Nguồn: https://quangduc.com/
PHẨM “VÔ SANH”(1).
Phần cuối quyển 74 cho đến phần đầu quyển 75, Hội thứ I,
ĐBN.
(Tương đương với phần đầu quyển thứ 08, phẩm “Vô Sanh”,
MHBNBLMĐ)
Gợi
ý:
Thấy có sanh có diệt là cái thấy của Tục đế (tương đối),
cái thấy bị chi phối bởi thế giới lưỡng nguyên còn mất có không, tốt xấu, nhiễm
tịnh... của cuộc đời thường. Còn thấy vô sanh vô diệt là cái thấy Chân đế, cái
thấy tuyệt đối thanh tịnh, nên không bị hệ lụy của cuộc sống thế tục.
Tóm
lược:
Các đại Bồ tát tu hành Bát Nhã khi quán các pháp vì thấy ngã
là vô sanh nên rốt ráo thanh tịnh; vì thấy hữu tình, dòng sinh mạng, sự
sanh, sự dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, người do người sanh, ngã tối
thắng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng tạo nghiệp,
khả năng khiến người tạo nghiệp, tự thọ quả báo, khiến người thọ quả báo, cái
biết, cái thấy là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.
Các đại Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật, khi quán các pháp,
vì thấy sắc là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy thọ, tưởng, hành, thức là
vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.
Các đại Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật, khi quán các pháp,
vì thấy mười hai xứ là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy mười tám giới là
vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.
Các đại Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật, khi quán các pháp,
vì thấy tứ Thánh đế, mười hai nhân duyên, mười tám pháp không, lục Ba la mật là
vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy ba mươi bảy pháp trợ đạo, Phật mười lực,
thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ,
đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.
Các đại Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật, khi quán các pháp,
vì thấy Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cho đến quả vị Giác
ngộ tối cao là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.
Khi ấy, Xá Lợi Tử nói với Thiện Hiện: Như tôi hiểu nghĩa Ngài
vừa nói là ngã, hữu tình v.v… là vô sanh; sắc, thọ v.v… cho đến Như Lai, pháp
Như Lai là vô sanh. Nếu như vậy, sự thọ sanh của sáu loài lẽ ra không sai biệt,
thì chẳng cần Dự lưu đắc quả Dự lưu, Nhất lai đắc quả Nhất lai, Bất hoàn đắc
quả Bất hoàn, A la hán đắc quả A la hán; chẳng cần Độc giác đắc quả Độc giác;
chẳng cần đại Bồ tát đắc Nhất thiết tướng trí hay đắc năm loại Bồ đề(2).
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp nhất định là vô sanh thì
vì duyên cớ gì Dự lưu vì quả Dự lưu mà tu pháp đoạn trừ ba kiết(3); Nhất lai vì
quả Nhất lai mà tu pháp làm mỏng tham, sân, si; Bất hoàn vì quả Bất hoàn mà tu
pháp đoạn trừ năm kiết thuận hạ phần(4); A la hán vì quả A la hán mà tu pháp
đoạn trừ năm kiết thượng thuận phần(5); Độc giác vì quả Độc giác mà tu pháp ngộ
duyên khởi; đại Bồ tát vì việc độ vô lượng các hữu tình mà tu nhiều trăm ngàn
hạnh khổ khó làm, chịu đủ vô biên các loại khổ kịch liệt; Như Lai chứng đắc quả
vị Giác ngộ tối cao; chư Phật vì hữu tình mà chuyển pháp luân?
Cụ thọ Thiện Hiện đáp lời Xá Lợi Tử: Chẳng phải ngã ở trong
pháp vô sanh thấy có sự sai biệt về việc thọ sanh của sáu loài; chẳng phải ngã
ở trong pháp vô sanh thấy có người có khả năng nhập vào cảnh Thánh đế hiện
quán; chẳng phải ngã ở trong pháp vô sanh thấy có Dự lưu đắc quả Dự lưu, Nhất
lai đắc quả Nhất lai, Bất hoàn đắc quả Bất hoàn, A la hán đắc quả A la hán v.v…
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Chẳng phải ngã ở trong pháp vô sanh thấy
có Dự lưu vì quả Dự lưu mà tu pháp đoạn trừ ba kiết; chẳng phải ngã ở trong
pháp vô sanh thấy có Nhất lai vì quả Nhất lai mà tu pháp làm mỏng tham, sân, si
v.v… cho đến chẳng phải ngã ở trong pháp vô sanh thấy có đại Bồ tát vì độ vô
lượng các hữu tình mà tu trăm ngàn hạnh khổ khó làm, chịu vô biên các thứ khổ
kịch liệt, nhưng các đại Bồ tát cũng lại chẳng khởi tưởng về hạnh khổ khó làm.
Vì sao? Vì chẳng phải trụ ở cái tưởng về hạnh khổ khó làm luôn luôn vì
vô lượng, vô số, vô biên hữu tình mà làm những việc lợi ích.
Xá Lợi Tử! Nhưng các đại Bồ tát lấy vô sở đắc làm phương
tiện, đối với tất cả hữu tình khởi tâm đại bi, trụ ở tưởng như cha mẹ, tưởng
như anh em, tưởng như vợ chồng, tưởng như thân mình. Cứ như vậy, cho đến luôn
luôn vì vô lượng, vô số, vô biên hữu tình mà làm việc lợi ích lớn. Các đại
Bồ tát nên khởi tâm như vậy. Như tự tánh của ngã, đối với tất cả pháp, dùng tất
cả phương tiện, tất cả chốn, tất cả thời để cầu cái chẳng thể nắm bắt được. Các
pháp nội ngoại cũng lại như vậy, hoàn toàn vô sở hữu, đều chẳng thể nắm bắt
được. Vì sao? Vì các đại Bồ tát, nếu trụ ở tưởng này mà tu các hạnh khổ khó làm
thì có khả năng làm những việc lợi ích cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Cho
nên đại Bồ tát đối với tất cả pháp không sở chấp thọ.
Xá Lợi Tử! Chẳng phải ngã ở trong pháp vô sanh thấy có chư
Phật chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng
chúng sanh.
Xá Lợi Tử liền hỏi Thiện Hiện: Nay Ngài vì muốn dùng pháp
sanh chứng pháp sanh, vì muốn dùng pháp vô sanh chứng pháp vô sanh chăng?
Thiện Hiện đáp: Tôi thật chẳng muốn dùng pháp sanh chứng pháp
sanh, cũng thật chẳng muốn dùng pháp vô sanh chứng pháp vô sanh.
Xá Lợi Tử hỏi: Nếu vậy thì nay Ngài vì muốn dùng pháp sanh
chứng pháp vô sanh, vì muốn dùng pháp vô sanh chứng pháp sanh chăng?
Thiện Hiện đáp: Tôi cũng chẳng muốn dùng pháp sanh chứng pháp
vô sanh, cũng lại chẳng muốn dùng pháp vô sanh chứng pháp sanh.
Xá Lợi Tử hỏi: Nếu như vậy thì đâu phải hoàn toàn không đắc,
không hiện quán?
Thiện Hiện đáp: Tuy có đắc, có hiện quán nhưng chẳng dùng hai
pháp này để chứng.
Xá Lợi Tử! Chỉ tùy theo thế gian mà đặt bày ra lời nói có
đắc, có hiện quán, chứ chẳng phải trong thắng nghĩa(6) có đắc, có hiện
quán. Chỉ tùy theo thế gian mà đặt bày ra lời nói Dự lưu, có quả Dự lưu,
Nhất lai, có quả Nhất lai, Bất hoàn, có quả Bất hoàn, A la hán, có quả A la
hán, Độc giác, có quả vị Độc giác, đại Bồ tát, có quả vị Giác ngộ tối cao chứ
chẳng phải trong thắng nghĩa có Dự lưu cho đến quả vị Giác ngộ tối cao.
Xá Lợi Tử hỏi: Tùy theo thế gian mà đặt bày ra lời nói có
đắc, có hiện quán v.v.. chứ chẳng phải là thắng nghĩa nên sự sai biệt của
sáu loài cũng tùy theo thế gian đặt bày ra lời nói mà có, chứ chẳng phải là
thắng nghĩa chăng?
Thiện Hiện đáp: Đúng vậy! Đúng như lời Ngài nói. Vì sao?
Xá Lợi Tử! Vì ở trong thắng nghĩa, không có nghiệp, không có dị thục, không
sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Nếu thế thì Ngài muốn khiến
pháp bất sanh sanh, hay muốn khiến pháp đã sanh sanh chăng?
Thiện Hiện đáp: Tôi chẳng muốn khiến pháp bất sanh sanh, cũng
chẳng muốn khiến pháp đã sanh sanh.
Xá Lợi Tử hỏi: Những pháp nào là pháp bất sanh mà Ngài
chẳng muốn khiến sanh?
Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc là pháp bất sanh, tôi
chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Thọ, tưởng, hành,
thức là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.
Mười hai xứ, mười tám giới là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao?
Vì tự tánh là không. Tứ Thánh đế, mười hai duyên khởi, mười tám pháp không, lục
Ba la mật là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là
không. Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, ba mươi bảy pháp trợ đạo,
tam giải thoát môn, Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông
suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết
trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến
sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.
Cũng như vậy, Như Lai là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến
sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp Như Lai là pháp bất sanh, tôi chẳng
muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.
Xá Lợi Tử lại hỏi: Những pháp nào là pháp đã sanh mà Ngài
chẳng muốn khiến sanh?
Thiện Hiện đáp: Sắc là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn
khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Thọ, tưởng, hành, thức là pháp
đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Mười hai xứ,
mười tám giới là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là
không. Tứ Thánh đế, mười hai duyên khởi, mười tám pháp không, lục Ba la mật là
pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Bốn tịnh
lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì
sao? Vì tự tánh là không. Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, ba mươi
bảy pháp trợ đạo, tam giải thoát môn, Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự
hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất
cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí là pháp đã sanh, tôi
chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.
Cũng như vậy, Như Lai là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó
sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp Như Lai là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn
nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.
Xá Lợi Tử lại hỏi: Nay Ngài vì muốn khiến pháp sanh nó
sanh, hay vì muốn khiến pháp bất sanh nó sanh?
Thiện Hiện đáp: Tôi chẳng muốn khiến pháp sanh nó sanh, cũng
chẳng muốn khiến pháp bất sanh nó sanh. Vì sao? Vì pháp sanh cùng với pháp bất
sanh, hai pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng
phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng
phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, chỗ gọi là vô tướng.
Do duyên cớ này nên tôi cũng chẳng muốn khiến pháp sanh nó
sanh, cũng chẳng muốn khiến pháp bất sanh nó sanh.
Xá Lợi Tử lại hỏi Thiện Hiện: Đối với pháp vô sanh đã nói,
Ngài ưa biện thuyết tướng vô sanh chăng?
Thiện Hiện đáp: Đối với pháp vô sanh đã nói, tôi cũng chẳng ưa
biện thuyết tướng vô sanh. Vì sao? Vì hoặc là pháp vô sanh, hoặc là tướng vô
sanh, hoặc là ưa biện thuyết, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng
phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu
kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một
tướng, chỗ gọi là vô tướng.
Xá Lợi Tử hỏi: Đối với pháp bất sanh, khởi lên lời nói bất
sanh, thì lời nói bất sanh này cũng bất sanh chăng?
Thiện Hiện đáp: Đúng vậy! Sắc bất sanh; thọ, tưởng, hành,
thức cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không. Mười
hai xứ, mười tám giới bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không. Bốn tịnh
lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến
xứ, ba mươi bảy pháp trợ đạo, tam giải thoát môn, Phật mười lực, bốn điều không
sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp
Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cho đến quả
vị Giác ngộ tối cao bất sanh. Vì sao? Vì tất cả bản tánh không.
Cũng như vậy, Bồ tát bất sanh; pháp Bồ tát cũng bất sanh. Vì
sao? Vì tất cả, bản tánh là không.
Như Lai bất sanh; pháp Như Lai cũng bất sanh. Vì sao? Vì
tất cả, bản tánh là không.
Thân hành bất sanh; ngữ hành, ý hành cũng bất sanh. Vì
sao? Vì tất cả bản tánh là không.
Do duyên cớ này, nên đối với pháp bất sanh, khởi lên lời nói
bất sanh, thì lời nói này cũng không có nghĩa là sanh. Xá Lợi Tử! Vì hoặc pháp
sở thuyết, hoặc lời năng thuyết, người thuyết, người nghe đều bất sanh.
Khi ấy, Xá Lợi Tử khen Thiện Hiện: Trong những vị thuyết
pháp, Ngài là đệ nhất. Vì sao? Vì tùy theo sự vặn hỏi đều có thể giải đáp,
không gì trở ngại.
Thiện Hiện nói: Đệ tử của chư Phật, đối với tất cả pháp đều
không có nương tựa đắm trước. Do vậy, nên có khả năng, tùy theo sự vặn hỏi đều
được giải đáp tự tại vô ngại. Vì sao? Vì tất cả pháp không có chỗ nương tựa.
Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Vì sao các pháp đều không chỗ
nương?
Thiện Hiện đáp: Vì bản tánh của sắc là không, nên
trong, ngoài, hai bên, khoảng giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì bản tánh của
thọ, tưởng, hành, thức là không nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên, chẳng
thể nắm bắt được. Vì bản tánh của mười hai xứ, mười tám giới hay nói nói rộng
ra, từ tứ Thánh đế đến ba mươi bảy pháp trợ đạo, từ mười tám pháp Phật bất công
đến Nhất thiết tướng trí vì bản tánh là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa,
hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.
Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của Bồ tát là không, nên trong, ngoài,
khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của pháp Bồ tát là
không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.
Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của Như Lai là không, nên trong,
ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của pháp
Như Lai là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt
được.
Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là các pháp đều không
có chỗ nương.
Thích nghĩa:
(1). Vô sanh (無生):
còn gọi là vô khởi (無起),
có hai nghĩa: 1- Thật tướng của các pháp không có sanh diệt; đồng nghĩa với vô
sanh diệt (無生滅)
hoặc vô sanh vô diệt (無生無滅).
Sự tồn tại của các pháp vốn không có thật thể, do nhân duyên mà thành, là
không, nên có thể nói rằng không có sanh diệt. Tuy nhiên, hạng phàm phu mê
lầm lý vô sanh này, nên khởi lên phiền não về sanh diệt, vì vậy bị lưu chuyển
sanh tử. Nếu nương theo Kinh luận, quán lý vô sanh thì có thể trừ được phiền
não sanh diệt; 2- Là ý dịch của A La Hán (s: arhat, p: arahant, 阿羅漢) hay Niết Bàn
(s: nirvāṇa, p: nibbāna, 涅槃).
A La Hán có nghĩa là bất sanh (不生,
không sanh), tức đoạn tận phiền não của Ba Cõi, không còn trở lại thọ sanh
trong Ba Cõi này nữa. Lại nữa, người nương theo bản nguyện vãng sanh Tịnh Độ
của đức Phật A Di Đà, là khế hợp với bản nguyện của Ngài, nhân vô sanh này
chính là lý của Niết Bàn; cho nên khác với cái gọi là sanh vọng tưởng hư huyễn
trong nội tâm của kẻ phàm phu. Về điểm này, Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá
Nguyện Sanh Kệ Chú (無量壽經優婆提舍願生偈註,
tức Vãng Sanh Luận Chú [往生論註],
Taishō Vol. 40, No. 1819) quyển Hạ gọi là “vô sanh chi sanh (無生之生, sanh của vô
sanh).” Từ quan điểm không sanh diệt của Niết Bàn mà nói, tức chỉ giác ngộ Niết
Bàn, cũng tức là chứng đắc thân vô sanh; Cực Lạc là khế hợp với thế giới của
Niết Bàn; và từ nghĩa này, có tên gọi là vô sanh giới (無生界, cõi vô
sanh). Đại Phương Quảng Viên Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa Kinh (大方廣圓覺修多羅了義經,
Taishō Vol. 17, No. 842) quyển 1 dạy rằng: “Nhất thiết chúng sanh ư vô sanh
trung, vọng kiến sanh diệt, thị cố thuyết danh luân chuyển sanh tử (一切眾生於無生中、妄見生滅、是故說名轉輪生死,
hết thảy chúng sanh trong vô sanh, lầm thấy sanh diệt, cho nên gọi là luân
chuyển sanh tử).” Trong Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh (金光明最勝王經, Taishō
Vol. 16, No. 665) quyển 1 còn khẳng định thêm rằng: “Vô sanh thị thật, sanh thị
hư vọng, ngu si chi nhân, phiêu nịch sanh tử, Như Lai thật thể, vô hữu hư vọng,
danh vi Niết Bàn (無生是實、
生是虛妄、 愚痴之人、 漂溺生死、 如來體實、 無有虛妄、 名爲涅槃, vô sanh là thật, sanh là giả dối,
người mà ngu si, trôi lăn sanh tử, thật thể Như Lai, không có giả dối, gọi là
Niết Bàn).” Hay trong Phật Thuyết Nhân Vương Bát nhã Ba la mật Kinh (佛說仁王般若波羅蜜經,
Taishō Vol. 8, No. 245) quyển Thượng cũng cho biết rằng: “Nhất thiết pháp tánh
chân thật không, bất lai bất khứ, vô sanh vô diệt, đồng chơn tế, đẳng pháp tánh
(一切法性眞實空、不來不去、 無生無滅、同眞際、等法性),
tất cả pháp tánh chân thật không, chẳng đến chẳng đi, không sanh không diệt,
đồng với chơn tế, ngang với pháp tánh)”. Trong bài kệ thị tịch Thiền sư Quảng
Nghiêm (廣嚴,
1121-1190) thuộc thế hệ thứ 11 của dòng Thiền Vô Ngôn Thông Việt Nam có câu
rằng: “Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ, sanh vô sanh hậu thuyết vô sanh (離寂方言寂滅去、生無生後說無生,
lìa diệt mới cho tịch diệt hết, đạt vô sanh rồi nói vô sanh).” - Phật Học Tinh
Tuyển.
(2). Năm loại Bồ đề: Bồ đề Phạm ngữ và Pàli là bodhi,
dịch ý là giác, trí, tri, đạo. Nói theo nghĩa rộng, Bồ đề là trí tuệ đoạn tuyệt
phiền não thế gian mà thành tựu Niết bàn. Tức là trí giác ngộ mà Phật, Duyên
giác, Thanh văn đã đạt được ở quả vị của các Ngài. Trong ba loại Bồ đề này, Bồ
đề của Phật là rốt ráo tột bậc, nên gọi là A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề, dịch
là Vô thượng Chính Đẳng Chính giác, Vô thượng Bồ đề. Về Bồ đề của Phật, theo
luận Đại trí độ quyển 53, có năm loại sau: 1- Phát tâm Bồ đề, nghĩa là
Bồ tát ở giai vị Thập tín phát tâm Bồ đề, tâm ấy là nhân đưa đến quả Bồ đề. 2- Phục
tâm Bồ đề, nghĩa là Bồ tát ở các giai vị Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng
v.v... tu các hạnh Bát nhã Ba la mật, chế phục phiền não, hàng phục tâm mình.
3- Minh tâm Bồ đề, nghĩa là Bồ tát ở giai vị Đăng địa biết rõ thực tướng
các pháp rốt ráo trong sạch, là tướng Bát nhã Ba la mật. 4- Xuất đáo Bồ đề,
nghĩa là Bồ tát ở ba giai vị Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa, ở trong
Bát nhã Ba la mật, diệt trừ phiền não trói buộc, ra khỏi ba cõi, đến Nhất thiết
trí, nên gọi là xuất đáo Bồ đề. 5- Vô thượng Bồ đề, nghĩa là bậc Đẳng
giác, Diệu giác chứng thành A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề, tức là giác trí của
quả Phật. Trên đây gọi chung là năm thứ hay năm loại Bồ đề. (Phỏng theo Tự điển
Phật Quang).
(3). Tam kiết hay tam kết (Phạm: Trìịi saôyojanàni.
Pàli:Tìịi saôyojanàni) Cũng gọi Sơ quả tam kết. Kết chính là Kiến hoặc, chúng
sinh do Kiến hoặc này trói buộc nên không thể thoát li sinh tử. Hàng Thanh văn
dứt hết Hoặc này thì chứng được Sơ quả Tu đà hoàn, vì thế gọi là Sơ quả tam
kết. Tam kết là. 1- Hữu thân kiến kết (Phạm: Satkàyadfwỉi-saôyojana):
Đối với pháp năm ấm, chúng sinh chấp lầm làm thân, thường khởi ngã kiến, cưỡng
lập chủ tể. Đây là Không cận chướng trong ba pháp Tam ma địa cận chướng, cũng
là cội rễ của 62 kiến thú. Vì các kiến thú là căn bản của dư phiền não, dư
phiền não là gốc của nghiệp, các nghiệp lại là gốc của quả Dị thục; nương vào
quả Dị thục thì tất cả pháp thiện, bất thiện, vô kí đều được sinh trưởng, cho
nên cần phải đoạn trừ. 2- Giới cấm thủ kết (Phạm:Zìlavra=
taparàmarza-saôyojana): Chỉ cho việc thực hành các tà giới. Đây là Vô nguyện
cận chướng trong ba pháp Tam ma địa cận chướng; chẳng hạn những người ngoại đạo
đối với điều chẳng phải giới lại lầm tưởng là giới, như giữ giới bò (ăn cỏ),
giới chó (ăn phân)... 3- Nghi kết (Phạm: Vicikitsàsaôyojana): Tức nghi
ngờ chánh lí, mê tâm trái lí, không tin sâu chánh pháp. Đây là Vô tướng cận
chướng trong 3 pháp Tam ma địa cận chướng. Tam kết trên đây là quan trọng nhất
trong Kiến hoặc, cho nên được dùng làm tên chung cho Kiến hoặc, nếu đoạn được 3
kết này thì chứng quả Dự lưu, không còn trở lui, nhất định tiến tới Bồ đề. [X.
Kinh Tăng nhất a hàm Q.16; luận Đại tì bà sa Q.46; Đại thừa nghĩa chương Q.5,
phần cuối]- Tự điển Phật Quang.
(4). Năm kiết (kết) thuận hạ phần (Còn gọi là ngũ hạ phần
kết, Phạm: Paĩca-àvarahàgìya-saôyo= janàni) Đối lại: Ngũ thượng phần kết. Chỉ
cho 5 thứ kết hoặc (phiền não buộc chặt) thuận theo hạ phần giới, tức là 5 thứ
kết hoặc thuộc hạ phần giới (cõi Dục) trong 3 cõi. Năm thứ kết hoặc này buộc
chặt chúng sinh trong cõi Dục, khiến không thể nào thoát ra được. Ngũ hạ phần
kết là: 1- Dục tham: Đối với cảnh vừa ý sinh tâm tham đắm, không biết
thế nào là đủ. 2- Sân khuể: Đối với cảnh trái ý nổi lòng giận tức, mãi
không thôi. 3- Hữu thân kiến: Đối với danh (tâm), sắc (sắc thân), 5 ấm,
12 nhập, 18 giới, vọng chấp là thân, bám chặt vào ngã kiến. 4- Giới cấm thủ
kiến: Chấp lấy các tà giới phi lí, vô đạo. 5- Si: Tâm mê trái lí,
ngờ vực không quyết, do sự ngờ vực này mà quên chân theo vọng, bỏ giác hợp
trần. Do 2 kết Dục tham và Sân khuể nói trên mà chúng sinh cõi Dục không thể
thoát ra khỏi cõi Dục, nếu người có khả năng vượt thoát nhưng lại do 3 kết sau
(Hữu thân kiến, Giới cấm thủ kiến, Nghi) nên cuối cùng cũng trở lại cõi Dục, vì
thế lập riêng 5 thứ kết hoặc này mà gọi là Thuận hạ phần kết. Ngũ thuận hạ phần
kết lấy 31 việc làm tự tính, Dục tham và Sân khuể mỗi thứ đều là sở đoạn (cái
được đoạn trừ) của 5 bộ cõi Dục, cho nên có 10 việc; Hữu thân kiến là Kiến khổ
sở đoạn (phiền não do Kiến đạo dứt trừ) trong 3 cõi, vì thế có 3 việc; Giới cấm
thủ kiến đều là sở đoạn của Kiến đạo và Tu đạo trong 3 cõi, cho nên có 6 việc;
Nghi đều là sở đoạn của 4 bộ trong 3 cõi, vì thế có 12 việc, tổng cộng là 31
việc. [X. Kinh Tạp a hàm Q.32; luận Câu xá Q.21; luận Đại tì bà sa Q.49; luận
Thuận chính lí Q.54; Đại thừa nghĩa chương Q.5, phần cuối]. (xt. Ngũ Bộ). - Tự
điển Phật Quang.
Muốn hiểu rõ các pháp tu của bốn quả Thanh văn, xin xem bộ
Phật Học Phổ Thông của HT Thích Thiện Hoa, do Phật-Học-Viện Quốc-tế xuất bản.
(5). Năm kiết (kết) thuận thượng phần (Phạm:
Paĩcaùrdhvabhàgìyasaôyojanàni. Gọi đủ: Ngũ thuận thượng phần kết. Gọi tắt: Ngũ
thượng kết, Ngũ thượng). Năm thứ phiền não (kết = thắt, buộc) trói buộc chúng
sinh ở 2 cõi Sắc và Vô sắc thuộc thượng phần giới, làm cho không ra khỏi được 2
cõi này. Đó là: 1- Sắc tham: Phiền não tham đắm 5 món dục lạc của cõi
Sắc. 2- Vô sắc tham: Phiền não tham đắm cảnh giới thiền định của cõi Vô
sắc. 3- Điệu cử: Chúng sinh trong 2 cõi trên do tâm niệm loạn động mà
lui mất thiền định. 4- Mạn: Chúng sinh trong 2 cõi trên do tâm kiêu mạn
mà cậy mình, lấn lướt người khác. 5- Vô minh: Phiền não do tham đắm
thiền định mà không rõ biết chân tính. Năm phiền não (kết) này lấy 8 việc ở cõi
trên do Tu đạo đoạn trừ trong thân bậc Thánh làm tự tính, nghĩa là Sắc tham,
tức ái của cõi Sắc do Tu đạo đoạn trừ (1 việc); Vô sắc tham, tức là ái của cõi
Vô sắc do Tu đạo đoạn trừ (1 việc); Điệu cử tức là Điệu cử của 2 cõi trên đều
do Tu đạo đoạn trừ (2 việc); Mạn tức là Mạn của 2 cõi trên đều do Tu đạo đoạn
trừ (2 việc); Vô minh tức là Vô minh của 2 cõi trên đều do Tu đạo đoạn trừ (2
việc). Ngũ thượng phần kết này chỉ giới hạn ở Tu đạo đoạn chứ không chung cho
Kiến đạo đoạn, vì những phiền não(kết hoặc)do Kiến đạo đoạn thường làm cho con
người sa đọa, cho nên không được lập làm Thượng phần kết. [X. Kinh Chúng tập
trong Trường a hàm Q.8; luận Câu xá Q.21; luận Đại tì bà sa Q.49; luận A tì đạt
ma phát trí Q.3; luận Thành thực Q.10]. (xt. Ngũ Hạ Phần Kết). Tự điển Phật
Quang
(6). Thắng nghĩa hay Thắng nghĩa đế hay Đệ nhất nghĩa đế
(Phạm: Paramàrtha-satya, Pàli: Paramattha-sacca, gọi tắt là Đệ nhất nghĩa, Chân
đế, Thánh đế, Chân như, Thực tướng, Pháp giới, Niết bàn…): Chân thật nghĩa, là
chân lý tuyệt đối, dựa vào trí tuệ viên mãn của bậc giác ngộ, vượt trên nhị
nguyên đối đãi của cuộc đời thường. Đối lại Đệ nhị nghĩa đế còn gọi là Thế đế
hay Tục đế, là chân lý tương đối dựa trên cảm quan và ý thức.
Lược
giải:
Tùy theo chỗ đứng nên gốc độ thấy biết khác nhau. Nếu đứng
ở Tục đế thì thấy sanh diệt, được mất có không... tức cái thấy bị chi phối bởi
lưỡng nguyên tánh. Nếu đứng ở Chân đế thì thấy không sanh diệt. Không sanh diệt
là không thấy còn mất có không... tức tâm như, tâm như tức bất động, thì không
tạo tác thi vi nữa, tức được thanh tịnh.
Toàn bộ phẩm này thuyết minh về “vô sanh” trong nghĩa
không sanh không diệt của các pháp trong câu hỏi và câu giải đáp giữa Ngài Xá
Lợi Tử và cụ thọ Thiện Hiện. Ngài Xá Lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hiện:
- “Ngài vì muốn dùng pháp sanh chứng pháp sanh hay
muốn dùng pháp vô sanh chứng pháp vô sanh? Ngài vì muốn dùng pháp sanh
chứng pháp vô sanh hay muốn dùng pháp vô sanh chứng pháp sanh?”
Cụ thọ Thiện Hiện đáp:
- “Tôi thật chẳng muốn dùng pháp sanh chứng pháp sanh, cũng
thật chẳng muốn dùng pháp vô sanh chứng pháp vô sanh. Tôi cũng chẳng dùng pháp
sanh chứng pháp vô sanh hay dùng pháp vô sanh chứng pháp sanh”.
Chúng sanh thấy pháp có sanh, có diệt, có thành trụ hoại
không, còn Thánh giả do quán biết các pháp do duyên hợp giả có, không có tự
tánh, bản tánh không, không thể tự sanh nên nói là vô sanh. Bồ tát Long Thọ
dùng bài tụng sau đây để giải thích ý niệm này:
“Các pháp không phải tự nó sanh,
Cũng không phải từ cái khác sanh
Không cùng sanh và không phải vô nhân
Vì thế, biết nó là vô sanh”.
Từ “không phải” có nghĩa khước từ cái tự sanh. Ngài Long
Thọ dùng bài tụng này để phủ định. Phủ định cái gì?
1-
Các pháp không sanh khởi từ nó: “Không có bột thì không gột nên hồ”. Hồ không
thể tự sanh, nghĩa là một vật thể không thể sanh ra từ chính nó. Phải có điều
kiện nào đó, thì hồ mới sanh.
2-
Các pháp không sanh khởi từ cái khác: Hồ không thể tự sanh mặc dầu có bột. Hồ
là một tự thể, bột là một tự thể khác. Do đó, có thể nói một tự thể chính nó
không thể được sinh ra từ một tự thể khác nó.
3-
Các pháp không cùng sanh hay sanh ra từ cả hai: Bột là bột, nước xôi là nước
xôi, hai tự thể này không thể tự hòa hợp để sanh ra hồ được. Nên nói các pháp
không cùng sanh hay sanh ra từ cả hai.
4-
Không sinh khởi không phải vì không có nguyên nhân: Bột không thành hồ, nước
xôi không thành hồ. Muốn có hồ thì phải có người bỏ bột vào nước xôi rồi khuấy
lên thì bột mới thành hồ. Không có bột, không có nước xôi, không có người khuấy
thì không có hồ. Vậy, nên nói bất cứ hiện hữu nào cũng là kết quả của nhiều
nguyên nhân hợp lại. Vì vậy, nên nói không có kết quả nào hiện diện mà không có
nguyên nhân.
Tất cả phủ định trên: Các pháp không sanh khởi từ chính
nó, các pháp không sanh khởi từ cái khác, cũng không sanh khởi từ cả hai, cũng
không sanh khởi không phải vì không có nguyên nhân. Cuối cùng đưa đến xác định “vì
thế, biết nó là vô sanh”. Cái nhảy từ các phủ định đến phủ định khác, rồi cuối
cùng bảo “vì thế, biết nó là vô sanh”. Kết
luận này không khỏi làm cho chúng ta
không khỏi áy náy?
Vô sanh (hay bất sanh, cũng gọi là vô khởi) này là một
trong tám cái không (bất sanh - bất diệt, bất thường - bất đoạn, bất nhất - bất
dị, bất khứ - bất lai) là tám phạm trù phủ định, còn gọi là “Trung đạo bát bất”
mà Ngài Long Thọ dùng để giải thích về tánh không. Bất cứ pháp nào rơi vào tám
phạm trù này đều được xem là không, không có thật thể, không có tự tánh, chúng
do duyên hội giả có, nên bảo là Không, Bản tánh không.
Ngài Xá Lợi Tử lại hỏi:
- “Đối với pháp bất sanh, khởi lên lời nói bất sanh, thì lời
nói bất sanh này cũng bất sanh chăng?”
Thiện Hiện đáp:
- “Đúng vậy! Sắc bất sanh; thọ, tưởng, hành, thức cũng bất
sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không. Mười hai xứ, mười tám giới cho đến
quả vị Giác ngộ tối cao bất sanh. Vì sao? Vì tất cả bản tánh không”.
“... Do duyên cớ này, nên đối với pháp bất sanh, khởi lên lời
nói bất sanh, thì lời nói này cũng không có nghĩa là sanh. Xá Lợi Tử! Vì hoặc
pháp sở thuyết, hoặc lời năng thuyết, người thuyết, người nghe đều bất sanh”.
Vì pháp bất sanh nên không có chỗ nương chấp, không có chỗ
mong cầu nắm bắt, mới thành đạt Bát Nhã. Nên Kinh nói: “Rốt ráo chẳng
sanh tức là Bát nhã Ba la mật; Bát nhã Ba la mật tức là rốt ráo chẳng sanh”.
Chẳng có gì đáng ngạc nhiên với các luận giải giản dị như
vậy. Như Kinh bảo “sắc bất nhị thì chẳng phải pháp”. Sắc nói đây tiêu
biểu cho sắc pháp như cây cỏ, pháp tắc... Khi nói đến sắc người ta thường nghĩ
đến những đặc tính của nó hoặc sanh diệt, hoặc thủ xả, hoặc nhiễm tịnh, hoặc tụ
tán... Đó là pháp phân hai (nhị nguyên), nếu pháp nào không phân hai thì không
phải pháp. Cũng vậy, Kinh nói: “Sắc cũng chẳng sanh, nếu đã chẳng sanh thời
chẳng phải sắc”. Nếu sắc không sanh không diệt thì không phải là sắc. Con
mắt trần luôn luôn thấy biết như vậy, nên mới bị lưu chuyển, còn Thánh nhân
thấy sắc bất sanh, chẳng sanh hay vô sanh. Vì sao? Vì tất cả sắc chỉ là duyên
hợp, có duyên thì hợp nên gọi là sanh, hết duyên tan rã thì gọi là diệt, nên nói
có mà là giả có tức không. Rồi từ đó giáo lý “Rốt ráo chẳng sanh
tức là Bát nhã Ba la mật” làm đảo lộn nền Phật học êm thắm cổ xưa để
nhường bước cho những cuộn sóng thần với những thác ghềnh ghê sợ mà chẳng có
bất cứ thứ gì có thể ngăn cản nổi sự công phá của nó.
Lược
giải chung:
(Cho hai phẩm “Quán Hạnh” và “Vô Sanh”)
Quan điểm chính yếu của Đại thừa theo đó tất cả pháp là vô
sanh, vô diệt, vô sở hữu, bất khả đắc, vô trụ, vô chấp và vì vậy nên gọi là
Không, là Bản tánh không.
Cái tuyệt đối chính là Đệ nhất nghĩa đế, ở đó không có đối
đãi sanh và diệt, cấu và tịnh... Nói sanh nói diệt là đối đãi, nói tịnh nói uế
là đối đãi. Lìa đối đãi là Chân đế hay Đệ nhất nghĩa đế. Bát Nhã dạy rằng chẳng
trụ Hữu (chấp có) mà cũng chẳng trụ Vô (chấp không) mới có thể chứng tánh. Vì
tánh là vô tướng, là vô sanh. Nên Ngài Tuyết Dậu khi sắp tịch làm bài tự minh,
nói rằng: “Từ duyên mà ra thì trước sau có thành có hoại, còn chẳng
từ duyên mà được thì muôn kiếp vững bền”. Thân cha mẹ sanh ra là thân do tứ
đại giả hợp, có duyên thì hợp (gọi là sanh) hết duyên thì tan (gọi là diệt),
nên nói có thành có hoại. Còn pháp thân là vô sanh, thì không bị định luật vô
thường (sanh trụ dị diệt, thành trụ hoại không) chi phối, nó là vĩnh hằng, bất
biến, nên nói là muôn kiếp vững bền.
Thật ra, phẩm “Vô Sanh” này tiếp nối phẩm “Quán Hạnh”
trên, cùng thuyết về một thể tài chung là SẮC (tức sắc pháp, biểu thị hình
tướng bên ngoài như thiên hà đại địa, cây cỏ, nhà cửa…) và TÂM (cái suy nghĩ,
hiểu biết bên trong như tri giác) cùng sự sanh diệt của chúng. Nhưng khi nói
Sắc nói Tâm tức là nói
về nhân sinh và vũ trụ trong nghĩa Tục đế hay Thánh đế. Sanh và diệt là cái
nhìn tương đối của tri thức thường tục hay Tục đế. Bất sanh bất diệt là cái
nhìn tuyệt đối của Thánh trí tự giác của Chân đế hay Thắng nghĩa đế. Kinh
thường nói: “Chẳng rời Tục đế mà có Thắng nghĩa”, nghĩa là cả hai cùng vận hành
trong thế “tức chân tức tục” trong việc tạo dựng một thế giới bao dung, thánh
thiện mà không rời bình diện của chính nó. Chẳng có Thánh đế nếu không có Tục
đế hay ngược lại. Cả hai đều hỗ tương sanh khởi trong nghĩa “tương tức”, “tương
nhập” - cùng sinh khởi và cùng hiện hữu theo ngôn ngữ của Hoa Nghiêm. Nói sanh
diệt hay chẳng sanh diệt để chỉ rõ cái tương đối và cái tuyệt đối của thế giới
mà chúng ta đang sống. Rồi ra, thế giới chỉ an nhiên tịch lặng (hay Niết bàn)
chỉ hiện ra như Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tất cả pháp chẳng sanh, tất cả
pháp chẳng diệt. Nếu hay hiểu như thế, chư Phật liền hiện tiền”. Kinh Đại
Bát Niết Bàn nói: “Chư hành vô thường; Thị sinh diệt pháp; Sinh diệt
diệt dĩ; Tịch diệt vi lạc” - Các hành vô thường; Là pháp sinh diệt;
Sinh diệt diệt rồi; Tịch diệt là vui. Dứt hết sanh diệt là hết vô thường, thì cái
thường hằng còn lại. Đó tức là cái tịch lặng an nhiên hay gọi Niết bàn, nên nói
là an vui.
Lưu
ý:
Các luận giải trên có thể không làm cho đọc giả hài mãn
lối giải thích về “Vô Sanh”. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề khi luận về Tánh không Bát
Nhã trong Phần thứ III Tổng luận, hy vọng giải tỏa hết thắc mắc!
---o0o---