Nguồn: https://quangduc.com/
PHẨM
“TÙY THUẬN”
Giữa
quyển 61, Hội thứ I, ĐBN.
(Tương
đương phẩm “Hội Tông” quyển thứ 07, MHBNBLMĐ)
Tóm lược:
Bấy giờ, Mãn Từ Tử bạch Phật:
- Như Lai trước bảo Tôn giả Thiện Hiện tuyên thuyết Bát nhã
Ba la mật, nhưng nay sao lại nói về Đại thừa?
Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:
- Vừa rồi con nói Đại thừa đối với Bát nhã Ba la mật không
chống trái, vượt qua, có phải vậy không?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ngươi vừa nói Đại thừa, đối với Bát nhã Ba la
mật, hoàn toàn tùy thuận, không có sự chống trái, vượt qua. Vì sao? Thiện Hiện!
Vì tất cả thiện pháp, Bồ đề phần pháp(1), Thanh văn pháp, Độc giác pháp, Bồ tát
pháp, Phật pháp, tất cả đều thâu nhiếp vào Bát nhã Ba la mật.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Những gì là tất cả thiện pháp, Bồ đề phần
pháp, Thanh văn pháp, Độc giác pháp, Bồ tát pháp, Phật pháp, tất cả đều thâu
nhiếp vào Bát nhã Ba la mật?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Hoặc sáu Ba la mật; hoặc bốn tịnh lự, bốn vô
lượng, bốn định vô sắc; hoặc 37 pháp trợ đạo; hoặc Tam giải thoát môn; hoặc năm
loại mắt, sáu phép thần thông; hoặc Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự
hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất
cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; hoặc pháp không quên
mất, tánh luôn luôn xả. Thiện Hiện! Vì tất cả thiện pháp, Bồ đề phần pháp,
Thanh văn pháp, Độc giác pháp, Bồ tát pháp, Phật pháp, tất cả đều thâu nhiếp
vào Bát nhã Ba la mật (Nghĩa là tất cả pháp Phật đều thâu nhiếp vào Bát
nhã Ba la mật). (Q.61, ĐBN)
Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc Đại thừa, hoặc Bát nhã Ba la mật,
hoặc tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí. Bát nhã Ba la mật hoặc sắc,
hoặc thọ tưởng hành thức, hoặc mười hai xứ, mười tám giới; hoặc bốn Thánh đế; mười hai duyên khởi; hoặc Dục, Sắc, Vô sắc
giới; hoặc pháp thiện, pháp phi thiện; hoặc pháp hữu ký, vô ký; hoặc pháp hữu
lậu, vô lậu; hoặc pháp hữu vi, vô vi; hoặc pháp thế gian, xuất thế gian; hoặc
bốn tịnh lự, hoặc bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc tám giải thoát, hoặc tám
thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc ba mươi bảy pháp trợ đạo; hoặc
tam giải thoát môn; hoặc năm loại mắt, hoặc sáu pháp thần thông; hoặc Phật mười
lực, hoặc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại
hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất
thiết tướng trí; hoặc pháp không quên mất, hoặc tánh luôn luôn xả; hoặc tất cả
pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa; hoặc các đức Như Lai, hoặc pháp mà các
đức Phật giác ngộ như đã nói; hoặc 18 pháp không; hoặc chơn như, hoặc pháp
giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, cảnh giới bất tư
nghì, cảnh giới hư không, cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt, bình
đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô
tướng, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tịnh,
bổn vô, thật tế, cứu cánh Niết bàn, tất cả các pháp (tất cả pháp mầu Phật
đạo) như vậy, đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng
phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng
phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng nhất tướng, chỗ gọi là vô tướng.
Thiện Hiện! Do nhân duyên này, vừa rồi, ông nói Đại thừa đối
với Bát nhã Ba la mật, hoàn toàn tùy thuận, không có sự chống trái, vượt qua.
Vì sao? Thiện Hiện! Vì Đại thừa chẳng khác Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la
mật chẳng khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc Bát nhã Ba la mật,
tánh nó không hai, vì không hai phần.
Thiện Hiện! Đại thừa chẳng khác sáu Ba la mật; sáu Ba
la mật chẳng khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc tịnh lự, tinh
tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật, tánh nó không hai, vì không hai
phần.
Thiện Hiện! Đại thừa chẳng khác bốn vô lượng, bốn định vô
sắc; bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại
thừa, hoặc bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tánh nó không hai, vì không hai phần.
Thiện Hiện! Đại thừa chẳng khác tám giải thoát, tám
giải thoát chẳng khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa hoặc tám giải thoát,
tánh nó không hai, vì không hai phần.
Thiện Hiện! Đại thừa chẳng khác tám thắng xứ, chín
định thứ đệ, mười biến xứ; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng
khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc tám thắng xứ, chín định thứ đệ,
mười biến xứ, tánh nó không hai, vì không hai phần.
Thiện Hiện! Đại thừa chẳng khác ba mươi bảy pháp
trợ đạo, ba mươi bảy pháp trợ đạo chẳng khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại
thừa, hoặc ba mươi bảy pháp trợ đạo, tánh nó không hai, vì không hai phần.
Thiện Hiện! Đại thừa chẳng khác tam giải thoát môn,
tam giải thoát môn chẳng khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc tam giải
thoát môn, tánh nó không hai, vì không hai phần.
Thiện Hiện! Đại thừa chẳng khác năm loại mắt, sáu thần
thông, năm loại mắt, sáu thần thông chẳng khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc
Đại thừa, hoặc năm loại mắt, hoặc sáu thần thông tánh nó không hai, vì không
hai phần.
Thiện Hiện! Đại thừa chẳng khác Phật mười lực, chẳng
khác bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại
hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất
thiết tướng trí; Phật mười lực cho đến Nhất thiết tướng trí chẳng khác
Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc Phật mười lực cho đến Nhất
thiết tướng trí, tánh nó không hai, vì không hai phần.
Thiện Hiện! Đại thừa chẳng khác pháp không quên mất, tánh
luôn luôn xả, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả chẳng khác Đại thừa.
Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả,
tánh nó không hai, vì không hai phần.
Thiện Hiện! Đại thừa chẳng khác pháp uẩn, xứ, giới không,
bất không v.v… các pháp uẩn, xứ, giới không, bất không v.v... chẳng khác Đại
thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc pháp uẩn, xứ, giới không, bất không, tánh
nó không hai, vì không hai phần.
Thiện Hiện! Do nhân duyên này, nên ông vừa nói Đại thừa
đối với Bát nhã Ba la mật, hoàn toàn tùy thuận, không có sự chống trái vượt
qua. Nói Đại thừa tức là nói Bát nhã Ba la mật; nói Bát nhã Ba la mật tức nói
Đại thừa, vì hai pháp như vậy, không phân biệt.
Thích nghĩa:
(1). Bồ đề phần pháp, Satta-tiṃsa-bodhipakkhiyā-dhammā
(P), tức là 37 pháp trợ đạo hay còn gọi Tam thập thất đạo phẩm, Tam thập thất
phẩm, Tam thập thất Bồ đề phần pháp, Tam thập thất trợ Bồ đề pháp, Tam thập
thất trợ Đạo chi pháp (bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm
lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo). Xin đọc lại Phần thứ I Tổng luận,
các pháp mầu Phật đạo.
Lược
giải:
Đọc toàn thể phẩm “Tùy Thuận” từ trên xuống dưới từng pháp
một trong “tất cả các pháp mầu Phật đạo”, bất cứ pháp nào cũng tùy thuận Đại
thừa hay nói khác là toàn thể tất cả các pháp mầu Phật đạo, tất cả các pháp
Phật, tư lương Bồ đề Bồ tát, Bồ tát đạo là Đại thừa. Chúng ta cũng biết rằng
tất cả pháp Phật cũng nhiếp thu vào Bát nhã Ba la mật. Nên Kinh nói Bát nhã Ba
la mật là mẹ của tất cả chư Phật, chư Bồ tát sanh ra tất cả pháp thế gian và
xuất thế gian. Nên nói Bát nhã Ba la mật không khác Đại thừa, Đại thừa không
khác Bát nhã Ba la mật, cả hai không phân biệt.
Phẩm “Tán Đại Thừa”, phần sau quyển 56, Hội thứ I, ĐBN,
Phật bảo:
“Thiện Hiện! Đại thừa như vậy, phải biết tức là bố thí, tịnh
giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại thừa như vậy, phải biết tức là nội
không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không,
hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán không, vô biến dị
không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không,
bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không thảy (18
pháp không).
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại thừa như vậy phải biết tức là Kiện
hành Tam ma địa, cho đến Vô nhiễm trước như hư không Tam ma địa thảy, vô lượng
trăm ngàn Tam ma địa môn.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại thừa như vậy phải biết tức là bốn
niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi,
tám thánh đạo chi (37 pháp trợ đạo).
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại thừa như vậy phải biết tức là ba Tam
ma địa cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại thừa như vậy phải biết tức là văn tự
Đà la ni thảy, tất cả Đà la ni môn. Thiện Hiện! Như vậy thảy vô lượng vô biên
công đức thù thắng. Phải biết đều là Đại thừa của đại Bồ tát”.
Tóm lại, Đại thừa là tất cả các thiện pháp, Bồ đề phần
pháp, Thanh văn pháp, Độc giác pháp, Bồ tát pháp, Phật pháp. Tất cả pháp này
cũng đều nhiếp thọ vào Bát nhã Ba la mật như trên đã nói. Nên để kết luận phẩm
này, Phật bảo:
“Thiện Hiện! Do nhân duyên này, nên ông vừa nói Đại thừa đối
với Bát nhã Ba la mật, hoàn toàn tùy thuận, không có sự chống trái vượt qua. Nói
Đại thừa tức là nói Bát nhã Ba la mật; nói Bát nhã Ba la mật tức nói Đại thừa,
vì hai pháp như vậy, không phân biệt”.
---o0o---