PHẨM “DẪN NHIẾP(1) NHAU”
Quyển 349 đến hết quyển 350, Hội thứ I, ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Lục Độ Tương Nhiếp”, quyển thứ
22, MHBNBLMĐ)
Gợi
ý:
Phẩm “Lục Độ Tương Nhiếp”, quyển thứ 22, Kinh MHBNBLMĐ
tương đương với phẩm “Dẫn Nhiếp Nhau” của Kinh ĐBN. Tuy nhiên, phẩm “Lục Độ
Tương Nhiếp” ngắn gọn hơn. Nên thay vì, tóm lược phẩm “Dẫn Nhiếp Nhau”, chúng
tôi trích dẫn nguyên văn phẩm “Lục Độ Tương Nhiếp”của Kinh MHBNBLMĐ. Cũng xin
nói thêm rằng nội dung của phẩm “Lục Độ Tương Nhiếp” cũng đầy đủ như phẩm “Dẫn
Nhiếp Nhau”. Như trước đây trong phần dẫn nhập nói chung về bố cục Kinh Đại Bát
Nhã , chúng tôi có ghi: Kinh MHBNBLMĐ cũng được xem là đại phẩm như Kinh ĐBN,
chỉ có điều Kinh ĐBN được Phật thuyết ở Hội thứ I có tổng cộng tới 400 quyển,
trong khi Kinh MHBNBLMĐ được Phật thuyết ở Hội thứ II, do Ngài La Thập dịch chỉ
có 27 quyển mà thôi. Bản dịch của HT Thích Trí Tịnh có ghi thêm 3 quyển nữa là
Bồ tát Thường Đề, Bồ tát Pháp Dũng và phẩm chúc lụy, tổng cộng Kinh MHBNBLMĐ mới
được 30 quyển.
Xin quý vị độc giả đừng lo ngại Kinh văn ĐBN do chúng tôi
lược giải “không được nguyên chất?” Kinh ĐBN Phật thuyết ở 5 Hội đầu gần giống
nhau. Riêng Hội thứ I chiếm hết 2/3 Kinh ĐBN, tức 400 quyển đầu (từ quyển 1 đến
quyển 400 trong tổng số 600 quyển), Kinh trùng tuyên quá nhiều nên cần tóm
lược. Hội thứ II chiếm 78 quyển (từ quyển 401 đến quyển 478), Ngài La Thập đã
làm công việc tóm lược rồi, nên Hội thứ II gần như "nguyên chất". Hội
thứ III chỉ có 58 quyển (từ quyển 479 đến quyển 537). Hội thứ IV ngắn hơn nữa
chỉ có 18 quyển (từ quyển 538 đến quyển 555). Hội thứ V ngắn nhất chỉ vỏn vẹn
có 10 quyển (từ quyển 556 đến hết quyển 565). Thể tài thuyết pháp của 5 Hội này
gần như nhau, chỉ khác là nói gọn hay tán rộng các giáo lý mà thôi.
Nếu quý vị sợ rằng sự tóm lược của chúng tôi có thể làm sai
lạc ý Kinh trong Hội này hay trong các Hội kế tiếp, quý vị có thể so chiếu các
phẩm liên hệ của cả 5 Hội sẽ rõ.
Để thay đổi không khí, chúng tôi ghi lại nguyên văn phẩm
“Lục Độ Tương Nhiếp” của Kinh MHBNBLMĐ để quý vị có dịp thưởng thức và so chiếu
hai Kinh.
Tóm
lược:
Sau đây là chính văn phẩm “Lục Độ Tương Nhiếp”, quyển
thứ 22, MHBNBLMĐ:
1. Thế
nào là an trụ Bố thí nắm lấy năm Ba la mật kia?
Ngài Tu Bồ Đề thưa:
“Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát an trụ Bố thí Ba la mật mà nắm
lấy Trì giới Ba la mật?”
Đức Phật phán dạy:
“Này Tu Bồ Đề! Lúc bố thí, đại Bồ Tát đem sự bố thí đó hồi hướng Nhất thiết
trí, ở trong tất cả chúng sanh, thân, khẩu, ý an trụ nơi đức từ. Đây là đại Bồ
Tát an trụ Bố thí Ba la mật mà nắm lấy Trì giới Ba la mật”.
- Bạch đức Thế Tôn!
Thế nào là đại Bồ Tát an trụ Bố thí Ba la mật mà nắm lấy Nhẫn nhục Ba la mật?
- Này Tu Bồ Đề! Lúc
đại Bồ Tát bố thí, kẻ lãnh thọ giận mắng Bồ Tát, Bồ Tát nhịn nhục chẳng sanh
lòng phiền giận. Đây là đại Bồ Tát an trụ Bố thí Ba la mật mà nắm lấy Nhẫn nhục
Ba la mật.
- Bạch đức Thế Tôn!
Thế nào là đại Bồ Tát an trụ Bố thí Ba la mật mà nắm lấy Tinh tấn Ba la mật?
- Này Tu Bồ Đề! Lúc
đại Bồ Tát bố thí, kẻ lãnh thọ giận mắng, Bồ Tát bố thí nhiều thêm nữa và nghĩ
rằng tôi phải bố thí chẳng có lòng hối tiếc, liền lúc đó phát sanh hai tinh
tấn: thân tinh tấn và tâm tinh tấn. Đây là đại Bồ Tát an trụ Bố thí Ba la mật
mà nắm lấy Tinh tấn Ba la mật.
- Bạch đức Thế Tôn!
Thế nào là đại Bồ Tát an trụ Bố thí Ba la mật mà nắm lấy Thiền na Ba la mật?
- Này Tu Bồ Đề! Lúc
bố thí, Bồ Tát hồi hướng Nhất thiết trí, chẳng mong bậc Thanh Văn, Bích Chi
Phật, chỉ nhất tâm nghĩ đến Nhất thiết trí. Đây là Đại Bồ Tát an trụ bố thí Ba
la mật mà nắm lấy Thiền na Ba la mật.
- Bạch đức Thế Tôn!
Thế nào là đại Bồ Tát an trụ Bố thí Ba la mật mà nắm lấy Bát nhã Ba la mật?
- Này Tu Bồ Đề! Lúc
bố thí, đại Bồ Tát biết bố thí là không, là như huyễn ảo, chẳng thấy vì chúng
sanh bố thí có ích hay vô ích. Đây là đại Bồ Tát an trụ Bố thí Ba la mật mà nắm
lấy Bát nhã Ba la mật.
2. Thế
nào an trụ Tịnh giới nắm lấy năm Ba la mật kia?
- Bạch đức Thế Tôn!
Thế nào là đại Bồ Tát an trụ Trì giới Ba la mật, thân, khẩu, ý ba nghiệp
phát sanh phước đức bố thí giúp nên Vô Thượng Bồ Đề, giữ lấy công đức này,
chẳng lấy bậc Thanh Văn, Bích Chi Phật, an trụ trong Trì giới Ba la mật, chẳng
biết đoạt mạng sống kẻ khác, chẳng biết trộm của cải tài vật kẻ khác, chẳng làm
tà dâm, chẳng vọng ngôn, chẳng lưỡng thiệt, chẳng ác khẩu, chẳng ỷ ngữ, chẳng
tham lam bỏn sẻn, chẳng giận dữ ganh ghét, chẳng tà kiến, thật hành bố thí: Kẻ
đói cho ăn, kẻ khát cho uống, cần xe cho xe, cần áo cho áo, cần chuỗi ngọc cho
chuỗi ngọc, cần hương hoa cho hương hoa, cần giường nệm, phòng nhà, đèn đuốc,
tất cả đồ tư sanh đều cung cấp cho cả, đem sự bố thí đó cùng chung với chúng
sanh hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề, hồi hướng như vậy thì chẳng sa vào bực Thanh
Văn, Bích Chi Phật. Đây là đại Bồ Tát an trụ Trì giới Ba la mật mà nắm lấy
Bố thí Ba la mật.
Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ
Tát an trụ trong Trì giới Ba la mật, nếu có ai đến chia cắt thân xác, lúc đó Bồ
Tát chẳng sanh một niệm giận thù mà nghĩ rằng: Tôi được sự lợi ích rất lớn, họ
đến chia cắt thân xác rời rã, tôi không có một niệm hận thù. Đây là đại Bồ Tát an
trụ Trì giới Ba la mật mà nắm lấy Nhẫn nhục Ba la mật.
Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ
Tát thân tinh tấn và tâm tinh tấn thường chẳng lìa bỏ, nghĩ rằng: Tất cả chúng
sanh ở trong biển sanh tử, tôi phải cứu vớt đặt họ trên bờ cam lồ. Đây là đại
Bồ Tát an trụ Trì giới Ba la mật mà nắm lấy Tinh tấn Ba la mật.
Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ
Tát nhập sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, chẳng tham bậc Thanh Văn,
Bích Chi Phật, nghĩ rằng: Tôi phải an trụ trong Thiền na Ba la mật để độ tất cả
chúng sanh trong sanh tử. Đây là đại Bồ Tát an trụ Trì giới Ba la mật mà nắm
lấy Thiền na Ba la mật.
Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ
Tát an trụ Trì giới Ba la mật không có pháp nào thấy được: Hoặc pháp tác, pháp
vô tác, pháp số, pháp tướng, hoặc hữu hoặc vô, chỉ thấy tất cả đều chẳng ngoài
tướng như, do sức phương tiện Bát nhã Ba la mật nên chẳng sa vào bậc Thanh Văn,
Bích Chi Phật. Đây là Đại Bồ Tát an trụ Trì giới Ba la mật mà nắm lấy Bát
nhã Ba la mật.
3. Thế
nào là an trụ Nhẫn nhục nắm lấy năm Ba la mật kia?
- Bạch đức Thế Tôn!
Thế nào là đại Bồ Tát an trụ Nhẫn nhục Ba la mật mà nắm lấy năm Ba la
mật kia?
- Này Tu Bồ Đề! Bồ
Tát từ lúc mới phát tâm đến lúc ngồi đạo tràng, trong khoảng thời gian đó, nếu
có chúng sanh nào đến giận mắng, hoặc chặt đứt thân thể, Bồ Tát an trụ nhẫn
nhục nghĩ rằng: Tôi phải bố thí tất cả chúng sanh, chẳng nên chẳng cho, chúng
sanh cần ăn uống, cho ăn uống, nhẫn đến tất cả đồ tư sanh nếu cần tôi đều cho
họ tất cả, đem công đức đó cùng chung với tất cả chúng sanh hồi hướng Vô Thượng
Bồ Đề. Lúc Bồ Tát hồi hướng chẳng sanh hai tâm niệm: Ai hồi hướng và hồi hướng
chỗ nào. Đây là đại Bồ Tát an trụ Nhẫn nhục Ba la mật mà nắm lấy Bố thí Ba
la mật.
Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát
từ lúc mới phát tâm đến lúc ngồi đạo tràng, trong khoảng thời gian đó trọn
chẳng giết hại, trộm cướp, tà dâm nhẫn đến chẳng tà kiến, cũng chẳng tham bậc
Thanh Văn, Bích Chi Phật. Đem công đức đó cùng chung với tất cả chúng sanh hồi
hướng Vô Thượng Bồ Đề. Lúc hồi hướng, Bồ Tát chẳng sanh ba tâm niệm: Ai hồi
hướng, dùng pháp gì để hồi hướng và hồi hướng chỗ nào. Đây là đại Bồ Tát an trụ
Nhẫn nhục Ba la mật mà nắm lấy Trì giới Ba la mật.
Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ
Tát an trụ Nhẫn nhục Ba la mật, phát sinh Tinh tấn nghĩ rằng: Tôi sẽ qua một do
tuần, hoặc mười trăm ngàn muôn ức do tuần, tôi sẽ qua một thế giới nhẫn đến qua
trăm ngàn muôn ức thế giới hoặc chỉ để khuyên dạy một người trì ngũ giới thôi,
huống là làm cho họ được quả Tu Đà Hoàn nhẫn đến quả A La Hán, Bích Chi Phật
hay quả Phật. Đem công đức đó cùng chung với tất cả chúng sanh hồi hướng Vô
Thượng Bồ Đề. Đây là đại Bồ Tát an trụ Nhẫn nhục Ba la mật mà nắm lấy Tinh
tấn Ba la mật.
Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ
Tát an trụ Nhẫn nhục Ba la mật, lìa dục, lìa ác, những pháp bất thiện, có giác,
có quán, ly sanh hỉ lạp nhập sơ thiền, nhẫn đến xả niệm thanh tịnh nhập tứ
thiền, trong các thiền ấy tâm, tâm sở thanh tịnh đều hồi hướng Nhất thiết trí.
Lúc hồi hướng, Bồ Tát này ở nơi thiền và thiền chi đều bất khả đắc. Đây là đại
Bồ Tát an trụ nhẫn nhục Ba la mật mà nắm lấy Thiền na Ba la mật.
Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ
Tát an trụ Nhẫn nhục Ba la mật, quán các pháp hoặc tướng ly, tướng tịch diệt,
tướng vô tận, chẳng chứng lấy tướng tịch diệt, nhẫn đến ngồi đạo tràng được Nhất
thiết chủng trí, rời đạo tràng để chuyển pháp luân. Đây là đại Bồ Tát an trụ Nhẫn
nhục Ba la mật mà nắm lấy Bát nhã Ba la mật, vì là chẳng lấy bỏ vậy.
4. Thế
nào là an trụ Tinh tấn nắm lấy năm Ba la mật kia?
- Bạch đức Thế Tôn!
Thế nào là đại Bồ Tát an trụ Tinh tấn Ba la mật mà nắm lấy năm Ba la mật
kia?
- Này Tu Bồ Đề! Bồ
Tát an trụ Tinh tấn Ba la mật, thân tâm tinh tấn chẳng lười chẳng nghỉ, tự nghĩ
rằng: Tôi quyết chắc sẽ được Vô Thượng Bồ Đề, chẳng phải không được. Vì lợi ích
cho chúng sanh mà Bồ Tát này đến một do tuần hoặc đến trăm ngàn muôn ức do
tuần, hoặc qua một thế giới hoặc qua trăm ngàn muôn ức thế giới, hoặc chẳng dạy
được một người vào trong Phật đạo, Thanh Văn đạo, hoặc chỉ dạy được một người
hành mười nghiệp đạo lành, tinh tấn chẳng biếng trễ, làm pháp thí và tài thí
cho họ được đầy đủ. Đem công đức này cùng chung với tất cả chúng sanh hồi hướng
Vô Thượng Bồ Đề, chẳng hồi hướng bậc Thanh Văn, Bích Chi Phật. Đây là Bồ Tát an
trụ Tinh tấn Ba la mật mà nắm lấy Bố thí Ba la mật.
Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát
an trụ Tinh tấn Ba la mật từ lúc mới phát tâm cho đến lúc ngồi đạo tràng, tự
mình chẳng sát sanh, chẳng bảo người sát sanh, hoan hỷ khen ngợi người chẳng
sát sanh, nhẫn đến tự mình xa rời tà kiến, bảo người xa rời tà kiến, hoan hỷ
khen ngợi người chẳng tà kiến. Bồ Tát này an trụ Trì giới Ba la mật, chẳng cầu
phước cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, chẳng cầu bậc Thanh Văn, Bích Chi Phật. Đem
công đức này cùng chung với tất cả chúng sanh hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề, Bồ Tát
chẳng sanh ba tâm niệm: chẳng thấy người hồi hướng, chẳng thấy pháp hồi hướng
và chẳng thấy chỗ hồi hướng. Đây là Bồ Tát an trụ Tinh tấn Ba la mật mà nắm
lấy trì giới Ba la mật.
Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ
Tát an trụ Tinh tấn Ba la mật từ lúc mới phát tâm đến lúc ngồi đạo tràng, trong
khoảng thời gian đó hoặc có Nhơn hay Phi Nhơn đến chặt đứt rời rã thân thể, Bồ
Tát suy nghĩ: Ai chém tôi, ai chặt tôi, ai cướp hại tôi. Bồ Tát lại nghĩ rằng:
Tôi được lợi lành rất lớn, tôi vì chúng sanh mà thọ lấy thân này, hôm nay chúng
sanh đến lấy lại. Khi đó Bồ Tát chánh ức niệm thật tướng các pháp. Đem công đức
này cùng chung với chúng sanh hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề, chẳng cầu bậc Thanh
Văn, Bích Chi Phật. Đây là Bồ Tát an trụ Tinh tấn Ba la mật mà nắm lấy Nhẫn
nhục Ba la mật.
Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát
an trụ Tinh tấn Ba la mật lìa dục ác bất thiện, có giác, có quán, ly sanh hỷ
lạc nhập sơ thiền, nhập nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, nhập từ, bi, hỷ, xả,
nhẫn đến nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ định, thọ trì bốn thiền, bốn vô lượng
tâm và bốn định vô sắc, chẳng thọ quả báo mà thọ sanh nơi lợi ích chúng sanh để
đem sáu Ba la mật thành tựu chúng sanh, đó là Bố thí đến Bát nhã Ba la mật, từ
một Phật độ này đến một Phật độ khác, cúng dường thân cận chư Phật để trồng căn
lành. Đây là Bồ Tát an trụ Tinh tấn Ba la mật mà nắm lấy Thiền na Ba la mật.
Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát
an trụ Tinh tấn Ba la mật, chẳng thấy pháp Bố thí, nhẫn đến chẳng thấy pháp
Thiền na, chẳng thấy tướng Thiền na Ba la mật, chẳng thấy pháp tứ niệm xứ,
chẳng thấy tướng tứ niệm xứ, nhẫn đến chẳng thấy pháp Nhất thiết chủng trí,
chẳng thấy tướng Nhất thiết chủng trí. Thấy tất cả pháp: Phi pháp, phi phi
pháp. Đối với tất cả pháp, Bồ Tát không chấp trước. Bồ Tát này chỗ làm đúng như
chỗ nói. Đây là Bồ Tát an trụ Tinh tấn Ba la mật.
5. Thế
nào là an trụ Thiền na nắm lấy năm Ba la mật kia?
- Bạch đức Thế Tôn!
Thế nào là đại Bồ Tát an trụ Thiền na Ba la mật mà nắm lấy năm Ba la mật
kia?
- Này Tu Bồ Đề! Bồ
Tát an trụ Thiền na Ba Ba la mật lìa dục, lìa ác bất thiện, có giác, có quán,
ly sanh hỷ nhập sơ thiền, nhập nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, nhập từ, bi, hỷ,
xả, nhẫn đến nhập phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ định, an trụ trong Thiền na Ba
la mật, tâm chẳng loạn động, thật hành tài pháp hai sự bố thí lợi ích chúng
sanh. Bồ Tát này tự mình hành hai sự bố thí, dạy người hành bố thí, ca ngợi
pháp bố thí và hoan hỉ khen ngợi người hành bố thí. Đem công đức này cùng chung
với tất cả chúng sanh hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề, chẳng cầu bậc Thanh Văn, Bích
Chi Phật. Đây là Bồ Tát an trụ Thiền na Ba la mật mà nắm lấy Bố thí Ba la
mật.
Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát
an trụ Thiền na Ba la mật chẳng sanh tâm dâm dục, sân khuể, ngu si, chẳng não
hại người, chỉ tu hành tâm tương ưng Nhất thiết trí. Đem công đức này cùng
chung với tất cả chúng sanh hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề, chẳng cầu bậc Thanh Văn,
Bích Chi Phật. Đây là Bồ Tát an trụ Thiền na Ba la mật mà nắm lấy Trì giới Ba
la mật.
Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát
an trụ Thiền na Ba la mật quán sắc như đống bọt, quán thọ như bong bóng nước,
quán tưởng như ánh nắng chói, quán hành như cây chuối, quán thức như huyễn ảo.
Lúc quán như vậy, thấy năm ấm là tướng không bền chắc, nghĩ rằng: Chém tôi là
ai? Chặt tôi là ai? Ai là thọ, là tưởng, ai là hành, là thức, ai là người mắng,
ai là người bị mắng, ai sanh lòng giận. Đây là Bồ Tát an trụ Thiền na Ba la
mật mà nắm lấy nhẫn nhục Ba la mật.
Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát
an trụ Thiền na Ba la mật nhập các thiền định. Các thiền, các định và những
tướng thiền chi đó sanh khởi những thứ thần thông: Đi trên nước như đất, vào
trong đất như nước, có thiên nhĩ, biết tâm niệm người khác là loạn hay định,
biết những đời trước, có thiên nhãn. Nương năm thần thông đó, Bồ Tát từ một
Phật độ đến một Phật độ, thân cận cúng dường chư Phật để trồng căn lành, thanh
tịnh Phật độ, thành tựu chúng sanh. Đem công đức này cùng chung với tất cả
chúng sanh hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề. Đây là Bồ Tát an trụ Thiền na Ba la
mật mà nắm lấy Tinh tấn Ba la mật.
Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát
an trụ Thiền na Ba la mật chẳng thấy có sắc, chẳng thấy có thọ, tưởng, hành,
thức, chẳng thấy có sáu Ba la mật, chẳng thấy có tứ niệm xứ đến Nhất thiết
chủng trí, chẳng thấy có tánh hữu vi, tánh vô vi, vì chẳng thấy có nên chẳng
tác, vì chẳng tác nên chẳng sanh, vì chẳng sanh nên chẳng diệt. Tại sao vậy? Vì
có Phật hay không Phật vẫn là như: Pháp tướng, pháp tánh thường trụ, chẳng
sanh, chẳng diệt. Bồ Tát này thường nhứt tâm đúng Nhất thiết chủng trí. Đây là
Bồ Tát an trụ Thiền na Ba la mật.
6. Thế
nào là an trụ Bát Nhã nắm lấy năm Ba la mật kia?
- Bạch đức Thế Tôn!
Thế nào là Bồ Tát an trụ Bát nhã Ba la mật mà nắm lấy năm Ba la mật kia?
- Này Tu Bồ Đề! Bồ
Tát an trụ Bát nhã Ba la mật: nội không, nội không bất khả đắc, ngoại không,
ngoại không bất khả đắc, nội ngoại không, nội ngoại không bất khả đắc, không
không, không không bất khả đắc, nhẫn đến nhứt thiết pháp không, nhứt thiết pháp
không bất khả đắc. Bồ Tát an trụ trong mười bốn không đó, chẳng thấy có tướng
sắc hoặc không hay chẳng không, chẳng thấy có tướng thọ, tưởng, hành, thức hoặc
không hay chẳng không, nhẫn đến chẳng thấy có Vô Thượng Bồ Đề hoặc không hay
chẳng không, chẳng thấy có tánh hữu vi, tánh vô vi hoặc không hay chẳng không.
Bồ Tát này an trụ trong Bát nhã Ba la mật như vậy có bố thí đều quán bố thí
không. Những gì là không? Người thí, kẻ thọ và tài vật đều không, chẳng để tâm
niệm bỏn sẻn tham trước sanh khởi. Tại sao vậy? Đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la
mật từ lúc mới phát tâm đến lúc ngồi đạo tràng không có vọng tưởng phân biệt,
như chư Phật lúc được Vô Thượng Bồ Đề không có tâm tham trước, đại Bồ Tát lúc
hành Bát nhã Ba la mật cũng không có tâm tham trước. Chỗ đáng tôn trọng nhứt
của Bồ Tát này chính là Bát nhã Ba la mật vậy. Đây là Bồ Tát an trụ Bát nhã
Ba la mật mà nắm lấy Bố thí Ba la mật.
Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát
an trụ Bát nhã Ba la mật chẳng sanh tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật. Với Bồ Tát
này, bực Thanh Văn, Bích Chi Phật bất khả đắc, tâm xu hướng Thanh Văn, Bích Chi
Phật cũng bất khả đắc. Bồ Tát này từ lúc mới phát tâm đến lúc ngồi đạo tràng,
trong khoảng thời gian đó tự mình chẳng sát sanh, chẳng bảo người sát sanh,
hoan hỷ khen ngợi người chẳng sát sanh, nhẫn đến tự mình không tà kiến, chẳng
bảo người tà kiến, ca ngợi pháp chẳng tà kiến, hoan hỷ khen ngợi người chẳng tà
kiến. Do vì nhơn duyên trì giới này không có pháp nắm lấy được, hoặc bậc Thanh
Văn, Bích Chi Phật huống là những pháp khác. Đây là Bồ Tát an trụ Bát nhã Ba
la mật nắm lấy Trì giới Ba la mật.
Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát
an trụ Bát nhã Ba la mật phát sanh tùy thuận pháp nhẫn, nghĩ rằng trong pháp
này không có pháp gì hoặc sanh hoặc diệt, hoặc sanh hoặc tử, không có pháp gì
hoặc chửi hoặc mắng, hoặc chém hoặc chặt, hoặc trói hoặc đánh, hoặc đạp hoặc
giết. Bồ Tát này từ lúc mới phát tâm đến lúc ngồi đạo tràng, nếu hoặc có tất cả
chúng sanh đến mắng chửi, dùng dao gậy ngói đá chém chặt tổn hại, Bồ Tát chẳng
động tâm, Bồ Tát nghĩ rằng: Rất lạ thay, trong pháp này chẳng có ai bị mắng
giết tổn hại cả mà chúng sanh lại nhận sự khổ não này. Đây là Bồ Tát an trụ Bát
nhã Ba la mật nắm lấy Nhẫn nhục Ba la mật.
Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát
an trụ Bát nhã Ba la mật vì chúng sanh mà thuyết pháp khiến họ hành sáu Ba la
mật, dạy họ tu tứ niệm xứ đến bát Thánh đạo, cho họ được quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà
Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chí Phật, cho họ được quả Vô Thượng Bồ Đề, chẳng
an trụ trong tánh hữu vi, chẳng an trụ trong tánh vô vi. Đây là Bồ Tát an
trụ Bát nhã Ba la mật mà nắm lấy Tinh tấn Ba la mật.
Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát
an trụ Bát nhã Ba la mật nhập tất cả các tam muội, ngoại trừ tam muội của chư
Phật, hoặc tam muội của Thanh Văn, của Bích Chi Phật, của Bồ Tát đều hành, đều
nhập cả. Nơi các tâm tam muội đó, Bồ Tát nghịch thuận xuất nhập tám bội xả:
Bội xả thứ nhất là trong có sắc tướng ngoài quán sắc; bội xả thứ hai là trong
không sắc tướng ngoài quán sắc; bội xả thứ ba là tịnh bội xả thân tác chứng;
bội xả thứ tư là vượt qua tất cả sắc tướng, dứt diệt tướng có đối đãi, vì chẳng
nghĩ nhớ các thứ sắc tướng nên nhập hư không vô biên xứ; bội xả thứ năm là vượt
qua tất cả hư không xứ, nhập thức vô biên xứ; bội xả thứ sáu là vượt qua tất cả
thức xứ; nhập vô sở hữu xứ; bội xả thứ bảy là vượt qua tất cả vô sở hữu xứ,
nhập phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ; bội xả thứ tám là vượt qua tất cả phi tưởng
phi phi tưởng xứ, nhập diệt thọ, tưởng, định. Nơi chánh định tám thứ bội xả, Bồ
Tát này nghịch thuận xuất nhập chín thứ đệ định: Bốn thiền, bốn định vô
sắc và diệt thọ tưởng định. Bồ Tát này nói tám bội xả và chín thứ đệ định mà
nhập sư tử phấn tấn tam muội: Nhập sơ thiền, xuất sơ thiền, nhập nhị
thiền, nhẫn đến xuất phi phi tưởng xứ định nhập diệt tận định, xuất diệt tận
định nhập phi phi tưởng xứ định nhẫn đến xuất nhị thiền, nhập sơ thiền. Bồ Tát
này y nơi sư tử phấn tấn tam muội mà nhập siêu việt tam muội(2): Nhập sơ
thiền, xuất sơ thiền nhập nhị thiền, nhẫn đến xuất phi phi tưởng xứ nhập diệt
thọ tưởng định, xuất diệt tận định nhập sơ thiền, xuất sơ thiền nhập diệt tận
định, xuất diệt tận định nhập nhị thiền, xuất nhị thiền nhập diệt tận định,
xuất diệt tận định nhập tam thiền, xuất tam thiền nhập diệt tận định, xuất diệt
tận định nhập hư không xứ, xuất hư không xứ nhập diệt tận định, xuất diệt tận
định nhập thức xứ, xuất thức, xứ nhập diệt tận định nhập thức xứ, xuất thức, xứ
nhập diệt tận định, xuất diệt tận định nhập vô sở hữu xứ, xuất vô sở hửu xứ
nhập diệt tận định, xuất diệt tận định nhập phi phi tưởng xứ, xuất phi phi
tưởng xứ nhập diệt tận định nhập tán tâm ra tán tâm nhập diệt tận định, xuất
diệt tận định lại nhập tán tâm, ra tán tâm nhập phi phi tưởng xứ, xuất phi phi
tưởng xứ lại vào tán tâm, ra tán tâm nhập vô sỡ hữu xứ, xuất vô sở hữu xứ vào
tán tâm, ra tán tâm nhập thức xứ, xuất thức xứ vào tán tâm, ra tán tâm nhập
không xứ, xuất không xứ vào tán tâm, ra tán tâm nhập tứ thiền, xuất tứ thiền
vào tán tâm, ra tán tâm nhập tam thiền, xuất tam thiền vào tán tâm, ra tán tâm
nhập nhị thiền, xuất nhị thiền vào tán tâm, ra tán tâm nhập sơ thiền, xuất sơ
thiền vào tán tâm. Bồ Tát này ở nơi siêu việt tam muội chứng được tướng bình
đẳng của tất cả pháp. Đây là Bồ Tát an trụ Bát nhã Ba la mật mà nắm lấy
Thiền na Ba la mật”.
Thích nghĩa:
(1). Dẫn nhiếp hay tương nhiếp: Nhiếp phục lẫn nhau, cùng
chung với nhau, chia sẻ cùng nhau.
(2). Các loại Thiền như Bát bội xả, Cửu thứ đệ định đã
giải thích sơ lược ở phần thứ I Tổng luận. Còn các thứ Tam muội khác như Sư tử
phấn tấn tam muội, Siêu việt tam muội được đức Phật giải thích ở phẩm “Dẫn
Nhiếp”, quyển 350, ĐBN, nên không cần ghi lại.
Lược
giải:
Bố thí có sức mạnh riêng của Bố thí, trì giới có sức mạnh
riêng của trì giới, các Ba la mật khác cũng như vậy. Tu bố thí thì được phước
đức trong cõi trời người, tu tịnh giới tột cùng thì trở thành Thánh nhân, tu
thiền thì có thể thành chư thiên trong nhị thập ngũ hữu thuộc ba cõi, tu Bát
Nhã thì có trí tuệ hơn người, v.v... Kết quả của các pháp tu Ba la mật
riêng rẽ chỉ có giới hạn, không thể thành tựu Giác ngộ, được Nhất thiết trí trí
hay Chánh giác.
Nội lực của một pháp tu riêng rẽ không bằng tổng lực của
sáu pháp tu Ba la mật hiệp lại. Chúng hỗ tương sanh khởi, tạo thành một sức
mạnh mới, dẫn nhiếp nhau để đưa đến một giới xứ cao hơn, nên mới nói là lục độ
tương nhiếp. Vì thế, người tu mới có hy vọng chứng ngộ cảnh giới cao nhất là
Giác ngộ, thành tựu Nhất thiết trí trí và trở thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
giác.
Do đó,chư Phật mười phương ba đời luôn luôn chăm sóc các Ba
la mật như các con chăm sóc mẹ hiền, và chư Phật cũng đồng hộ niệm cho những ai
thọ trì, đọc tụng, vì người giảng nói, truyền bá rộng rãi sáu pháp Ba la mật
này.
Phẩm này một lần nữa nhắc lại giáo pháp nhiếp phục lẫn
nhau của lục Ba la mật, đã thuyết ở quyển 47 đến quyển 49, phẩm “Ma Ha Tát”
rồi, nên ở đây không cần trùng tuyên nữa.
---o0o---