PHẨM “KHEN PHÁP CHẮC THẬT”(1)
Phần sau quyển 342 đến phần đầu quyển 346, Hội thứ I, ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Hư Không” quyển thứ 21, MHBNBLMĐ)
Tóm
lược:
Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Đại Bồ tát khi hành Bát nhã Ba la mật sâu xa là hành pháp
chắc thật hay là hành pháp không chắc thật?
Thiện Hiện đáp:
- Đại Bồ tát khi hành Bát nhã Ba la mật sâu xa, là hành
pháp không chắc thật, chẳng phải hành pháp chắc thật. Vì sao? Thưa Tôn giả!
Vì Bát nhã Ba la mật không chắc thật; tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố
thí Ba la mật cũng không chắc thật.
Thưa Tôn giả Xá lợi Tử! Vì pháp không nội không chắc thật,
pháp không ngoại không chắc thật cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng
không chắc thật; chơn như pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế…
cũng không chắc thật; mười hai xứ, mười
tám giới, tứ thiền, tứ vô
lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí…; bốn tịnh lự,
bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng không chắc thật; tám giải thoát tám thắng
xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không chắc thật; Nhất thiết trí… cho đến Bồ
tát hạnh, quả vị Giác ngộ tối cao cũng không chắc thật.
Thưa Tôn giả Xá lợi Tử! Nhất thiết trí trí cũng không chắc
thật. Vì sao?
Thưa Tôn giả Xá lợi Tử! Vì Bồ tát khi hành Bát Nhã,
đối với Bát Nhã thấy “pháp chắc thật” chẳng khá nắm bắt được huống chi thấy
“pháp không chắc thật”; đối với tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí,
thấy pháp chắc thật chẳng khá nắm bắt được, huống chi thấy có pháp không
chắc thật.
Đại Bồ tát khi hành Bát Nhã, đối với pháp không nội thấy pháp
chắc thật chẳng khá nắm bắt được, huống chi thấy có pháp không chắc thật; đối
với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại… cho đến pháp không không tánh tự
tánh cũng thấy pháp chắc thật chẳng khá nắm bắt được, huống chi thấy có pháp
không chắc thật; đối với chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế… cũng thấy
pháp chắc thật chẳng khá nắm bắt được, huống chi thấy có pháp không chắc thật
khá được; đối với mười hai xứ, mười
tám giới, tứ thiền, tứ vô
lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cũng thấy pháp
chắc thật chẳng khá nắm bắt được, huống chi thấy có pháp không chắc thật. Đại
Bồ tát khi hành Bát Nhã, đối với Bồ tát hạnh, quả vị Giác ngộ tối cao của chư
Phật cũng thấy pháp chắc thật chẳng khá nắm bắt được, huống chi thấy có pháp
không chắc thật khá được.
Khi ấy, các Thiên tử cõi Dục, cõi Sắc đều nghĩ: Nếu thiện nam
thiện nữ nào có khả năng phát tâm cầu chứng quả vị Giác ngộ tối cao, như nghĩa
hạnh mà Bát Nhã đã nói, học tất cả pháp mà không chứng thật tế, để nhập Niết
bàn thì chẳng rơi vào bậc Thanh văn và Độc giác. Đại Bồ tát ấy rất hiếm có, có
khả năng làm việc khó làm, phải nên kính bái.
Biết tâm niệm của các Thiên tử, nên Thiện Hiện bảo: Đại Bồ
tát ấy chẳng chứng thật tế, chẳng rơi vào bậc Thanh văn và Độc giác, chưa phải
là hy hữu. Nếu đại Bồ tát
biết tất cả pháp và các hữu tình đều chẳng thể nắm bắt được mà phát tâm cầu quả
vị Giác ngộ tối cao, mang giáp bị đại bi, độ vô lượng, vô số, vô biên hữu tình,
làm cho chứng đắc Niết bàn rốt ráo, thì đại Bồ tát ấy mới rất hiếm có, có khả
năng làm việc khó làm.
Này các thiên tử! Nên biết, các đại Bồ tát mang giáp bị đại
bi, là vì muốn điều phục tất cả hữu tình, nhưng các hữu tình hoàn toàn vô sở
hữu, như có người mang giáp bị đánh nhau với hư không.
Này các thiên tử! Nên biết, các đại Bồ tát mang giáp bị đại
bi vì muốn lợi lạc tất cả hữu tình, nhưng các hữu tình và giáp bị đại bi đều
chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Này các thiên tử! Vì hữu tình xa lìa, nên biết
giáp bị đại bi này cũng xa lìa; vì hữu tình rỗng không, nên biết giáp bị đại bi
này cũng rỗng không; vì hữu tình chẳng chắc thật, nên biết giáp bị này cũng
không chắc thật; vì hữu tình vô sở hữu, nên biết giáp bị này cũng vô sở hữu.
Đại Bồ tát ấy, tuy biết hữu tình hoàn toàn vô sở hữu, nhưng
phát tâm cầu quả vị Giác ngộ, mang giáp bị đại bi muốn điều phục các loài hữu
tình, nhưng sự điều phục ấy chẳng khác nào điều phục hư không. Vì sao? Vì hư
không xa lìa, nên biết tất cả hữu tình cũng xa lìa; vì hư không rỗng không, nên
biết tất cả hữu tình cũng rỗng không; vì hư không không chắc thật, nên biết tất
cả hữu tình cũng không chắc thật; vì hư không vô sở hữu, nên biết tất cả hữu
tình cũng vô sở hữu. Vì vậy, đại Bồ tát ấy rất hiếm có, có khả năng làm việc
khó làm.
Nên biết, việc điều phục phúc lạc cho các hữu tình của các
đại Bồ tát cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì hữu tình xa lìa, nên biết sự
điều phục cũng xa lìa; vì hữu tình rỗng không, nên biết sự điều phục cũng rỗng
không; vì hữu tình chẳng chắc thật, nên biết sự điều phục cũng không chắc thật;
vì hữu tình vô sở hữu, nên biết sự điều phục phúc lạc này cũng vô sở hữu.
Nên biết, các đại Bồ tát cũng vô sở hữu. Vì sao? Vì hữu tình
xa lìa, nên biết đại Bồ tát cũng xa lìa; vì hữu tình rỗng không, nên biết đại
Bồ tát cũng rỗng không; vì hữu tình không chắc thật, nên biết đại Bồ tát cũng
không chắc thật; vì hữu tình vô sở hữu, nên biết đại Bồ tát cũng vô sở hữu.
Đối với Bát Nhã tất cả đều rỗng không: Các pháp kể cả hữu
tình, Bồ tát đều rỗng không, vô sở hữu, bất khả đắc, thì có gì có thể nói là
chắc hay không chắc. Học Bát Nhã, hành Bát Nhã như hành hư không. Nếu đại Bồ
tát nghe như vậy mà tâm chẳng chìm đắm, chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng lo
buồn, hối tiếc, thì nên biết đại Bồ tát ấy có thể tu hành Bát nhã Ba la mật
thâm sâu.
Lìa sắc nên lìa hữu tình; lìa thọ, tưởng, hành, thức nên lìa
hữu tình; lìa mười hai xứ, mười tám giới, lìa tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô
sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến lìa quả vị Giác ngộ tối
cao nên lìa hữu tình.
Lìa sắc nên lìa lục Ba la mật; lìa thọ, tưởng, hành, thức nên
lìa lục Ba la mật; lìa sắc nên lìa pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không
nội ngoại…cho đến pháp không không tánh tự tánh; lìa thọ, tưởng, hành, thức nên
lìa pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh; lìa sắc nên lìa chơn
như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế v.v…; lìa thọ, tưởng,
hành, thức nên lìa chơn như cho đến thật tế v.v…; lìa sắc nên lìa Tứ Thánh đế;
lìa thọ, tưởng, hành, thức nên lìa Tứ Thánh đế; lìa sắc nên lìa bốn tịnh lự,
bốn vô lượng, bốn định vô sắc; lìa thọ, tưởng, hành, thức nên lìa bốn tịnh lự,
bốn vô lượng, bốn định vô sắc v.v…
Cũng như vậy, vì lìa ba mươi bảy pháp trợ đạo, ba môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, thập vị
Bồ tát, ngũ nhãn, lục thần thông, Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu
biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng,
pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất
thiết chủng trí, tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa, bốn quả Thanh văn, Bích
Chi Phật, tất cả Bồ tát hạnh, quả vị Giác ngộ tối cao tức là lìa tất cả pháp
Phật. Vì lìa tất cả pháp Phật như thế nên xa sáu pháp Ba la mật, xa Nhất
thiết chủng trí và xa lìa luôn quả vị Vô Thượng Bồ đề. (Q.345, ĐBN)
Cứ lìa
một pháp thì xa một
pháp, nếu lìa tất cả pháp Phật thì không còn pháp nào để tu để học nữa! Nếu không còn pháp nào để
tu để học thì làm sao chứng, làm sao độ? Không phải tác giả Bát Nhã cố ý nói
như vậy. Bát Nhã muốn nói bản chất tất cả pháp đều chẳng phải có, đều viễn ly,
vì tất cả pháp đều vắng lặng, vì tất cả pháp đều vô sở hữu, đều không sanh
diệt... chẳng thể nắm bắt được, nên gọi là pháp không chắc thật.
Thật ra, không có pháp chắc thật hay không chắc thật. Chắc
hay không chắc là nhị nguyên pháp. Pháp Phật bất nhị. Nói có nói không chỉ là
phương tiện dẫn dắt chúng sanh: Pháp không chắc thật có nghĩa là không kiên cố,
không bền chắc, nên phải xa lìa. Đừng bám víu vào chúng mà khổ lụy thân tâm.
Nếu không bám, thì không hệ lụy hay nói khác nếu không bám víu chúng thì không
bị trói buộc bởi chúng. Nếu không bị trói buộc thì được tự tại, tâm chẳng chìm,
chẳng đắm, chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng lo buồn, hối tiếc. Nên Kinh nói:
Nếu đại Bồ tát nghe nói các pháp viễn ly mà tâm chẳng chìm,
chẳng đắm, chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng lo buồn, hối tiếc, thì nên biết đại
Bồ tát ấy đã từng tu hành
thậm thâm Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì tất cả pháp đều chẳng phải có,
nên các đại Bồ tát đối với Bát Nhã, tâm chẳng chìm, chẳng đắm. Vì tất cả pháp đều
viễn ly, vì tất cả pháp đều vắng lặng, vì tất cả pháp đều vô sở
hữu, vì tất cả pháp đều không sanh diệt, nên các đại Bồ tát đối với Bát
Nhã, tâm chẳng chìm, chẳng đắm. Do những nhân duyên như thế, nên các đại Bồ tát
đối với Bát Nhã, tâm chẳng chìm, chẳng đắm. Vì sao? Vì các đại Bồ tát đối với
tất cả pháp hoặc năng chìm đắm, hoặc sở chìm đắm, hoặc thời chìm đắm, hoặc xứ
chìm đắm, hoặc sự chìm đắm, do đó mà chìm đắm, đều chẳng thể nắm bắt được, vì tất
cả pháp chẳng thể nắm bắt được. Nếu các đại Bồ tát nghe nói như vậy, tâm
chẳng chìm, chẳng đắm, chẳng kinh, chẳng sợ v.v… thì nên biết đại Bồ tát ấy đã
từng tu hành thậm thâm Bát nhã Ba la mật. (Q.346,
ĐBN)
Nếu đại Bồ tát thường tu hành Bát Nhã như thế, không những
Thiên Đế Thích, Đại Phạm Thiên vương, các chúa tể thế giới thường kính lễ mà
trời Cực quang tịnh, hoặc trời Biến tịnh, hoặc trời Quảng quả, hoặc trời Tịnh
cư và các chúng trời khác, thường cung kính lễ bái, cả đến tất cả Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác trong vô lượng, vô số, vô biên thế giới khắp mười phương cũng
thường hộ niệm.
Nếu đại Bồ tát ấy thường tu hành Bát Nhã như vậy, thì không
những làm cho việc tu hành Bát Nhã sớm được viên mãn mà còn làm cho tất
cả pháp Phật và các thiện căn công đức sớm hoàn thành, mau chứng quả
Vô Thượng Bồ đề.
Nếu đại Bồ tát thành tựu hai pháp: Một là quán các pháp
đều rốt ráo không; hai là chẳng bỏ hữu tình thì vô lượng ác ma trong hằng
sa thảy chẳng có thể cản trở phá hoại, chẳng có thể ngăn cản sự tu hành Bát Nhã,
cũng chẳng thể phá hoại sở cầu quả vị Vô Thượng Giác ngộ. Các đại Bồ tát chỉ
thành tựu được hai
pháp ấy đúng như lời chư Phật
đã nói thời được chư Phật thường hộ niệm.
Nếu các đại Bồ tát thường an trụ Bát Nhã như thế, thì chư
Phật hiện tại trong vô lượng, vô số, vô biên thế giới mười phương, ở giữa đại
chúng hoan hỷ, tán dương, khen ngợi danh tự dòng họ và các công đức của các đại
Bồ tát ấy.
Bồ tát tu hành Bát Nhã mặc dầu đối với tánh vô sanh, đối
với tánh không, đối với tánh tịch tịnh, đối với tánh viễn ly, đối với tánh vô
sở hữu, đối với tánh chẳng tự tại, đối với tánh chẳng chắc thật của tất cả
pháp, phát sanh tin hiểu sâu sắc, cũng chưa chắc chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn.
Nếu các Bồ tát đối với Bát nhã Ba la mật mà Phật đã thuyết phát sanh lòng tin
thanh tịnh, trụ đúng lời, hành đúng như lời. Trụ và hành đúng như lời sẽ được
Vô sanh pháp nhẫn, rồi an trụ trong Nhất thiết chủng trí, sẽ chứng đắc Vô
Thượng Bồ đề.
Tu Bồ Đề bạch Phật:
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu như đức Phật nói chư đại Bồ Tát trụ
đúng như lời, hành đúng như lời, sẽ an trụ trong Nhất thiết chủng trí? Đại Bồ
Tát không pháp để được thì thế nào lại có thể an trụ trong Nhất thiết chủng
trí?
- Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát trụ trong pháp như (chơn
như của pháp) đó là an trụ Nhất thiết chủng trí.
- Bạch đức Thế Tôn! Trừ như ra, không còn pháp nào để được
thì ai trụ trong như, trụ trong như rồi sẽ được Vô Thượng Bồ Đề? Ai trụ trong
như để thuyết pháp? Như ấy còn chẳng thể được, huống là trụ trong như được Vô
Thượng Bồ Đề? Không bao giờ có ai trụ trong như để thuyết pháp?
- Này Tu Bồ Đề! Đúng như vậy. Trừ như ra không còn pháp nào
để được, ai trụ trong như, trụ trong như rồi sẽ được Vô Thượng Bồ Đề, ai trụ
trong như để thuyết pháp. Như ấy còn chẳng thể được, huống là ai trụ trong như
được Vô Thượng Bồ Đề. Ai trụ trong như để thuyết pháp. Tại sao vậy? Như ấy
không có sanh, không có diệt, không có trụ, không có dị. Nếu pháp không có
sanh, diệt, trụ, dị thì trong đó ai sẽ trụ như. Ai sẽ trụ như mà thuyết pháp.
Không bao giờ có việc đó.
Tới đây, Thích Đề Hoàn Nhân thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Ở trong Bát
nhã Ba la mật thậm thâm muốn được Vô Thượng Bồ Đề rất là khó. Tại sao vậy? Vì
không có ai trụ trong như, cũng không ai được Vô Thượng Bồ Đề, cũng không ai
thuyết pháp? Đối với pháp tánh thậm thâm, tâm chẳng kinh sợ, các việc như thế
rất là hi hữu?
Cụ thọ Thiện Hiện bảo Thích đề Hoàn nhân:
Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật thẳm sâu, quán
tất cả pháp, không pháp nào đều chẳng không. Nghĩa là quán tất cả
pháp hữu sắc không, pháp vô sắc cũng không. Quán tất cả pháp hữu kiến không,
pháp vô kiến cũng không. Quán tất cả pháp hữu đối không, pháp vô đối cũng
không. Quán tất cả pháp hữu lậu không, pháp vô lậu cũng không. Quán tất cả pháp
hữu vi không, pháp vô vi cũng không. Quán tất cả pháp thế gian không, pháp xuất
thế gian cũng không. Quán tất cả pháp vắng lặng không, pháp chẳng vắng lặng
cũng không. Quán tất cả pháp xa lìa không, pháp chẳng xa lìa cũng không. Quán
tất cả pháp quá khứ không, pháp vị lai, hiện tại cũng không. Quán tất cả pháp
thiện không, pháp bất thiện, vô ký cũng không. Quán tất cả pháp cõi Dục không,
pháp cõi Sắc, Vô sắc cũng không. Quán tất cả pháp học không, pháp vô học, chẳng
phải học, chẳng phải vô học cũng không. Quán tất cả pháp thấy đoạn không, pháp
tu đoạn, chẳng phải đoạn cũng không. Quán tất cả pháp hữu không, pháp vô, pháp
phi hữu phi vô cũng không. Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật
thẳm sâu, quán tất cả pháp như thế thảy đều không. Trong các pháp không đều vô
sở hữu, thì ai chìm, ai đắm, ai sợ, ai kinh, ai nghi, ai ngại? Vậy nên, Kiều
Thi Ca! Các đại Bồ tát tu hành sâu sắc Bát nhã Ba la mật, đối với pháp tánh sâu
xa, tâm chẳng chìm đắm, chẳng sợ, chẳng kinh, không nghi, không ngại, là việc
dĩ nhiên.
Thích đề Hoàn Nhân nói:
- Những điều Tôn giả đã nói tất cả đều nương không, vậy
nên không ngăn ngại. Ví như lấy tên bắn hư không hoặc xa hoặc gần đều không
ngăn ngại. Tôn giả đã nói cũng lại như vậy, còn ai có thể dám đối chất.
Tất cả pháp đều không, đều không chắc thật, thì làm sao tu
hành pháp không, pháp không chắc thật mà được Vô Thượng Bồ đề? Vậy mà có người
vẫn tiếp tục tu hành và vẫn có người do pháp nầy mà chứng đắc quả vị Vô Thượng
Giác ngộ tiếp nối dòng giống Phật. Đó chính là cái vi diệu của Bát Nhã. Cái đó
mới hi hữu! Kinh nhấn mạnh các pháp không, các pháp không bền chắc, các pháp
đều như, vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Nếu hiểu như vậy, tu như vậy, hành
như vậy thì không có chướng ngại, mau chứng Vô Thượng Bồ đề. Ở đây, Kinh
không khen pháp chắc thật hay chẳng chắc thật, kiên cố hay chẳng kiên cố mà ở
đây Kinh mật ý nói hành mà không thấy năng hành, sở hành, đó là vô đạo hành.
Hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.
Thích nghĩa:
(1). Kinh Đại Bát Nhã do HT. Thích Trí Nghiêm dịch từ Hán
sang Việt có hai bản, một bản đăng ở thuvienhoasen.org dịch nguyên văn câu chữ
Hán “堅 kiên 等 đẳng 讚 tán 品 phẩm”
là phẩm “Khen tánh chắc thật”; bản khác đăng ở tuvienquangduc.com lại dịch
là phẩm “Khen bền chắc thảy”; trong khi Kinh Ma Ha Bát nhã Ba la mật do Ngài
Thích Trí Tịnh cũng dịch từ Hán sang Việt lại dùng “Pháp chơn thật”. Và câu mở
đầu nguyên văn bản chữ Hán là: “菩 Bồ 薩 Tát 摩 Ma
訶 Ha 薩 Tát . 行 hành
深 thâm 般 Bát 若 Nhã
波 Ba 羅 La 蜜 Mật
多 Đa 時 thời . 為 vi
行 hành 堅 kiên 實 thật
法 pháp . 為 vi 行 hành 無 vô
堅 kiên 實 thật 法 pháp
耶 da” . Cụm từ “hành kiên
thật pháp” có thể tạm dịch là “hành pháp chắc thật”, vì từ “kiên” có nghĩa là
chắc chắn, bền chắc hay kiên cố. Hội thứ II, tập 19, có phẩm tựa “Kiên Cố,
Chẳng Kiên Cố”, website thưvienhoasen. org lại dùng từ “kiên cố”. Từ chắc thật,
bền chắc, kiên cố, kiên định dịch từ chữ Hán “堅固”.
Lược
giải:
Phật dùng nhiều phương tiện khác nhau để chỉ rõ cái thiên
sai vạn biệt của tất cả pháp trên thế gian này. Bằng nhiều cách diễn tả khác
nhau, Phật bảo: Các pháp nào là giả danh, chỉ có tên gọi, không có tự tánh; nào
là rỗng không, không tánh không tướng, không thể không dụng; nào là như huyễn,
như mộng vì không thật có chỉ do duyên hợp; nào là như, như vậy là như vậy,
chẳng lúc nào chẳng như, như đó bình đẳng, bình đẳng đó gọi là thanh tịnh… Tới
đây, Phật nói về tánh các pháp: Bền chắc hay chẳng bền chắc. Tất cả
những chỉ dẫn đó không ngoài chủ đích ngăn chận chúng sanh không nên dùng cảm
quan và ý thức nhìn vạn hữu phơi bày trước mắt bằng cái nhìn “duy thực”. Cái
thấy biết ngây ngô dễ sanh phân biệt chấp trước. Và một khi chấp trước sẽ đưa
đến thiên lệch, nghiêng ngả làm nhiễu loạn thân tâm, không thể tu hành được. Vì
sao? Vì những cảm thọ dễ sanh phiền não chướng và ý thức dễ sanh sở tri chướng.
Có chướng là có phiền não, mà phiền não thì đi ngược với giác ngộ thì làm sao
tu, làm sao chứng.
Vì vậy, Phật bảo “Bồ tát khi hành Bát nhã Ba la mật
thặm thâm, là hành pháp không chắc thật, chẳng phải hành pháp chắc thật. Vì
sao? Vì Bát nhã Ba la mật không chắc thật; tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh
giới, bố thí Ba la mật cũng không chắc thật”. Không những lục Ba la mật không
chắc thật, mà tất cả pháp Phật kể cả Vô Thượng Bồ đề cũng không chắc thật. Vì
sao? Vì tất cả pháp vô sở hữu, không thể nắm bắt được”. Mong
cầu, nắm bắt chẳng khác nào nắm bắt một làn hương. Cái có được không phải từ
ngoài vào, đuổi bắt chẳng khác nào bỏ hình bắt bóng. Biết vậy, thì đừng nương
vịn vào các pháp, cũng đừng mong cầu, nắm bắt.
Kinh nói: “Đối với Bát Nhã tất cả đều rỗng không:
Các pháp kể cả hữu tình, Bồ tát đều rỗng không, vô sở hữu, bất khả đắc, thì có
gì có thể nói là chắc hay không chắc. Học Bát Nhã, hành Bát Nhã như hành hư
không. Nếu đại Bồ tát nghe như vậy mà tâm chẳng chìm đắm, chẳng kinh, chẳng sợ,
cũng chẳng lo buồn, hối tiếc, thì nên biết đại Bồ tát ấy có thể tu hành sâu sắc
Bát nhã Ba la mật”.
Nương vịn hay nắm bắt sẽ bị hệ lụy hay bị trói buộc bởi pháp.
Nhưng cũng không xa lìa. Xa lìa Tứ Thánh đế thì không có Thanh văn, xa lìa Thập
nhị nhân duyên thì không có Bích Chi Phật, xa lìa lục Ba la mật thì không có Bồ
tát. Lìa một pháp thì mất một pháp, lìa tất cả pháp Phật thì không còn gì để
học, để tu. Phải “mượn chỉ để đưa diều qua khỏi gió”. Vậy, nương mà chẳng
nương, xa lìa mà chẳng xa lìa là vậy. Vì sao?
Vì: “Các đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật thẳm sâu, quán
tất cả pháp, không pháp nào chẳng đều không. Nghĩa là quán tất cả
pháp hữu sắc không, pháp vô sắc cũng không. Quán tất cả pháp hữu kiến không,
pháp vô kiến cũng không. Quán tất cả pháp hữu đối không, pháp vô đối cũng
không. Quán tất cả pháp hữu lậu không, pháp vô lậu cũng không. Quán tất cả pháp
hữu vi không, pháp vô vi cũng không. Quán tất cả pháp thế gian không, pháp xuất
thế gian cũng không. Quán tất cả pháp vắng lặng không, pháp chẳng vắng lặng
cũng không. Quán tất cả pháp xa lìa không, pháp chẳng xa lìa cũng không v.v…
Quán tất cả pháp hữu không, pháp vô, pháp phi hữu phi vô cũng không. Các đại Bồ
Tát hành Bát nhã Ba la mật thẳm sâu, quán tất cả pháp như thế thảy đều không. Trong
các pháp không, (tất cả) đều vô sở hữu, thì ai chìm, ai đắm, ai
sợ, ai kinh, ai nghi, ai ngại?”
Nếu quán các pháp đều không thì không còn khen pháp chắc
thật hay chẳng chắc thật, chơn thật hay chẳng chơn thật, kiên cố hay chẳng kiên
cố. Cứ theo tín giải mà tu hành, thì sẽ sanh lòng tin thanh tịnh, mau chứng
Vô Thượng Bồ đề. Đó cũng là pháp môn giản dị để tu để hành, không cần phải
có các pháp môn vi diệu mới có thể đắc quả?
---o0o---