PHẨM “ĐOẠN PHÂN BIỆT”
Phần sau quyển 335 đến hết quyển 336, Hội thứ I, ĐBN.
(Phẩm “Tùy Hỷ” quyển thứ 21, MHBNBLMĐ có đề cập tới
“phân biệt và vô phân biệt”, nhưng phẩm "Tùy Hỷ"này không phải 1 phẩm
nói riêng về phân biệt như Kinh ĐBN)
Tóm
lược:
Bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Tất
cả tác ý đều tự tánh ly, tự tánh không. Các pháp cũng thế, đều tự tánh ly,
tự tánh không. Trong tự tánh ly, tự tánh không, hoặc đại Bồ tát, hoặc Bát
nhã Ba la mật, hoặc Nhất thiết trí trí, hoặc các tác ý đều chẳng khá được. Làm
sao đại Bồ tát chẳng ly tác ý tương ưng Bát nhã Ba la mật, chẳng ly tác ý tương
ưng Nhất thiết trí trí?
Phật nói: Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát biết tất cả pháp và
các tác ý đều tự tánh ly, tự tánh không; ly - không như thế chẳng phải
Thanh văn làm, chẳng phải Độc
giác làm, chẳng phải các Bồ tát làm, chẳng phải chư Phật làm, cũng chẳng phải
ai khác làm. Nhưng tất cả pháp: Chơn như, pháp tánh, pháp giới, pháp trụ, pháp
định, thật tế… là pháp tự nhiên(1) đều như vậy. Đại Bồ tát này chẳng ly tác ý
tương ưng Bát nhã Ba la mật, lại cũng chẳng ly tác ý tương ưng Nhất thiết trí
trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Bát nhã Ba la mật thẳm sâu, Nhất thiết trí trí cùng
các tác ý đều tự tánh ly, tự tánh không vậy. Cái ly, cái không như thế không
tăng, không giảm. Có khả năng thông đạt đúng đắn như thế, thì gọi là không ly,
không lìa vậy.
Khi ấy cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn!
Nếu Bát nhã Ba la mật thẳm sâu cũng tự tánh ly, tự tánh vốn không, làm sao đại
Bồ tát chứng Bát nhã Ba la mật tánh bình đẳng rồi mới chứng được Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật bảo: Thiện Hiện! Chẳng phải tất cả Phật pháp có
tăng có giảm mà Bồ tát khi tu mới chứng
được tánh bình đẳng Bát Nhã; cũng chẳng phải tất cả pháp: Pháp trụ, pháp định,
pháp tánh, pháp giới, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, chơn như, thật
tế có tăng có giảm. Vì sao? Vì Bát Nhã chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng
phải ba, chẳng phải bốn, cũng chẳng phải nhiều. Nếu đại Bồ tát nghe nói Bát nhã
Ba la mật sâu xa như thế, tâm họ không kinh, không sợ, không hãi, chẳng chìm,
chẳng đắm cũng chẳng do dự, thì nên biết đại Bồ tát ấy tu hành Bát Nhã được rốt
ráo, an trụ bậc Bất thối chuyển của Bồ tát. (Q.335,
ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Có phải tự tánh
chẳng chắc thật, tánh chẳng tự tại, rỗng không, chẳng phải có của Bát Nhã mà có
thể hành Bát nhã Ba la mật chăng?
- Thế Tôn bảo: Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa tánh chẳng chắc thật, tánh chẳng
tự tại, rỗng không, chẳng phải thật có của Bát Nhã mà có pháp có thể đắc, có
thể hành Bát nhã Ba la mật chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải tự Bát Nhã có thể hành Bát nhã Ba la
mật chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa Bát Nhã có thể hành Bát nhã Ba la
mật sâu xa chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải tự tánh không có thể hành không chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa tánh không có thể hành không
chăng?
- Không! Thiện Hiện!
Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Có phải tự sắc, có thể hành Bát nhã Ba la mật
chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa sắc, có thể hành Bát nhã Ba la
mật chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải tự thọ, tưởng, hành, thức, có thể
hành Bát nhã Ba la mật chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa thọ, tưởng, hành, thức, có thể
hành Bát nhã Ba la mật chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải tự mười hai xứ, mười tám giới có thể
hành Bát nhã Ba la mật chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa mười hai xứ, mười tám giới có thể
hành Bát nhã Ba la mật chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải tự tất cả pháp Phật có thể hành Bát
nhã Ba la mật chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa tất cả pháp Phật có thể hành Bát
nhã Ba la mật chăng?
- Không! Thiện Hiện!
Cụ thọ Thiện Hiên lại hỏi tiếp:
- Bạch Thế Tôn! Có phải tự tánh chẳng chắc thật, tánh chẳng
tự tại, rỗng không chẳng phải có của sắc, có thể hành Bát nhã Ba la mật chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa tánh chẳng chắc thật, tánh chẳng
tự tại, rỗng không chẳng phải có của sắc, có thể hành Bát nhã Ba la mật chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải tự tánh chẳng chắc thật, tánh chẳng
tự tại, rỗng không chẳng phải có của thọ, tưởng, hành, thức, có thể hành Bát
nhã Ba la mật chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa tánh chẳng chắc thật, tánh chẳng
tự tại, rỗng không chẳng phải có của thọ, tưởng, hành, thức, có thể hành Bát
nhã Ba la mật chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải tự tánh chẳng chắc thật, tánh chẳng
tự tại, rỗng không chẳng phải có của 12 xứ, 18 giới cho đến tất cả pháp Phật,
có thể hành Bát nhã Ba la mật chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa tánh chẳng chắc thật, tánh chẳng
tự tại, rỗng không chẳng phải có của 12 xứ, 18 giới có thể hành Bát nhã Ba la
mật chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải tự chơn như, pháp giới, pháp tánh,
tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp
định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì của sắc, có
thể hành Bát nhã Ba la mật chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa chơn như, pháp giới, pháp tánh
v.v… cho đến cảnh giới bất tư nghì của sắc, có thể hành Bát nhã Ba la mật
chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải tự chơn như, pháp giới, pháp tánh
v.v… cho đến cảnh giới bất tư nghì của thọ, tưởng, hành, thức, có thể hành Bát
nhã Ba la mật chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa chơn như, pháp giới, pháp tánh
v.v… cho đến cảnh giới bất tư nghì của thọ, tưởng, hành, thức, có thể hành Bát
nhã Ba la mật chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải tự chơn như, pháp giới, pháp tánh
v.v… cho đến cảnh giới bất tư nghì của 12 xứ, 18 giới có thể hành Bát nhã Ba la
mật chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa chơn như, pháp giới, pháp tánh
v.v… cho đến cảnh giới bất tư nghì của 12 xứ, 18 giới có thể hành Bát nhã Ba la
mật chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải tự chơn như, pháp giới, pháp tánh
v.v… cho đến cảnh giới bất tư nghì của tất cả pháp Phật, có thể hành Bát nhã Ba
la mật chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa chơn như, pháp giới, pháp tánh
v.v… cho cảnh giới bất tư nghì của tất cả pháp Phật, có thể hành Bát nhã Ba la
mật chăng?
- Không! Thiện Hiện!
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu các
pháp như thế, đều chẳng thể hành Bát Nhã thì tại sao đại Bồ tát có thể hành Bát
nhã Ba la mật?
Phật bảo Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Ông có thấy pháp nào có
thể hành Bát nhã Ba la mật chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!
Phật bảo Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Ông có thấy Bát nhã Ba
la mật là sở hành của đại Bồ tát chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!
Phật bảo Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Pháp mà ông chẳng thấy
là pháp có thể đạt được chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!
Phật bảo Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Pháp chẳng thể đạt được
có sanh diệt chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!
Phật bảo Thiện Hiện: Thật tánh của các pháp như ông đã
thấy tức là vô sanh pháp nhẫn(2) của đại Bồ tát. Nếu đại Bồ tát thành tựu vô
sanh pháp nhẫn như thế thì liền được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thọ ký Bất
thối chuyển đối với quả vị Giác ngô tối cao.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát
nhờ đạt tánh vô sanh của tất cả pháp mà được Phật thọ ký Bất thối chuyển
chăng?
Phật dạy: Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát nhờ tánh sanh của tất
cả pháp mà được Phật thọ ký Bất thối chuyển chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát nhờ tánh sanh, vô sanh
của tất cả pháp mà được Phật thọ ký Bất thối chuyển chăng?
- Không! Thiện Hiện!
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát nhờ tánh phi sanh, phi vô
sanh của tất cả pháp mà được Phật thọ ký Bất thối chuyển chăng?
- Không! Thiện Hiện!
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao đại
Bồ tát được Phật thọ ký Bất thối chuyển?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Ông có thấy pháp
nào được Phật thọ ký Bất thối chuyển chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không! Con chẳng thấy có
pháp nào được Phật thọ ký Bất thối chuyển, cũng chẳng thấy pháp nào đối với quả
vị Giác ngộ tối cao của Phật có năng chứng, sở chứng, thời chứng và do đây mà
chứng, tất cả đều chẳng thể nắm bắt được.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói (Q.336, ĐBN)
Thích nghĩa:
(1). Pháp tự nhiên: Kinh MHBNBLMĐ gọi là Pháp nhĩ hay còn gọi là
Pháp nhiên, Tự nhiên, Thiên nhiên, Tự nhĩ, Tự nhiên pháp nhĩ... chỉ cho trạng
thái tự nhiên, thiên nhiên của các pháp (muôn vật), không bị biến đổi dưới bất kỳ sự tạo tác nào. Tức chỉ cho tướng
trạng của sự vật xưa nay vốn như thế. Cứ theo Hoa nghiêm Kinh Thám huyền kí
quyển 3, thì nghĩa Pháp nhĩ có thể nhận xét về 2 phương diện: 1- Nhận xét về sự
tồn tại của tất cả các pháp: Hết thảy các pháp đều do nhân duyên hòa hợp mà
thành, dù nước chảy xuống thấp, lửa bốc lên cao, đều là việc tự nhiên như thế. 2-
Nhận xét theo lý chân
như của các pháp: Các pháp vốn tùy duyên mà sinh khởi, tính của các pháp xưa
nay vốn bình đẳng thường nhiên. Theo luận Du già sư địa quyển 88, thì Pháp nhĩ
là đạo lý thứ tư trong
4 đạo lý, là đạo lý tự nhiên biểu trưng cái tướng vốn
như thế của mỗi sự vật, như tính của lửa vốn nóng, tính của nước vốn ướt...
Tịnh độ chân tông của Nhật bản cho rằng nhờ nguyện lực của đức Phật A di đà mà
tự nhiên được vãng sinh Cực lạc, gọi là Pháp nhĩ vãng sinh. Pháp nhĩ trong
trường hợp này có nghĩa là tự nhiên và tha lực. (xt. Tự Nhiên Pháp Nhĩ) - Phật
Quang từ điển.
(2). Vô sanh pháp nhẫn: Vì thấu hiểu các pháp không sanh,
không diệt tức thấu hiểu thật tướng các pháp thì không còn lo rầu, phiền muộn
trước mọi cảnh huống, nên đối người đối vật không sanh lòng hờn giận, oán ghét
mà được vô sanh pháp nhẫn. Thích nghĩa rồi, chỉ nhắc lại cho nhớ!
Lược
giải:
Mấu chốt của phẩm này là chẳng phải tất cả Phật pháp có
tăng có giảm mà Bồ tát lúc tu mới chứng được tánh bình đẳng Bát Nhã. Chẳng phải do hay lìa tánh
chẳng chắc thật, tánh chẳng tự tại, rỗng không của Bát Nhã mà Bồ tát có thể
hành Bát nhã Ba la mật. Chẳng phải do sắc như hay lìa sắc như mà có thể hành Bát
Nhã, chẳng phải do hay lìa thọ tưởng hành thức như mà có thể hành Bát nhã Ba la
mật. Nói rộng ra, chẳng phải do hay lìa tất cả pháp như mà có thể hành Bát nhã
Ba la mật.
Tất cả pháp chẳng thể hành, chẳng thể chứng, chẳng sanh
chẳng diệt tức là vô sanh pháp nhẫn của đại Bồ tát. Nếu đại Bồ tát thành
tựu vô sanh pháp nhẫn như thế thì liền được Phật thọ ký bất thối chuyển. Nên
biết, Bồ tát chẳng phải nhờ tánh sanh, tánh vô sanh hay tánh phi sanh, phi vô
sanh mà được thọ ký. Rốt ráo, chẳng thấy có pháp nào được Phật thọ ký bất thối
chuyển, cũng chẳng thấy pháp nào đối với quả vị Giác ngộ tối cao của chư Phật có năng chứng, sở chứng, thời chứng và do đây mà
chứng, vì tất cả đều chẳng thể nắm bắt được. Các đại Bồ tát tu hành thậm
thâm Bát Nhã, không có phân biệt như thế thì mau chứng đắc. Nhưng, chứng hay chẳng chứng rốt ráo cũng vô phân
biệt. Vì sao? Vì Bát Nhã là vô phân biệt.
Điều này có nghĩa: “Bồ tát tu hành Bát Nhã nếu không phân
biệt các pháp thì sẽ không thấy có sở hành sở chứng”, nhưng vẫn hành vẫn chứng,
vẫn hoàn thành sự nghiệp. Kinh nói “như người thợ, vì có sự nghiệp
phải làm nên thầy trò tạo ra người gỗ hoặc voi, ngựa, trâu, dê gỗ. Các hình gỗ
đó cũng làm được việc mà vô phân biệt”.(1)
Phần “Bát Nhã Ba La Mật”, quyển 597, Hội thứ XVI, ĐBN.
Phật bảo Bồ tát Thiện Dũng Mãnh:
“Vì tất cả điên đảo đều do hành, do có hành nên có cùng khởi.
Sự hành, cùng khởi đều do điên đảo hư dối phân biệt. Bồ tát đối với pháp hành
đều không phân biệt, cũng không cùng khởi, nên gọi là xa lìa điên đảo. Do không
điên đảo nên không có sở hành. Do không có sở hành thì không có sở khởi. Nên
nói Bồ tát hành không chỗ hành. Không chỗ hành ấy nghĩa là đối với các pháp
hoàn toàn không có chỗ hành, cũng không quán xét, cũng không thị hiện có tướng
hành. Cho nên nói Bồ tát hành không chỗ hành. Nếu có thể hành được không chỗ
hành mà hành như thế là hành Bát nhã Ba la mật”.
Có phân biệt là có chấp, vì chấp nên sanh tạo tác, tức
hành có ái nhiễm thương ghét, nắm bỏ, khinh chê. Đó là hành trong điên đảo. Bồ
tát biết rằng thế gian là thiên sai vạn biệt, nhưng Bồ tát không phân biệt nên
không chấp, do công năng vô chấp đó mà đối với tất cả pháp đều được vô ngại.
Kinh nói: “Như kẻ được các Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biến hóa, dù hành bố thí Ba la mật cho đến Bát
nhã Ba la mật mà đối quả kia chẳng
thọ chẳng trụ, chỉ vì muốn hữu
tình được Niết bàn. Như vậy, cho đến dù hành Nhất thiết chủng trí mà
đối quả kia chẳng thọ chẳng trụ, chỉ vì muốn hữu tình nhập Niết bàn. Các Bồ tát cũng lại như thế, khi hành sâu Bát
nhã Ba la mật đối tất cả pháp thiện hoặc phi thiện, hoặc hữu ký hoặc vô ký,
hoặc hữu lậu hoặc vô lậu, hoặc thế gian hoặc xuất thế gian, hoặc hữu vi hoặc vô
vi đều không chấp trước, cũng không bị ngại. Vì sao? Vì khéo đạt các pháp như thật tướng vậy”.(2)
Nhưng thật tướng tất cả pháp là Không, là Tánh không.
Trong Tánh Không không có tánh tướng, nên “Phân Biệt Kinh”(3) nói:
“Này các tỳ kheo! Nói đến Tánh Không là không có gì cả, không
vọng tưởng, không sanh không diệt, xa lìa mọi sự thấy biết. Tại sao? Vì Tánh
Không không có nơi chốn, không có sắc tướng, không có tư tưởng, vốn không sanh,
chẳng phải sự thấy biết có thể thấu được. Xa lìa mọi đắm chấp, nên thâu nhiếp
được tất cả pháp, trú ở sự thấy biết bình đẳng, là sự thấy biết chơn thật. Các
ông nên biết, Tánh Không như vậy, các pháp cũng như vậy. Đó gọi là Pháp Ấn.
Lại nữa, các Tỳ kheo, Pháp ấn này là cửa ngõ của ba pháp
giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư
Phật đạt đến. Vậy nên các ông nghe cho kỹ, ghi nhận cho đúng, như sự thật mà
suy nghĩ quán sát.
Lại nữa, Tỳ kheo các ông! Nếu có người nào tu hành, nên đi
vào chốn núi rừng, hoặc ở dưới gốc cây hay ở các nơi vắng vẻ yên tĩnh, đúng như
sự thật quán sát: Sắc là khổ, là không, là vô thường, nên sanh tâm nhàm chán xa
lìa; như vậy quán sát về Thọ, Tưởng, Hành, Thức là khổ, là không, là vô thường
nên sanh tâm nhàm chán xa lìa. Trú ở sự thấy biết bình đẳng.
Này các Tỳ kheo! Các uẩn vốn không, chỉ do tâm phát sanh. Khi
tâm diệt thì các uẩn không còn tác động. Biết đúng như vậy, tức là chánh giải
thoát. Khi được chánh giải thoát, xa lìa mọi sự thấy biết, thì gọi là cửa
Giải thoát không.
Lại nữa, trú trong chánh định quán sát các sắc cảnh, tất cả
đều tiêu diệt, xa lìa mọi nghĩ tưởng. Như vậy, thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng
đều tiêu diệt, xa lìa mọi nghĩ tưởng. Quán sát như vậy gọi là cửa Giải thoát
vô tướng. Vào được cửa Giải thoát này tức thấy được sự thanh tịnh. Do sự
thấy biết thanh tịnh đó, dứt trừ được tất cả tham sân si. Tham sân si đã dứt
trừ, trú ở sự thấy biết bình đẳng, trú ở sự thấy biết bình đẳng này rồi, tức xa
lìa được cái thấy ta và vật sở hữu của ta. Thấu rõ được mọi sự thấy biết không
nơi sanh khởi, cũng không nơi nương tựa.
Lại nữa, khi xa lìa được cái thấy ta rồi, tức không còn thấy,
không còn hay, không còn biết. Tại sao thế? Vì có nhơn duyên cho nên mới
sanh thức, tức nhơn duyên kia cùng với thức được phát sanh đều là vô thường.
Vì là vô thường nên thức không có thật thể. Thức uẩn đã không, không có tạo
tác, thì gọi là cửa Giải thoát vô tác. Vào được cửa Giải thoát này, tức
biết được pháp cứu cánh, không còn đắm chấp các pháp và chứng được pháp
tịch diệt".
Rốt cuộc rồi tất cả pháp Phật cũng dẫn đến kết luận:
Chấm dứt sự sanh diệt của cảm quan và thức vọng phân biệt thì chứng được cái
thấy biết bình đẳng. Đạt được cái thấy biết bình đẳng thì tâm được thanh tịnh.
Đó là chỗ rốt ráo của tu hành. Muốn được như vậy thì không nên phân biệt, không
phân biệt khác mới có thể mở cổng không, vô tướng, vô tác mà qua bờ kia.
Phân biệt kinh là một đoạn kinh nói về pháp môn tam tam ma
địa hay nhất. Ngắn gọn mà Phật luôn luôn tán tụng trong toàn thể ĐBN. Đó là
pháp ấn mầu nhiệm của chư Phật. Cố gắng chú ý học hỏi pháp môn giải thoát này.
Kết
luận:
Phật bảo Bồ tát Thiện Dũng Mãnh: “Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu có phân
biệt thời phân biệt khác. Nếu đối chỗ này không có phân biệt, thời đối chỗ ấy
không phân biệt khác. Tất cả phân biệt và phân biệt khác đều do phàm phu ngu si
tạo ra và tư tưởng của họ cũng đều do phân biệt và phân biệt khác phát
sanh. Vậy nên, Bồ tát chẳng
khởi phân biệt, không phân biệt khác.
Này Thiện
Dũng Mãnh! Nói phân biệt ấy là bên thứ nhất, phân biệt khác ấy là bên thứ hai.
Nếu đối chỗ này chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác, thời đối chỗ ấy xa
lìa hai bên, cũng không có giữa.
Này Thiện
Dũng Mãnh! Nếu bảo có giữa cũng là phân biệt, phân biệt giữa ấy cũng gọi có
bên. Nếu đối chỗ này có phân biệt, thời đối chỗ đây có phân biệt khác. Do nhân duyên
đây không có nghĩa là dứt phân biệt, phân biệt khác. Nếu đối chỗ này không phân
biệt, thời đối chỗ đấy không phân biệt khác. Do nhân duyên đây mới dứt phân
biệt, phân biệt khác.
Này Thiện Dũng Mãnh! Đoạn trừ phân biệt nghĩa là trong đó
hoàn toàn không có gì để đoạn trừ cả. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh! Vì sức phân
biệt, phân biệt khác là vô sở hữu, hư vọng nên phát sanh điên đảo; vì nó tịch
tĩnh nên điên đảo cũng không có; vì điên đảo cũng không nên hoàn toàn không có
chỗ đoạn trừ.
Này Thiện Dũng Mãnh! Vì không có sự đoạn trừ nên mới hiển bày
ý niệm về khổ đoạn. Nghĩa là trong đó không có một chút khổ nào để đoạn trừ nên
gọi là khổ đoạn.
Nếu tự tánh của khổ mà có một chút chân thật thì mới có thể
nói là đoạn trừ. Nhưng tự tánh của khổ không có chút gì là chân thật nên không
có chỗ để đoạn trừ.
Nếu chỉ thấy khổ thì không thể gọi là khổ đoạn, nghĩa là biết
rõ cái khổ hoàn toàn không có một chút phần tự tánh nào có thể bị, nên gọi là
khổ đoạn.
Nếu mọi người đối với khổ mà hoàn toàn không phân biệt và
phân biệt khác thì gọi là khổ tịch tĩnh, tức là làm cho khổ không còn có ý
nghĩa phát sanh nữa.
Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ tát thấy như vậy thì đối với
các pháp không khởi phân biệt và không phân biệt khác. Này Thiện Dũng Mãnh! Đó
gọi là Bồ tát biết rõ tánh phân biệt và phân biệt khác mà tu hành Bát nhã Ba la
mật”.(4)
Đây là chỗ tột cùng của Bát Nhã: Không có phân biệt
cũng không có phân biệt khác, đoạn trừ phân biệt mà cũng không có gì để đoạn
trừ (vì phân biệt chỉ do tưởng, tự mình tạo ra); cho đến khổ mà hoàn
toàn không phân biệt và phân biệt khác thì gọi là khổ tịch tĩnh, tức là làm cho
khổ không còn có ý nghĩa phát sanh nữa, như vậy khổ tự đoạn. Vậy, đoạn mà không
có gì để đoạn, khiển cũng không có gì khiển. Đoạn hay khiển cũng chỉ là những
động niệm mà động niệm cần xa lìa thì tâm mới được an nhiên tịch lặng. Bát Nhã
là như vậy. Một giáo pháp nghịch đời nhưng cứ theo những chỉ dẫn đó rồi sẽ được
an tịnh trong muôn vàn số kiếp.
Tổ Tăng Xán mở đầu bài tụng “Tín Tâm Minh” với câu nói trứ
danh “Chí đạo vô nan, duy hiềm giản trạch”:
Chí đạo chẳng khó.
Cốt đừng chọn lựa!
Câu chuyện sau đây chứng tỏ phân biệt là cái ghê tởn
của cuộc đời thường:
Có cô gái của một gia đình nọ xin Bố mẹ cho nuôi một con
chó nhỏ để làm bạn vì cô đi học xa, xa gia đình cảm thấy lẻ loi. Sau vài năm cô
gái tốt nghiệp cử nhân và chuyển sang học chuyên khoa ở phương xa, không thể
tiếp tục chăm sóc con chó tên Bella được nữa. Vì vậy, cô để nó lại nhờ Bố mẹ
chăn sóc.
Con Bella càng lớn càng lười biếng, ăn rồi ngủ, không chịu
chạy nhảy nô đùa như trước nữa. Ông Bố mới theo ý kiến của những người chuyên
môn khuyên: Phải nuôi hai con để nó làm bạn nô đùa với nhau. Rồi ba bố con đưa
nhau đến một trung tâm nuôi chó vô thừa nhận (Shelter). Ông Bố có ý kiến là nên
nhận một con chó đẹp, lành lặn. Ba bố con mới đi một vòng quan sát. Cậu con
trai thấy một con chó nhỏ giống chuhuahua, rất vui vẻ, quẫy đuôi chạy loanh
quanh ba bố con như có ý muốn nói: “Hãy nhận con đi, tội nghiệp!” Nó bị tật hai
chân sau, không ai thừa nhận, nên mới bị bỏ rơi tại trung tâm này khá lâu.
Người bố bảo “Nó bị tật, không nên lấy”. Ba bố con nhận
một con chó khác, khỏe mạnh và đẹp hơn. Trên đường đi về, cậu con trai mới nói
với bố: “Con thích con chó chuhuahua”. Ông bố mới bảo: “Nó bị tật mà lấy làm gì
thêm khổ?” Đứa con trai mới nói với bố: “Nếu không ai nhận người ta sẽ cho nó
ngủ (chít thuốc cho chết), con thấy nó vui vẻ, có sao đâu?”
Câu chuyện xảy ra như vậy tưởng chẳng có gì trầm trọng
lắm.
Trải qua một thời gian dài, ông bố học đạo mới hối tiếc,
buồn rầu và tự trách “cái nghiệp này có thể đưa mình đến trầm luân không biết
bao nhiêu kiếp”. Vì sao? Vì phân biệt đẹp với xấu, toàn vẹn với khuyết tật. Cái
so đo, chọn lựa giữa các pháp đối trị làm mất đại bi tâm. Đó là hậu quả tất
nhiên của cuộc đời thường: Có chọn lựa là có được có mất, có điên đảo! Con
người chỉ thích đẹp, thích trọn vẹn; còn cái xấu, khuyết tật bỏ cho ai? Thiếu
đạo đức, không công bằng là ở chỗ đó! Nên Phật bảo: “Bất tùy phân biệt là
giải thoát”.
Người Bố cứ mỗi lần nhắc đến chuyện này, đều không tránh
nổi đau buồn, thở dài!
Thích nghĩa cho phần lược giải này:
(1). Phẩm “Tùy Hỉ” quyển tứ 21, Ma Ha Bát nhã Ba la mật,
La Thập dịch.
(2). Phẩm
“Nhiều Đức Tướng” quyển thứ 471, Đại Bát Nhã .
(3). Pháp ấn Kinh, Đại tạng Tích Sa quyển 514 dịch theo
bản chữ Hán của Thí Hộ, dịch giả Thích thiện Trì.
(4). Phần “Bát Nhã Ba La Mật” quyển 599, ĐBN.
---o0o---