PHẨM “CHƠN THIỆN HỮU”
Phần sau quyển 313 đến đầu quyển 316, Hội
thứ I, ĐBN.
(Tương đương với quyển thứ 17, phẩm
“Thiện Tri Thức”, MHBNBLMĐ)
Gợi
ý:
Thiện tri thức không phải chỉ dành cho Bồ tát hay Phật,
danh hiệu này được dùng rất rộng rãi. Theo từ điển Phật Quang: Bạn lành, tức
chỉ cho người chính trực, có đức hạnh, có năng lực dẫn dắt người khác hướng về
Chánh đạo thì được gọi là Thiện tri thức. Theo phẩm Thường đề trong Kinh Đại
phẩm Bát Nhã quyển thứ 27 thì người có khả năng nói các pháp không, vô tướng,
vô tác, vô sinh, vô diệt và Nhất thiết chủng trí, khiến người nghe vui vẻ tin
ưa, cũng được gọi là Thiện tri thức. Phẩm Nhập pháp giới trong Kinh Hoa nghiêm
ghi rằng trong quá trình cầu đạo, Thiện tài đồng tử đã tham vấn 55 vị Thiện tri
thức(thông thường nói chỉ có 53 vị), tức từ chư Phật, Bồ tát đến người, trời,
vua chúa kể cả đồng tử đang nô đùa trên đường phố, kỹ nữ trong kỹ viện, những
tay buôn gian bán lận tục tằng ngoài chợ… và bất ai xuất hiện dưới bất cứ hình
thức nào, hễ có khả năng dắt dẫn chúng sinh bỏ ác tu thiện để bước vào Phật
đạo, thì đều có thể được gọi là Thiện tri thức. Còn Thích Thị Yếu Lãm quyển
thượng, trích dẫn luận Du Già Sư Địa nêu lên 10 thứ công đức của Thiện tri thức
là: Điều phục, tịch tĩnh, trừ hoặc, tăng đức, dũng mãnh, kinh phú, giác chân,
thiện thuyết, bi thâm và ly thoái(nếu người có các công đức như vậy thì được coi
là Thiện tri thức). Lại theo Luật Tứ phần quyển 41 thì Thiện thân hữu phải có
đủ 7 điều kiện là: Cho được cái khó cho, làm được việc khó làm, nhẫn được điều
khó nhẫn, đem việc kín bảo cho nhau biết, khuyên nhau không che giấu điều lỗi,
gặp khổ nạn không bỏ nhau và nghèo hèn không khinh nhau, gọi là Thiện hữu thất
sự(bảy việc của người bạn lành). Trong Kinh luận có nêu các loại Thiện tri thức
khác nhau, cứ theo Ma Ha Chỉ quán quyển 4 hạ của Ngài Trí khải thì có 3 loại
Thiện tri thức dưới đây: 1- Ngoại hộ: Giúp đỡ ở bên ngoài để bạn được an ổn tu
đạo. 2- Đồng hành: Cùng nhau hành động, khích lệ lẫn nhau. 3- Giáo thụ: Nói
pháp khéo léo. Theo Câu Xá Luận Tụng sớ quyển 29 của Ngài Viên Huy thì người
bạn cho pháp là Thượng thân hữu, người cho của và pháp là Trung thân hữu, còn
người chỉ cho của không thôi thì là Hạ thân hữu; trên đây gọi là Tam hữu. Hoa
nghiêm Kinh Thám Huyền kí quyển 18 cũng nêu ra 3 loại Thiện tri thức là Nhận,
Pháp và Nhân pháp hợp biện. Cứ theo phẩm Ly thế gian trong Kinh Hoa nghiêm
quyển 36 (bản dịch cũ) thì có 10 loại Thiện tri thức đó là: 1- Thiện tri thức
thường giúp đỡ bạn an trụ nơi tâm Bồ đề. 2- Thiện tri thức có năng lực khiến
bạn tu tập các căn lành. 3- Thiện tri thức có năng lực giúp bạn tu các Ba la
mật một cách rốt ráo. 4- Thiện tri thức có năng lực giúp bạn phân biệt giảng
nói tất cả pháp. 5- Thiện tri thức có năng lực giúp bạn an trụ và thành thục
tất cả chúng sinh. 6- Thiện tri thức có năng lực giúp bạn có đủ biện tài giải
đáp được các nghi vấn. 7- Thiện tri thức có năng lực giúp bạn không bám níu tất
cả sinh tử. 8- Thiện tri thức có năng lực giúp bạn tu hạnh Bồ tát trong tất cả
kiếp mà tâm không chán mỏi. 9- Thiện tri thức có năng lực giúp bạn an trụ nơi
hạnh Phổ hiền. 10- Thiện tri thức có năng lực giúp bạn tiến sâu vào tất cả trí
của Phật.
Trong phẩm này, ĐBN cũng như MHBNBLMĐ không định nghĩa
Thiện tri thức mà chỉ nêu ra một số điều kiện cho những ai muốn trở
thành Thiện tri thức để cứu rỗi chúng sanh. Thực hiện những điều kiện đó chính
là hành Bồ tát đạo hay Bồ tát hạnh là trên (thượng) cầu quả vị Giác ngộ tối cao,
dưới (hạ) hóa độ chúng sanh.
Tóm
lược:
Điều kiện tiên quyết cho người muốn
trở thành Thiện tri thức thì người ấy phải có khả năng tuyên thuyết, ban phát
cho chúng hữu tình lục Ba la mật và tất cả pháp Phật, rồi cùng chung hồi hướng
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nhưng dẫu vậy, người ấy không nên thủ đắc,
tham đắm tất cả pháp kể cả quả vị Vô thượng Bồ đề. Vì một khi có thủ đắc thì
không đắc, không thể giác ngộ, mà không đắc, không giác ngộ thì làm sao có khả năng
làm đuốc tuệ, làm ánh sáng, làm đạo sư, làm cồn đảo, làm chỗ nương tựa, làm chỗ
hướng đến… để giải thoát các nỗi thống khổ đồng thời mang lại nhiều phúc lợi
cho toàn thể chúng sanh. Kinh thuyết:
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch
Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát khi mới bắt đầu sự nghiệp nên học lục Ba la mật
như thế nào?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
mới bắt đầu sự nghiệp, nếu muốn tu học Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn,
tịnh giới, bố thí Ba la mật thì trước hết phải gần gũi, cung kính, cúng dường
chơn thiện tri thức có khả năng giỏi nói Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an
nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật, nghĩa là khi nói Kinh Bát nhã Ba la mật thậm
thâm, nói như thế này: Thiện nam tử! Hãy đến đây! Khi ngươi bố thí thì, nên
nghĩ thế này, việc tu bố thí này ban khắp cho tất cả hữu tình, cùng chung hồi
hướng quả vị Giác ngộ tối cao; khi ngươi trì giới, nên nghĩ thế này, việc tu
tịnh giới này ban khắp cho tất cả hữu tình, cùng chung hồi hướng quả vị Giác
ngộ tối cao; khi ngươi tu an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã thì nên nghĩ thế
này, việc tu an nhẫn, việc tu tinh tấn, tịnh lư, Bát Nhã này ban khắp cho tất
cả hữu tình, cùng chung hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao. (Q.313, ĐBN)
Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên
dựa vào sắc để thủ đắc quả vị Giác ngộ tối cao, cũng chẳng nên dựa vào thọ,
tưởng, hành, thức để thủ đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp
thủ sắc thì mới có thể chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao; chẳng chấp thủ thọ,
tưởng, hành, thức mới chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Ngươi chẳng nên dựa
vào mười hai xứ, mười tám giới và tất cả pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ
định vô sắc, tứ Thánh đế, mười hai duyên khởi, ba mươi bảy pháp trợ đạo, Nhất
thiết trí… để thủ đắc quả vị Giác ngộ tối cao.
Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa
vào quả vị Giác ngộ tối cao của chư Phật để thủ đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Vì
sao? Vì nếu không chấp thủ quả vị Giác ngộ tối cao thì mới có thể chứng đắc quả
vị Giác ngộ tối cao.
Này thiện nam tử! Đối với sắc, ngươi
chớ sanh tham ái, đối với thọ, tưởng, hành, thức, cũng chớ sanh tham ái.
Vì sao? Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì
sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không. Này thiện nam tử! Đối với mười hai
xứ, mười tám giới và tất cả pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc,
Tứ Thánh đế, mười hai duyên khởi, ba mươi bảy pháp trợ đạo, Nhất thiết trí…cho
đến quả vị Giác ngộ tối cao, ngươi cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì tất cả
pháp Phật chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp
là không.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch
Thế Tôn! Các đại Bồ tát có khả năng làm việc khó làm, là ở trong tự tánh không
của tất cả pháp, mà lại mong cầu quả vị Giác ngộ, lại muốn chứng đắc quả vị Giác
ngộ tối cao?
Phật dạy: Đúng vậy! Đúng như lời ông
nói! Các đại Bồ tát có khả năng làm việc khó làm, là ở trong tự tánh không của
tất cả pháp, lại mong cầu quả vị Giác ngộ, lại muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ
tối cao.
Này Thiện Hiện: Tất cả những ai tuy
biết tất cả pháp như huyễn, như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng
sáng, như bóng nắng, như sự biến hóa, như ảo thành, tự tánh đều không, nhưng vì
nghĩa lợi thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao; vì
khiến cho thế gian được lợi ích mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối
cao; vì khiến thế gian được an lạc mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ
tối cao; vì muốn cứu vớt thế gian; vì muốn làm nơi nương tựa cho thế
gian; vì muốn làm nơi cư trú cho thế gian; vì muốn làm đạo rốt
ráo cho thế gian; vì làm cù lao cho thế gian; vì làm ánh sáng cho thế
gian; vì làm ngọn đuốc cho thế gian; vì làm đạo sư, làm tướng
soái, làm chỗ hướng đến cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ
tối cao.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch
Thế Tôn! Vì sao đại Bồ tát vì khiến thế gian được nghĩa lợi mà phát tâm
hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
vì muốn tất cả hữu tình giải thoát các nỗi thống khổ mà tu hành bố thí,
tịnh giới, tu hành an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, phát tâm
hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch
Thế Tôn! Vì sao đại Bồ tát vì khiến cho thế gian được lợi ích mà phát
tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
vì cứu vớt hữu tình ra khỏi sự sợ hãi của năm thú(1), đặt họ ở bờ Niết
bàn vô úy(2) mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch
Thế Tôn! Tại sao đại Bồ tát vì khiến thế gian được an lạc mà phát tâm
hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
vì cứu vớt hữu tình khỏi ưu, sầu, khổ não đặt họ ở bờ Niết bàn an ổn kia
mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch
Thế Tôn! Tại sao đại Bồ tát vì muốn cứu vớt thế gian mà phát tâm
hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
vì muốn cứu vớt các khổ sanh tử của hữu tình mà phát tâm hướng đến quả
vị Giác ngộ tối cao; khi chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao mới có khả năng nói
đúng như thật pháp đoạn khổ; hữu tình nghe rồi, nương vào giáo pháp ba thừa mà
lần lượt tu hành để được giải thoát.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch
Thế Tôn! Tại sao đại Bồ tát vì làm chỗ nương tựa cho thế gian mà phát
tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
vì muốn giải thoát tất cả hữu tình khỏi sanh, lão, bệnh, tử, sầu, than, khổ,
ưu, não, an trụ cõi Vô dư y Niết bàn mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ
tối cao.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch
Thế Tôn! Vì sao đại Bồ tát vì làm chỗ cư trú cho thế gian mà hướng đến
quả vị Giác ngộ tối cao?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
muốn vì hữu tình nói tất cả pháp đều chẳng hòa hợp mà phát tâm hướng đến
quả vị Giác ngộ tối cao.
Thiện Hiện lại bạch: Bạch Thế Tôn! Tại
sao tất cả pháp đều chẳng hòa hợp?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Sắc chẳng
hòa hợp tức là sắc chẳng hệ thuộc(3) nhau; sắc chẳng hệ thuộc nhau tức là sắc
vô sanh; sắc vô sanh tức là sắc vô diệt; sắc vô diệt tức là sắc chẳng hòa hợp.
Thọ, tưởng, hành, thức chẳng hòa hợp tức là thọ, tưởng, hành, thức chẳng hệ
thuộc nhau; thọ, tưởng, hành, thức chẳng hệ thuộc nhau tức là thọ, tưởng, hành,
thức vô sanh; thọ, tưởng, hành, thức vô sanh tức là thọ, tưởng, hành, thức vô
diệt; thọ, tưởng, hành, thức vô diệt tức là thọ, tưởng, hành, thức chẳng hòa
hợp. Mười hai xứ, mười tám giới, tất cả pháp chẳng hòa hợp tức là
tất cả pháp chẳng hệ thuộc nhau; tất cả pháp chẳng hệ thuộc nhau tức là tất cả
pháp vô sanh; tất cả pháp vô sanh tức là tất cả pháp vô diệt; tất cả pháp vô
diệt tức là tất cả pháp chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát muốn vì
hữu tình nói tất cả pháp đều có tướng chẳng hòa hợp như vậy mà phát tâm hướng
đến quả vị Giác ngộ tối cao.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch
Thế Tôn! Tại sao đại Bồ tát muốn tạo đạo cứu cánh cho thế gian mà phát
tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao vì muốn hữu tình nói pháp thế này: Sắc
rốt ráo tức chẳng phải là sắc, thọ, tưởng, hành, thức rốt ráo tức chẳng
phải là thọ, tưởng, hành, thức; mười hai xứ, mười tám giới rốt ráo tức chẳng
phải là mười hai xứ, mười tám giới. Bốn tĩnh lự rốt
ráo tức chẳng phải bốn tĩnh lự; bốn vô lượng, bốn định vô sắc, rốt ráo tức
chẳng phải bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tám giải thoát rốt ráo tức chẳng phải
tám giải thoát; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ rốt ráo tức chẳng phải
tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Ba mươi bảy pháp trợ đạo rốt ráo
tức chẳng phải ba mươi bảy pháp trợ đạo. Không giải thoát môn rốt ráo tức chẳng
phải không giải thoát môn; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn rốt ráo tức chẳng
phải vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Bồ tát thập địa rốt ráo tức chẳng phải
Bồ tát thập địa. Năm nhãn sáu thần thông rốt ráo tức chẳng phải năm nhãn, sáu
thần thông. Phật mười lực rốt ráo tức chẳng
phải Phật mười lực; bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại
xả, mười tám pháp Phật bất cộng rốt ráo tức chẳng phải bốn vô sở úy cho đến
mười tám pháp Phật bất cộng. Pháp vô vong thất rốt ráo tức chẳng phải pháp vô
vong thất; tánh hằng trụ xả rốt ráo tức chẳng phải tánh hằng trụ xả. Nhất thiết
trí rốt ráo tức chẳng phải Nhất thiết trí; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí
rốt ráo tức chẳng phải Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Tất cả Đà la ni môn
rốt ráo tức chẳng phải tất cả Đà la ni môn; tất cả Tam ma địa môn rốt ráo tức
chẳng phải tất cả tam ma địa môn. Quả Dự lưu
rốt ráo tức chẳng phải quả Dự lưu; quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán rốt ráo tức
chẳng phải quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Độc giác Bồ đề rốt ráo tức chẳng
phải Độc giác Bồ đề. Tất cả hạnh Bồ tát rốt ráo tức chẳng phải tất cả hạnh Bồ
tát. Chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rốt ráo tức chẳng phải Chư Phật Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề .
Thiện Hiện! Tướng rốt ráo của các
pháp này như thế nào thì tướng tất cả pháp cũng như vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch
Thế Tôn! Nếu tướng của tất cả pháp như tướng rốt ráo thì làm sao đại Bồ tát đối
với tất cả pháp, ứng hiện Đẳng giác? Vì sao? Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trong cái
rốt ráo của sắc có sự phân biệt thế này: Đây là sắc; cũng chẳng phải trong cái
rốt ráo của thọ, tưởng, hành, thức có sự phân biệt thế này: Đây là thọ, tưởng,
hành, thức. Chẳng phải trong cái rốt ráo của mười hai xứ, mười tám giới có sự
phân biệt thế này: Đây là mười hai xứ, mười tám giới. Cũng chẳng phải trong cái
rốt ráo của tất cả pháp Phật có sự phân biệt thế này: Đây là tất cả pháp Phật?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy!
Đúng như lời ông nói. Này Thiện Hiện! Trong cái rốt ráo của sắc không có sự
phân biệt thế này: Đây là sắc; trong cái rốt ráo của thọ, tưởng, hành, thức
cũng không có sự phân biệt thế này: Đây là thọ, tưởng, hành, thức…cho đến trong
cái rốt ráo của tất cả pháp Phật không có sự phân biệt thế này: Đây là
tất cả pháp Phật.
Này Thiện Hiện! Đây là việc khó khăn
của đại Bồ tát, đó là tuy quán tất cả pháp đều là tướng tịch diệt nhưng tâm
không chìm đắm và tự nghĩ: Ta đối với pháp ấy, hiện đẳng giác rồi, chứng đắc
quả vị Giác ngộ tối cao, vì các hữu tình tuyên thuyết, khai thị pháp vi diệu
tịch diệt như vậy.
Này Thiện Hiện! Đó là đại Bồ tát vì muốn
tạo con đường rốt ráo cho thế gian nên phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ
tối cao.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch
Thế Tôn! Tại sao đại Bồ tát vì muốn tạo cù lao cho thế gian mà phát tâm
hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Thí như ở
trong biển cả, sông ngòi lớn nhỏ, có chỗ nhô cao lên khỏi mặt nước, có thể ở
được thì gọi đó là cù lao.
Này Thiện Hiện! Cũng vậy, khoảng
trước, sau của sắc đều dứt, khoảng trước, sau của thọ, tưởng, hành, thức đều
dứt; khoảng trước, sau của mười hai xứ, mười hai giới đều dứt, khoảng trước,
sau của tất cả pháp Phật đều dứt. Này Thiện Hiện! Do khoảng trước, khoảng sau
này đều dứt nên tất cả pháp đều dứt.
Này Thiện Hiện! Khoảng trước, sau
của tất cả pháp Phật đều dứt tức là tịch diệt, tức là vi diệu, tức là như thật,
đó là không, không có sở đắc, con đường dứt ái hết, lìa nhiễm không còn gì,
vĩnh viễn Niết bàn. Đại Bồ tát cầu chứng quả vị Giác ngộ tối cao, muốn vì hữu
tình tuyên thuyết khai thị pháp vi diệu tịch diệt như thế. (Q. 315, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch
Thế Tôn! Tại sao đại Bồ tát vì làm ánh sáng cho thế gian mà phát tâm
hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
vì phá tan đêm dài vô minh, đập vỡ vỏ trứng che khuất hữu tình nhiều lớp đen
tối, vì trị liệu mắt nhặm vô tri của hữu tình khiến cho trong sáng, vì tất cả
hữu tình ngu tối làm ánh sáng chiếu soi mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ
tối cao.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch
Thế Tôn! Tại sao đại Bồ tát vì làm ngọn đuốc cho thế gian mà phát tâm
hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
muốn vì hữu tình tuyên thuyết sáu phép Ba la mật và Kinh điển tương ưng bốn
nhiếp pháp, nghĩa thú chơn thật để phương tiện giáo hóa dẫn dắt, khuyên họ tu
học mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật: Bạch
Thế Tôn! Vì sao đại Bồ tát vì cùng thế gian làm đạo sư, nên phát thú Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật bảo: Thiện Hiện! Thiện Hiện! Bồ
tát Ma ha tát không muốn hữu tình sa vào tà đạo, xa lìa tứ chủng chướng chẳng
nên hành, nên thuyết nhất đạo(4) khiến quay về nẻo chánh(5).
Vì kẻ tạp nhiễm được thanh tịnh, vì kẻ sầu não được vui, vì kẻ buồn khổ được
hoan lạc, vì hữu tình phi lý chứng pháp như lý, vì hữu tình trôi lăn được vào
Niết bàn, phát thú Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Thiện Hiện! Đấy là đại Bồ tát vì
cùng thế gian làm đạo sư, nên phát thú Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. (Q.315, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch
Thế Tôn! Tại sao đại Bồ tát vì làm tướng soái cho thế gian mà phát tâm
hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
mong cầu quả vị Giác ngộ tối cao là muốn vì hữu tình tuyên thuyết khai thị sắc
vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh; thọ, tưởng, hành, thức vô sanh, vô diệt,
vô nhiễm, vô tịnh; muốn vì hữu tình tuyên thuyết khai thị mười hai xứ, mười tám
giới và tất cả pháp Phật cũng như vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch
Thế Tôn! Tại sao đại Bồ tát vì làm nơi hướng đến cho thế gian mà phát
tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
mong cầu quả vị Giác ngộ tối cao muốn vì hữu tình tuyên thuyết khai thị sắc
lấy hư không làm chỗ hướng đến; thọ, tưởng, hành, thức cũng lấy hư không
làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình tuyên thuyết khai thị mười hai xứ, mười tám
giới cho đến tất cả pháp Phật cũng như thế.
Vì các hữu tình tuyên thuyết khai
thị sắc chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì
sao? Vì tánh của sắc là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến,
không có chỗ chẳng hướng đến; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải chỗ hướng
đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức
là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng
đến. Vì các hữu tình tuyên thuyết khai thị mười hai xứ, mười tám giới chẳng
phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của mười
hai xứ, mười tám giới là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không
có chỗ chẳng hướng đến; tất cả pháp Phật cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng
phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp Phật là không; trong
tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. (Q.315, ĐBN)
Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp đều lấy
không, làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể vượt qua
được(6). Vì sao? Vì trong không, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều
chẳng thể nắm bắt được. Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy vô tướng, vô nguyện làm
chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, đều chẳng vượt qua được. Vì sao? Vì
trong vô tướng, vô nguyện chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng
thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy
vô khởi, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, làm chỗ hướng đến; đối
với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể vượt qua được. Vì sao? Vì trong vô khởi đến vô
nhiễm, vô tịnh, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt
được.
Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy vô
sở hữu làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể vượt qua
được. Vì sao? Vì trong vô sở hữu, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều
chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy huyễn,
mộng, tiếng vang, ảnh tượng, bóng sáng, bóng nắng, việc biến hóa, ảo thành
làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể vượt qua được. Vì sao?
Vì trong huyễn, mộng… đến ảo thành, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều
chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy vô
lượng, vô biên làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể vượt
qua được. Vì sao? Vì trong vô lượng, vô biên, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ
hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy việc
chẳng cho, chẳng nhận, việc chẳng nâng, chẳng hạ, vô khứ, vô lai, vô tăng, vô
giảm, bất nhập, bất xuất làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng
thể vượt qua được. Vì sao? Vì trong chẳng cho, chẳng nhận cho đến chẳng hợp,
chẳng lìa, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy ngã
làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể vượt qua được. Vì
sao? Vì ngã rốt ráo còn vô sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ
hướng đến, có thể nắm bắt được. Tất cả pháp đều lấy hữu tình, dòng sanh
mạng, khả năng sanh khởi, sự dưỡng dục, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi,
ý sanh, nho đồng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng
thọ báo, khả năng khiến người thọ báo, khả năng tạo nghiệp, khả năng khiến
người tạo nghiệp, cái biết, cái thấy làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến
ấy, chẳng thể vượt qua được. Vì sao? Vì hữu tình cho đến cái biết, cái thấy rốt
ráo còn vô sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến, có thể
nắm bắt được.
Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy thường,
lạc, ngã, tịnh làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể vượt
qua được. Vì sao? Vì thường, lạc, ngã, tịnh rốt ráo còn vô sở hữu, huống là có
chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy vô
thường, khổ, vô ngã, tịch tịnh, làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến
ấy, chẳng thể vượt qua được. Vì sao? Vì vô thường, khổ, vô ngã, tịch tịnh rốt
ráo còn vô sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến, có thể
nắm bắt được.
Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy tham,
sân, si làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể vượt qua
được. Vì sao? Vì tham, sân, si rốt ráo còn vô sở hữu, huống là có chỗ hướng đến,
chẳng phải chỗ hướng đến, có thể nắm bắt được.
Tất cả pháp đều lấy chơn như làm
chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, cũng chẳng thể vượt qua được. Vì sao?
Vì trong chơn như, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến rốt ráo đều chẳng
thể nắm bắt được. Tất cả pháp đều lấy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng,
tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật
tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì làm chỗ hướng đến; đối với
chỗ hướng đến ấy, cũng chẳng thể vượt qua được. Vì sao? Vì trong tất cả pháp
ấy, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến rốt ráo đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy sự
bất động làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể vượt qua
được. Vì sao? Vì trong sự bất động, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến rốt
ráo đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy sắc,
thọ, tưởng, hành, thức làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy,
chẳng thể vượt qua được. Vì sao? Vì ngũ uẩn rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được,
huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến. Tất cả pháp đều lấy mười
hai xứ, mười tám giới và tất cả pháp Phật làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng
đến ấy, chẳng thể vượt qua được. Vì sao? Vì mười hai xứ, mười tám giới và tứ
thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, tứ Thánh đế, thập nhị nhân duyên, ba mươi
bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí… rốt ráo còn vô
sở hữu chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng
đến.
Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy tất
cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy,
chẳng thể siêu vượt. Vì sao? Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác rốt ráo còn
vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ
hướng đến.
Này Thiện Hiện! Như thế là đại Bồ
tát vì làm chỗ hướng đến cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối
cao.
Thích nghĩa:
(1). Năm thú (Phạm: Paĩca gataya.
Pàli: Paĩca gatiyo) Cũng gọi Ngũ đạo, Ngũ ác thú, Ngũ hữu. Năm cõi mà các loài
hữu tình tùy theo nghiệp đã tạo, sẽ sanh đến đó sau khi chết. Đó là: 1- Địa
ngục (Phạm: Naraka), Hán âm: Na lạc ca. 2- Ngạ quỉ (Phạm: Preta), Hán âm: Bệ lệ
đa, cũng gọi Ngã quỉ. 3- Bàng sinh (Phạm: Tiryaĩc), Hán âm: Để lật xa, cũng gọi
Súc sanh. 4- Nhân (Phạm: Manuwya), Hán âm: Ma nâu ti, cũng gọi Nhân gian,
Người. 5- Thiên (Phạm: Deva), Hán âm: Đề bà, cũng gọi Trời, Thiên thượng. (Tóm
lược Phật Quang Tự điển)
Kinh thường nói là lục đạo luân hồi
tức thêm A tu la.
(2). Niết bàn vô úy còn gọi là Vô dư
y Niết bàn, Vô dư y bát Niết bàn: Đã thích nghĩa trong phần thứ I Tổng luận.
(3). Hệ thuộc: Bị trói buộc, bị cột
chặt, bị dẫn dắt.
(4). và (5). Cụ thọ Thiện Hiện thưa
với Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát vì cùng thế gian
làm đạo sư, nên phát thú Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Phật nói: Thiện Hiện! Bồ
tát Ma ha tát vì muốn hữu tình hướng vào tà đạo lìa hạnh bốn thứ, chẳng
nên hành xứ, vì thuyết nhất đạo khiến quy chánh vậy. Dịch như vậy khó hiểu.
Nguyên văn đoạn Kinh này bằng chữ Hán là: “世 Thế 尊 Tôn . 云 vân 何 hà 菩 Bồ 薩 Tát . 摩 Ma 訶 Ha 薩 Tát 為 vi 與 dữ 世 thế 間 gian 作 tác 導 đạo 師 sư 故 cố . 發phát
趣 thú 無 Vô 上 Thượng 正 Chánh
等 Đẳng 菩 Bồ 提 Đề . 佛 Phật 言 ngôn .善 Thiện 現 Hiện . 菩 Bồ 薩 Tát 摩 Ma 訶 Ha 薩 Tát . 欲 dục 令 linh 趣 thú 向 hướng 邪 tà 道 đạo 有 hữu 情 tình . 離 ly 行 hành 四 tứ 種 chủng 不 bất 應 ưng/ứng 行 hành 處 xứ . 為 vi說thuyết 一 nhất
道 đạo 令 linh 歸 quy 正 chánh 故 cố”. Câu vì muốn hữu tình lạc vào tà
đạo “lìa hạnh bốn thứ”. Chữ Hán là 離 ly 行 hành 四 tứ 種 chủng. Từ “bốn thứ” dịch từ chữ Hán là 四 tứ 種 chủng, không được
chỉnh lắm. Vì vậy, đoạn Kinh này khó giải thích, nếu không so chiếu với bản chữ
Hán. Tứ chủng nói đây có nghĩa là tứ chủng chướng (四種障) là bốn thứ
chướng đạo gồm: Duyên tướng, Nhân tướng, Sanh tướng, và Hoại tướng. Có thể dịch
là “Phật nói: Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát thấy hữu tình sa vào tà đạo, khuyến
hữu tình lìa tứ chủng chướng chẳng nên hành, nên thuyết nhất đạo khiến quay về
nẻo chánh”. Dịch như vậy, đúng và dễ hiểu hơn?
(6). Hai bản dịch ĐBN của HT Thích
Trí Nghiêm, một bản đăng trên Website thuvienhoasen.org dịch là: “Tất cả pháp
đều lấy không làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, cũng chẳng thể siêu
việt” và bản khác đăng trên Website tuvienquangduc.com lại dịch là “Tất cả pháp
đều lấy không làm tới. Kia đối tới này chẳng thể vượt khỏi”. Hai đoạn Kinh trên
dịch hơi khó hiểu. Nếu dịch là “Tất cả pháp đều lấy không làm chỗ hướng đến;
đối với chỗ hướng đến ấy, cũng chẳng thể vượt qua được” có
lẽ dễ hiểu hơn chăng?
Lược giải:
Chủ đề của phẩm này thay vì thuyết “ai
là người có thể làm thiện tri thức, làm bạn lành chơn tịnh của chúng hữu tình”,
nhưng Kinh lại thuyết nhiều về chỗ cần hướng đến của tất cả Bồ tát. Mặt nổi là
như vậy, nhưng ý Kinh muốn nói: Người nào hiểu được và thực hành được chỗ cần
hướng đến đó thì có thể làm thiện tri thức, làm bạn lành chơn tịnh cho tất cả
hữu tình trong thế gian. Nhưng phải biết rằng chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ
hướng đến đều không thể siêu vượt vì rốt ráo vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.
1. Ai là người có thể làm thiện tri
thức hay bạn lành chơn tịnh
của tất cả hữu tình?
Kinh nói: “Tất cả những ai tuy biết
tất cả pháp như huyễn, như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng,
như bóng nắng, như sự biến hóa, như ảo thành, tự tánh đều không, nhưng vì
nghĩa lợi thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao; vì khiến
cho thế gian được lợi ích mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao; vì
khiến thế gian được an lạc mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao; vì muốn
cứu vớt thế gian; vì muốn làm nơi nương tựa cho thế gian; vì muốn
làm nơi cư trú cho thế gian; vì muốn làm đạo rốt ráo cho thế
gian; vì làm cù lao cho thế gian; vì làm ánh sáng cho thế gian;
vì làm ngọn đuốc cho thế gian; vì làm đạo sư cho thế gian; vì làm
tướng soái cho thế gian; vì làm chỗ hướng đến cho thế gian mà phát tâm
hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao”. Những ai làm được như vậy thì có khả
năng và xứng đáng làm thiện tri thức, làm bạn lành chơn tịnh cho tất cả hữu
tình! Tất cả thế gian Trời Người nếu thân cận Thiện tri thức như thế thì có cơ
hội tu sửa, sớm mở đạo nhãn thì có thể đạt thường lạc ngã tịnh ngay ở thế gian
này!
2. Đâu là chỗ hướng đến của Bồ tát?
Chỗ hướng đến là giải thoát các nỗi
thống khổ của tất cả hữu tình; cứu vớt hữu tình ra khỏi sự sợ hãi của năm thú;
cứu vớt hữu tình khỏi sanh, lão, bệnh, tử, ưu, sầu, khổ não và đặt họ ở bờ Niết
bàn an ổn.
Chỗ hướng đến nói rộng ra là nói tất
cả pháp đều chẳng hòa hợp, tất cả pháp chẳng hòa hợp tức là chẳng hệ thuộc
nhau, chẳng hệ thuộc nhau tức là vô sanh; vô sanh tức là vô diệt, vô diệt tức
là tất cả pháp chẳng hòa hợp. Chỗ hướng đến đó là tạo đạo cứu cánh cho thế gian
nên thuyết tất cả pháp rốt ráo không, tất cả pháp rốt ráo là như
tướng.
Chỗ hướng đến thiết thực nhất là
tạo cù lao cho thế gian vì muốn hữu tình dứt ái, lìa nhiễm. Chỗ
hướng đến là làm ánh sáng cho thế gian vì muốn lột vỏ vô minh tâm tối
cho hữu tình. Chỗ hướng đến là làm ngọn đuốc cho thế gian nên
thuyết sáu pháp đưa người qua bờ bên kia. Chỗ hướng đến là làm đạo sư vì muốn
hữu tình sa lìa tà đạo quay về nẻo chánh. Chỗ hướng đến là làm
tướng soái cho thế gian vì hữu tình tuyên thuyết khai thị tất cả pháp vô
sanh-vô diệt, vô nhiễm-vô tịnh.
Thực hiện được tất cả chỗ hướng đến
đó thì Bồ tát được gọi là bạn lành chơn thiện của tất cả hữu tình.
Phật dạy: “Vì các hữu tình tuyên
thuyết khai thị sắc chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến.
Vì sao? Vì tánh của sắc là không; trong tánh không, không có chỗ hướng
đến, không có chỗ chẳng hướng đến; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải chỗ
hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của thọ, tưởng,
hành, thức là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ
chẳng hướng đến. Vì các hữu tình tuyên thuyết khai thị mười hai xứ, mười tám
giới chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh
của mười hai xứ, mười tám giới là không; trong tánh không, không có chỗ hướng
đến, không có chỗ chẳng hướng đến; tất cả pháp Phật cũng chẳng phải chỗ hướng
đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp Phật là
không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Vì tất cả pháp đều lấy không,
làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu vượt. Vì sao? Vì
trong không, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt
được. Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy vô tướng, vô nguyện làm chỗ hướng
đến; đối với chỗ hướng đến ấy, đều chẳng siêu vượt. Vì sao? Vì trong vô tướng,
vô nguyện chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.
Tất cả pháp đều lấy vô sở hữu
làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu vượt. Vì sao? Vì
trong vô sở hữu, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt
được.
Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy huyễn,
mộng, tiếng vang, ảnh tượng, bóng sáng, bóng nắng, việc biến hóa, ảo thành
làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu vượt. Vì sao? Vì
trong huyễn, mộng… đến ảo thành, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều
chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy vô
lượng, vô biên làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu
vượt. Vì sao? Vì trong vô lượng, vô biên, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng
đến đều chẳng thể nắm bắt được”.
3. Chỗ hướng đến chẳng thể siêu
vượt.
“Này Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy
việc chẳng cho-chẳng nhận, việc chẳng nâng-chẳng hạ, vô khứ-vô lai, không
tăng-không giảm, bất nhập-bất xuất, chẳng hợp-chẳng lìa làm chỗ hướng đến;
đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu vượt. Vì sao? Vì trong chẳng cho-chẳng
nhận cho đến chẳng hợp-chẳng lìa, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều
chẳng thể nắm bắt được”.
Chỗ hướng đến của chúng sanh là giải
thoát, là Niết bàn. Nhưng giải thoát đi đâu? Giải thoát là vượt qua các trói
buộc, những hệ lụy của cuộc sống; còn được Niết bàn là gì nếu không phải là
được cái thường lạc ngã tịnh của cuộc sống hiện tại. Còn chỗ hướng đến của Bồ
tát là gì nếu không phải là Nhất thiết trí trí, là Chánh giác, là Giác ngộ.
Nhưng Nhất thiết trí trí, Chánh giác hay Giác ngộ chẳng qua chỉ là tìm cái chân
như trong cái giả. Vì vậy, không có gì là siêu việt, kỳ đặc trong thế gian này.
Đừng có nghĩ tưởng là có thể vượt qua và vượt trên những thứ ấy. Một khi muốn
vượt qua và vượt trên chỗ siêu việt và một khi đạt được cảnh giới đó rồi thì
siêu việt không còn ở đó nữa. Siêu việt bị giới hạn, siêu việt không còn là
siêu việt. Siêu việt chỉ trở thành siêu việt khi không có một giới hạn nào, nó
là tuyệt đối không, là vô sở hữu. Nên Kinh nói: “rốt ráo là
vô sở hữu chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ
hướng đến”.
Thật là ngược đời khi Phật bảo phải
lấy huyễn mộng... của tất cả pháp làm chỗ hướng đến. Phật cốt phủ nhận tánh
cách bất thực của tất cả pháp và nói rằng khi tri nhận các pháp chỉ là huyễn
mộng... rồi, thì sẽ thấy cái chẳng huyễn (phi huyễn) đằng sau nó hiện ra, nhưng
cái chẳng huyễn cũng chẳng phải là chỗ hướng đến vì tất cả đều không thể nắm
bắt được. Vậy chỗ nào là chỗ hướng đến? Vì vậy, mới có phẩm kế tiếp.