Nhã, vì cùng
tương ưng với Bát Nhã như vậy, nên rốt ráo chẳng khởi các tâm chướng ngại là
xan tham, phạm giới, giận hờn, lười biếng, tán loạn, ác tuệ. Bố thí, tịnh giới,
an nhẫn, tinh tiến, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật tự nhiên hiện tiền, không gián
đoạn. (Q.06, ĐBN)
Thích nghĩa:
(1). Tương ưng: Ưng thuận với nhau hay hợp với nhau. Do
Tâm, Tâm sở và sở y, sở duyên... cùng khởi lên một lượt và hòa hợp với nhau thì
gọi là tương ưng hay tương ứng. Kinh nói “Đại Bồ Tát tu tập đúng sắc không,
tu tập đúng thọ, tưởng, hành, thức không, đây gọi là tương ứng với Bát nhã Ba
la mật”. Khi tâm thấy ngũ uẩn đều không thì gọi là tương ưng hay tương ứng
với Bát Nhã, vì Bát Nhã là không, là vô tánh, là vô tướng, vô tác.
(2). Đây là vấn đáp giữa Xá Lợi Tử và Phật mở đầu
phẩm “Tu Tập Đúng” của MHBNBLMĐ do Ngài La Thập dịch, vì gọn và dễ hiểu nên
được ghi vào đây.
(3). Gia hạnh: Gia công dụng hạnh.
(4). Dẫn phát: Đưa đến, dẫn đến, đem lại.
(5). Đẳng giác: I- Đẳng Giác: Cũng gọi Đẳng chính
giác. Một trong 10 tôn hiệu của Phật. Đẳng giác nghĩa là sự giác ngộ chân chính
bình đẳng, tức giác ngộ chân lý hoàn toàn. Chỉ cho sự giác ngộ của chư Phật.
II- Đẳng Giác: Cũng gọi Đẳng chính giác, Hữu thượng sĩ, Nhất sinh bổ xứ, Kim
cương tâm, Lân cực. Về nội dung thì đã ngang bằng với Phật, nhưng về mặt tu
hành thực tế thì còn kém Phật một bậc, gọi là Đẳng giác. Trong 52 giai vị tu
hành của Bồ tát, Đẳng giác ở giai vị thứ 51, trong 6 chủng tính thì thuộc chủng
tính thứ 5. Đây là giai vị tu hành cùng tột của Bồ tát. Bồ tát Đẳng giác khi
chưa thành Phật, còn ở địa vị phàm phu y theo chân lý mà tu hành, thì gọi là
Nhập trùng huyền môn. III- Đẳng giác: Giai vị ngang hàng với Đẳng giác kim
cương tâm (tâm kim cương của Bồ tát Đẳng giác) của Bồ tát Di lặc. Tịnh độ chân
tông của Nhật bản cho rằng người có tín tâm đối với tha lực chắc chắn được vãng
sinh thành Phật, cho nên so sánh tín tâm này với Đẳng giác kim cương tâm của Bồ
tát Di lặc, mà gọi là Hoành siêu kim cương tâm, đồng thời, cho rằng ngay trong
đời hiện tại cũng có thể lên ngôi Đẳng giác ngang hàng với Bồ tát Di lặc. (Tóm
lược Từ điển Phật Quang)
Lược
giải:
Xá Lợi Tử bạch Phật: “Thế nào đại Bồ Tát tu tập đúng và tương
ứng với Bát nhã Ba la mật?”
Phật bảo cụ thọ Xá Lợi Tử: “Đại Bồ Tát tu tập đúng sắc không,
tu tập đúng thọ, tưởng, hành, thức không, đây gọi là tương ứng với Bát nhã Ba
la mật”. Không những tu tập ngũ uẩn không, mà cả xứ giới và tất cả pháp Phật
đều không thì coi là tu tập đúng và tương ứng với Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì
trong sắc không chẳng có sắc; trong thọ không, tưởng không, hành không, thức
không chẳng có thọ, tưởng, hành, thức. “Vì sắc rỗng không nên không có
tướng não hoại, vì thọ rỗng không nên không có tướng thọ, vì tưởng rỗng không
nên không có tướng biết, vì hành rỗng không nên không có tướng tạo tác, vì thức
rỗng không nên không có tướng tri giác. Tại sao vậy? Vì chẳng phải sắc khác
với không, cũng chẳng phải không khác với sắc, mà sắc chính là không và không
chính là sắc; thọ, tưởng, hành, thức chính là không và không chính là thọ,
tưởng, hành, thức.
Tướng rỗng không của các pháp vốn chẳng sanh, chẳng diệt,
chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện
tại. Vì thế nên trong pháp không ấy không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không
có nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp,
không có nhãn giới, nhẫn đến không có ý thức giới, không có vô minh cũng không
có vô minh tận, nhẫn đến không có lão tử, cũng không có lão tử tận, không có
khổ, tập, diệt, đạo, không có trí cũng không có đắc, không có Tu Đà Hoàn và quả
Tu Đà Hoàn, không có Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán và Phật, cũng không có quả
Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, quả Bích Chi Phật và quả Phật.
Đại Bồ Tát tu tập đúng như vậy gọi là tương ứng với Bát nhã
Ba la mật”.
Khi đọc đoạn kinh trên, ai cũng đều liên tưởng đến “Tâm
Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa”. Tâm kinh viết rằng: “Bồ tát Quán Tư Tại
hành sâu Bát nhã Ba la mật đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không liền qua hết
khổ ách. Nên bảo Xá lợi Phất rằng: Này Xá lợi Phất! Sắc ở đây là không,
không là sắc; sắc không khác không, không không khác sắc; sắc tức thị không,
không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế.
Này Xá lợi Phất, hết thảy các pháp ở đây được biểu thị là
không: Chúng không sinh, không diệt, không nhơ không sạch, không tăng, không
giảm. Vì vậy, này Xá Lợi Phất, trong không không có sắc, không có thọ, tưởng,
hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp; không có nhãn giới cho đến ý thức giới; không vô minh cũng không
hết vô minh cho đến không già chết cũng không hết già; không có khổ, tập, diệt,
đạo; không có trí tuệ cũng không có chứng đắc. Bởi vì không có chứng đắc,
trong tâm của Bồ tát an trụ trên Bát nhã Ba la mật đa không có những chuớng
ngại; và bởi vì không có chướng ngại nên không có sợ hãi, và vượt ngoài
những tà kiến điên đảo đạt đến Niết bàn. Hết thảy chư Phật trong ba đời y Bát
nhã Ba la mật, mà chứng đắc giác ngộ viên mãn tối thượng”.(1)
Phải chăng sự thực hành Bát nhã Ba la mật được mệnh danh
là “Không”, chẳng qua là một tràng phủ định. Phủ định tất cả hiện hữu của thế
gian nầy. Cái phủ định đầu tiên chính là các ngũ uẩn. Điều đó không có gì làm
ta phiền hà, vì ngũ uẩn là những cảm thọ và ý thức phân biệt chấp trước thường
che đậy tánh giác. Nhưng, căn trần thức giới là phương tiện để sống của con
người, thiếu nó thì làm sau tiếp xúc với sinh địa mà sống. Không ai có thể bịt
tai, mắt, mũi, miệng… mà có thể sống. Tâm kinh cũng chối từ. Tứ Đế, Thập nhị
Nhân duyên được coi là chân lý của hàng Nhị thừa cũng bị phủ nhận, kể cả sự
chứng đắc, kết quả của tu trì khổ hạnh cũng bị phủ nhận luôn.
Đồng ý mười hai xứ, mười tám giới tức mắt tai mũi lưỡi
thân ý và thức là cái giúp cho con người sống, nhưng chính nó lại “lừa phỉnh”
con người mà con người không tự biết. Cảm quan và ý thức không phải là thước đo
chính xác của chân lý. Cảm quan và ý thức mở đường cho những nhục cảm, dục vọng
và phân biệt chấp trước. Vì cảm quan tạo thành phiền não chướng và ý thức tạo
thành sở tri chướng, đôi khi gây đau khổ cho mình và người. Nên không có gì
phải ngạc nhiên khi tâm kinh phủ nhận nó. Nhưng, tất cả những kỹ thuật tu trì,
chứng đắc tại sao lại cũng khước từ. Vì rằng nếu dựa vào các pháp đó mà mong
cầu nắm bắt để chứng quả hay tạo công đức, thì lại gây nên một chướng ngại khác
của tâm, tức còn sở đắc thì không khỏi bị trói buộc dưới hình thức này hay hình
thức nọ, tâm không còn tự do trong tư duy hay hành động nữa. Chỉ khi nào không
còn bị dính mắc trói buộc nữa thì tâm không còn sợ hãi, không điên đảo thì mới
có thể vượt qua các tà kiến mà được Niết bàn.
Tâm kinh phủ định tất cả! Nhưng rốt lại, Tâm kinh đưa ra
một xác quyết. Cái xác quyết cuối cùng của Tâm kinh là tâm không, khi tâm rỗng
không, trong suốt thì không còn sợ hãi, không còn điên đảo mộng tưởng. Vì vậy,
sẽ vượt qua mọi trở ngại mà được Niết bàn an vui.
Giáo pháp Tánh Không được nêu ra đầu tiên trong phẩm “Học
Quán”, bây giờ được xiển dương lần nữa ở phẩm này. Kinh nói: “Không có một
pháp nhỏ nhiệm nào hợp với một pháp nhỏ nhiệm nào, vì bản tánh là không,
rỗng không”. Ngay khi nhận thức bản tánh của các pháp là không, thì ngay
đó tâm hành dứt, không còn nghĩ tưởng so đo phân biệt tánh tướng, thể dụng, đẹp
xấu, nhiễm tịnh gì nữa. Tâm sẽ được rỗng không trong suốt. Đó là giây phút khế
hợp (hay chứng nhập) Bát Nhã. Vì sao? Vì Bát Nhã là không, là vô tướng, vô tác.
Đó là hành môn của Bát Nhã và nếu hành được như vậy thì sẽ bước qua được cổng
giải thoát gọi là giải thoát môn không, vô tướng, vô tác.
Thiền sư D.T. Suzuki viết: “Không
(sùnya) hay “tánh không” (sùnayatà) là một trong những khái niệm quan trọng
nhất trong triết lý đại thừa và đồng thời cũng gây nhiều rắc rối khó hiểu nhất
cho những độc giả ngoài đạo Phật. Tánh Không không có nghĩa là “thực tại tính
hay hiện trung tính”, hay “cái không chi”. Nó chỉ cho cái tuyệt đối, hay bản
tính siêu việt, nói thế cũng lại là một sai lầm như chúng ta sẽ thấy ở sau. Khi
các nhà Phật học tuyên bố hết thảy mọi vật đều không, họ không binh vực một
quan điểm hư vô luận; ngược lại nó ám chỉ một thực tại tối hậu, không
thể đặt dưới các phạm trù luận lý. Với các phạm trù đó, nếu nói đến tính cách
hữu vi của vạn hữu thì cũng phải nói luôn sự hiện hữu của cái hoàn toàn vô vi
siêu việt tất cả mọi xác định. Sùntà như thế thông thường cũng được diễn dịch
rất chính xác là Tuyệt đối thể. Khi kinh nói rằng năm uẩn mang bản sắc không
(không tướng) hay trong cái không, không có sinh và diệt, không có nhiễm, tịnh
v.v... thì có nghĩa rằng: Đừng có gán cho Tuyệt đối thể những phẩm tính
quyết định; nó nội tại trong tất cả mọi vật thể cụ thể và cá biệt, nó hoàn
toàn không có định tính. Do đó, phủ định toàn diện trong triết lý Bát Nhã là
một hậu quả tất yếu”.
Phân tích trên rất đúng, tuy nhiên có tánh cách bác học. Bát
Nhã không nằm trong hư vô luân. Bát Nhã là sự chứng ngộ: Thấy liền thấy, đó là
trực giác thực chứng hay còn gọi là Thánh trí tự giác, không qua trung gian của
bấc cứ thứ lý luận nào!
Kết
luận chung:
(cho phẩm “Duyên Khởi”, “ Học Quán” và “Tương Ưng”).
Phẩm “Duyên Khởi” đại cương nói: Muốn giác ngộ, muốn trở
thành Vô thượng Chánh giác, muốn được Nhất thiết trí thì phải học tất cả các
thiện pháp, hay nói khác là phải học Bát Nhã vì tất cả pháp Phật, các pháp
thiện pháp, các pháp hy hữu, tư lương Bồ đề Bồ tát hay Bồ tát đạo đều nhiếp thọ
vào Bát nhã Ba la mật. Học Bát Nhã nhưng phải trụ trong không tức là trụ ở chỗ
vô trụ, vô đắc, vô xả, vô hộ, vô thủ, vô
cần, vô tư, vô trước…làm phương tiện! Phẩm “Học Quán”,
đưa ra ý niệm: Tất cả là giả danh, duyên hợp giả có đương thể tất không hay các pháp
không có tự tánh nên gọi là không, chứ chẳng phải do không có mà không. Cuối
cùng phẩm “Tu Tương Ưng” phủ nhận tất cả: Các pháp là không, ngũ uẩn không,
mười hai xứ không, mười tám giới không, mười hai nhân duyên không, tứ đế không
và cũng không có trí tuệ hay chứng đắc. Chính cái phủ nhận này lại đưa đến một
xác quyết quan trọng là nhờ cái “tâm không” mà không còn điên đảo mộng tưởng,
thì đâu đâu cũng tràn đầy ánh sáng giác ngộ.
Ngay phần đầu với ba phẩm nói trên, một bố cục vi diệu như
vậy, nếu hiểu và tu thì cũng giống như đức Quán Âm nói “Hành sâu Bát nhã Ba la mật đa, thấy năm uẩn
đều không liền qua hết mọi khổ ách”. Vì thấy “không” nên được trí không
thảy(2), trí vô ngại, trí vô phân biệt, trí vô trước v.v... Còn chúng sanh lúc
nào cũng thấy “có” nên bị trở ngại, không thoát khỏi sanh tử luân hồi, chịu
biết bao khổ lụy!
Thích nghĩa cho phần lược giải này:
(1). Có hai bản kinh cùng nhan đề là Hridaya (Tâm kinh): Một
bản được gọi là Lược bản, và bản khác được gọi là Quảng bản. Bản dịch ở trên
thuộc Lược bản, thông dụng ở Trung Hoa và Nhật bản. Chúng tôi trích dẫn lại từ
Thiền Luận III của Thiền sư D.T. Suzuki, trang 222.
(2). Trí không thảy (còn gọi là trí không): Được ghi trong
phẩm “Các Tướng Công Đức” quyển 380, Hội thứ I, ĐBN, Ngài Huyền Trang dịch:
“Lại nữa, Thiện Hiện! Thánh pháp của Đại Bồ tát là trí quả Dự
lưu, trí quả Nhất lai, trí quả Bất hoàn, trí quả A la hán, trí quả vị Độc giác,
trí quả vị Giác ngộ tối cao của chư Phật; trí bốn niệm trụ, trí bốn chánh đoạn,
bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; trí pháp
môn giải thoát không, trí pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; trí bốn tịnh
lự, trí bốn vô lượng, bốn định vô sắc; trí tám giải thoát, trí tám thắng xứ,
chín định thứ đệ, mười biến xứ; trí bố thí Ba la mật, trí tịnh giới, an nhẫn,
tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật; trí tất cả pháp môn Đà la ni, trí tất cả
pháp môn Tam ma địa; trí Thánh đế khổ, trí Thánh đế tập, diệt, đạo; trí pháp
không nội, trí pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp
không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp
không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không
đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp
không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh,
pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; trí chơn như, trí pháp giới,
pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly
sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì;
trí mười địa Bồ tát; trí năm loại mắt, trí sáu phép thần thông; trí mười lực
Như Lai, trí bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi,
đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; trí pháp không quên mất, trí tánh
luôn luôn xả; trí Nhất thiết trí, trí Đạo tướng trí, trí Nhất thiết tướng trí
và tất cả trí pháp thế gian và xuất thế gian khác; trí pháp hữu lậu, vô lậu;
trí pháp hữu vi, vô vi”.
---o0o---