PHẨM “VÔ TẬN”
Phần sau quyển 347 cho đến hết quyển 348, Hội thứ I, ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Bất Khả Tận” quyển thứ 21, MHBNBLMĐ)
Tóm
lược:
Vì sắc bất khả tận nên đại Bồ tát phải lấy Bát Nhã để hướng
dẫn(1); vì thọ, tưởng, hành, thức bất khả tận, nên đại Bồ tát phải lấy Bát Nhã
để hướng dẫn; mười hai xứ bất khả tận, mười tám giới bất khả tận, tứ thiền, tứ
vô lượng, tứ định vô sắc, Tứ đế, ba mươi bảy pháp trợ đạo, Nhất thiết trí… cho
đến quả vị Giác ngộ tối cao của chư Phật bất khả tận nên đại Bồ tát phải
lấy Bát nhã Ba la mật để hướng dẫn.
Vì sắc như hư không bất khả tận nên đại Bồ tát phải
lấy Bát Nhã để hướng dẫn; vì thọ, tưởng, hành, thức như hư không bất khả tận
nên đại Bồ tát phải lấy Bát Nhã để hướng dẫn; mười hai xứ, mười tám giới như hư không bất khả tận, tứ thiền,
tứ vô luợng, tứ định vô sắc, Nhất
thiết trí v.v… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao của chư Phật như hư không, bất khả tận nên đại Bồ tát phải lấy Bát nhã Ba la mật để hướng dẫn.
Vì đại Bồ tát quán vô minh như hư không bất khả tận
nên phải lấy Bát Nhã để hướng dẫn; vì đại Bồ tát quán hành như hư không
bất khả tận nên phải lấy Bát Nhã để hướng dẫn; vì đại Bồ tát quán thức, quán
danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử (mười hai chi
duyên khởi) như hư không bất khả tận nên phải lấy Bát nhã Ba la mật để
hướng dẫn.
Các đại Bồ tát ngồi tòa Bồ đề, như thật quán sát mười hai chi
duyên khởi giống như hư không, chẳng cùng tận, xa lìa nhị biên, nên có khả năng
mau chứng Nhất thiết trí trí.
Nên biết, nếu đại Bồ tát dựa vào hành tướng như hư
không bất khả tận, lại dùng các phương tiện thiện xảo Bát Nhã hướng dẫn, như
thật quán sát mười hai chi duyên khởi, sẽ không bị thối chuyển, chẳng đọa
vào bậc Thanh văn và Độc giác, lại mau an trụ quả vị Giác ngộ tối cao.
Nếu đại Bồ tát khi quán sát pháp duyên khởi như thế, chẳng
thấy có pháp nào không có nhân mà sanh khởi; chẳng thấy có pháp nào không có
nhân mà hoại diệt; chẳng thấy có pháp nào thường trụ bất diệt; chẳng thấy có
pháp nào có ngã, hữu tình, dòng sanh mạng cho đến cái thấy cái biết; chẳng thấy
có pháp nào thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã,
hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc viễn ly hoặc
chẳng viễn ly. (Q. 348, ĐBN)
Các đại Bồ tát muốn tu hành Bát nhã Ba la mật thì phải quán
sát duyên khởi như thế. Chỉ khi nào đại Bồ tát tu hành thậm thâm Bát nhã Ba la
mật thì đại Bồ tát ấy chẳng thấy sắc hoặc thường hoặc vô thường,
hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng
lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng thấy
thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã
hoặc vô ngã v.v… Chỉ khi nào đại Bồ tát tu hành Bát Nhã đến chỗ thậm thâm, thì
khi ấy đại Bồ tát chẳng thấy mười hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ vô luợng, tứ định vô sắc, Nhất thiết trí trí…
cho đến quả vị Giác ngộ tối cao hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ,
hoặc ngã hoặc vô ngã v.v…
Chỉ khi nào đại Bồ tát tu hành Bát Nhã đến chỗ thậm thâm,
thì khi ấy đại Bồ tát tuy tu hành Bát Nhã nhưng chẳng thấy Bát Nhã có sở hành;
lại cũng chẳng thấy pháp năng hành Bát Nhã. Lúc đại Bồ tát tu hành đến chỗ thậm
thâm Bát Nhã, lúc ấy đại Bồ tát tuy tu hành tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh
giới, bố thí nhưng chẳng thấy có sở hành tịnh lự cho đến bố thí; lại cũng chẳng
thấy có pháp năng hành tịnh lự cho đến bố thí; lại cũng chẳng thấy có “cái
thấy”.
Lúc đại Bồ tát tu hành Bát Nhã đến chỗ thậm thâm, lúc ấy đại
Bồ tát tuy an trụ pháp không nội mà chẳng thấy có sở trụ pháp không nội;
lại cũng chẳng thấy có pháp năng thấy sở trụ pháp không nội, pháp
không nội ngoại, pháp không không… cho đến pháp không không tánh tự tánh; lúc
ấy đại Bồ tát tuy an trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp
trụ, thật tế v.v… mà chẳng thấy có sở trụ chơn như; lại cũng chẳng thấy có pháp
năng thấy sở trụ pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế v.v…; lại
cũng chẳng thấy có “cái thấy”.
Chỉ khi nào Bồ tát tu hành Bát Nhã đến chỗ thậm thâm, thì
khi ấy đại Bồ tát tuy an trụ Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo mà chẳng
thấy có sở trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; lại cũng chẳng thấy có pháp
năng thấy sở trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Lúc đại Bồ tát tu hành Bát Nhã đến
chỗ thậm thâm, lúc ấy đại Bồ tát tuy tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô
sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, ba môn giải thoát không, vô
tướng, vô nguyện, thập vị Bồ tát, ngũ nhãn, lục thần thông, Phật mười lực, bốn
điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả,
mười tám pháp Phật bất cộng, pháp không quên mất, tánh luôn luôn
xả, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí, tất cả pháp môn
Đà la ni, Tam ma địa, bốn quả Thanh văn, Bích Chi Phật, tất cả Bồ tát hạnh, quả
vị Giác ngộ tối cao… nhưng
chẳng thấy pháp, chẳng thấy năng tu, sở
tu. Các đại Bồ tát đối với tất cả pháp hoàn toàn không có sở đắc, nên mới có
thể hành Bát Nhã thậm thâm như thế.
Nếu đại Bồ tát đối với tất cả pháp, lấy vô sở đắc làm
phương tiện, tu hành Bát Nhã như thế, thì khi ấy ác ma rất lo buồn đau đớn
như trúng phải tên độc, hay giống như người có thân nhân mới chết.
Nếu đại Bồ tát thường an trụ hạnh an trụ tối thắng của
Bát nhã Ba la mật thì trời, người, A tu la v.v... trong thế gian có rình tìm khuyết
điểm của vị ấy cũng không thể tìm được, cũng chẳng có thể nào làm cho các vị ấy
lo buồn. Vì vậy, nếu đại Bồ tát muốn chứng quả vị Giác ngộ tối cao, thì phải
siêng năng an trụ hạnh an trụ tối thắng Bát Nhã.
Lại nữa, nếu đại Bồ tát có khả năng an trụ vững chắc hạnh an
trụ tối thắng Bát Nhã thì có khả năng tu đầy đủ bố thí, tịnh giới, an nhẫn,
tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ tát có khả năng tu hành chơn
chính Bát nhã Ba la mật thậm thâm, thì có khả năng tu đầy đủ tất cả Ba la mật.
Nếu đại Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật không điên đảo, dùng
tâm Nhất thiết trí mà tu lục Ba la mật, lại đem công đức tu các pháp ấy ban cho
tất cả hữu tình cùng hưởng như nhau, rồi hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, thì
đó là đại Bồ tát có khả năng tu hành chơn chính Bát Nhã, lại có đủ khả năng tu
đầy đủ sáu Ba la mật.
Thích nghĩa:
(1). Hướng dẫn: Nguyên văn chữ Hán là “引發”, thường dịch là dẫn phát
hay dẫn hướng, có nghĩa là đưa đến, đem đến. Như dịch trong câu: “Thiện Hiện nên
biết! Vì sắc vô tận nên đại Bồ tát phải dẫn phát Bát nhã Ba la mật; vì thọ,
tưởng, hành, thức vô tận nên đại Bồ tát phải dẫn phát Bát nhã Ba la mật”. Chúng
tôi dịch là hướng dẫn hay dẫn hướng. Nên câu trên có thể dịch là “Thiện Hiện
nên biết! Vì sắc vô tận nên đại Bồ tát phải lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn hướng;
vì thọ, tưởng, hành, thức vô tận nên đại Bồ tát phải lấy Bát nhã Ba la mật để
dẫn hướng”.
Lược
giải:
Cảm thọ và ý thức là cái giúp con người sống, không ai có
thể sống mà không cảm thọ, ý thức. Cảm thọ và ý thức giúp con người sống nhưng
đôi khi lừa phỉnh con người, mà con người không tự biết. Xấu hay đẹp, ngon hay
dở, lạnh hay nóng là tùy người. Người khỏe mạnh vào phòng lạnh thì cho là mát
mẻ, trong khi người ốm vào phòng lạnh chịu không thấu. Người khỏe ăn cái gì
cũng thấy ngon, người ốm ăn cái gì cũng thấy dở. Bản thân của con người không
phải là cái máy phân tích, đo lường hay là hàn thử biểu. Do đó, có những cảm
nhận khác biệt. Đó chỉ nói về những cảm thọ thuộc về vật chất. Sự khác biệt
thuộc về ý thức lại càng to lớn hơn nữa. Ý thức về giá trị, về văn hóa, đạo
đức, tâm linh… là những sai biệt không thể nào tưởng tượng nổi. Chúng là những
mâu thuẫn... tưởng chừng như không thể nào hàn gắn được.
Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, thế giới nội hay ngoại là
biểu tượng cho những sai biệt bất tận. Bát Nhã là vô phân biệt, là pháp môn bất
nhị. Nên Bát Nhã (trí) mới có thể đối trị đối với những sai biệt đó. Bát Nhã
(trí) chiếu soi tới đâu thì tất cả pháp thiên sai vạn biệt đều phải phơi bày
thật tướng của nó. Nên Bát Nhã (trí) mới có thể tháo gỡ được cái thấy biết phù
phiếm, trôi nổi này. Vì vậy, khi Bồ tát tu hành thậm thâm Bát Nhã, Bồ
tát chẳng thấy sắc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc
ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng,
hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức hoặc
thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã v.v… Bồ tát tu
hành Bát Nhã đến chỗ thậm thâm, thì khi ấy đại Bồ tát chẳng thấy mười hai xứ,
mười tám giới, tứ thiền, tứ vô lương, tứ định vô sắc, Nhất thiết trí trí… cho
đến quả vị Giác ngộ tối cao hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc
ngã hoặc vô ngã v.v… Bồ tát
chẳng thấy tất cả pháp, chẳng thấy năng tu, sở tu, cả đến chẳng thấy Bát Nhã là năng
hành, sở hành. Vì đối với tất cả pháp Bồ tát hoàn toàn không có sở đắc, nên mới
có thể tránh được sự câu thúc cũng như những bạo hành của cảm quan và ý thức mà
an trụ trong Bát nhã Ba la mật.
Đó là Bồ tát an trụ hạnh an trụ tối thắng của Bát nhã Ba
la mật. “Nếu đại Bồ tát có khả năng an trụ vững chắc hạnh an trụ tối thắng Bát
Nhã thì có khả năng tu đầy đủ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát
nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật không điên đảo, dùng
tâm Nhất thiết trí mà tu lục Ba la mật, lại đem công đức tu các pháp ấy ban cho
tất cả hữu tình cùng hưởng như nhau, rồi hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, thì
đó là đại Bồ tát có khả năng tu hành chơn chính Bát nhã Ba la mật, lại có đủ
khả năng tu đầy đủ sáu Ba la mật”.
Đây là một phẩm rất ngắn nhưng giáo lý quá thậm thâm, rất
khó hành. Kinh nói: “Chỉ khi nào đại Bồ tát tu hành Bát Nhã đến chỗ thậm
thâm, thì khi ấy đại Bồ tát tuy tu hành Bát Nhã nhưng chẳng thấy Bát Nhã có sở
hành; lại cũng chẳng thấy pháp năng hành Bát Nhã. Lúc đại Bồ tát tu hành đến
chỗ thậm thâm Bát Nhã, lúc ấy đại Bồ tát tuy tu hành tịnh lự, tinh tấn, an
nhẫn, tịnh giới, bố thí nhưng chẳng thấy có sở hành tịnh lự cho đến bố thí; lại
cũng chẳng thấy có pháp năng hành tịnh lự cho đến bố thí; lại cũng chẳng thấy
có “cái thấy”.
Tu hành Bát Nhã đến chỗ thậm thâm, thời chẳng thấy sở hành
của Bát Nhã, chẳng thấy người hành Bát Nhã, cũng lại chẳng thấy có “cái thấy”.
Đó là hành như vô sự, vô đạo hành là hành Bát nhã Ba la mật. Vì vậy, quyển cuối
cùng của ĐBN là quyển 600, Phật bảo: 1. Không thấy không biết, 2. Không dính
mắc là không trói buộc, 3. Không sở duyên, không sở trụ là không sở hành và 4.
Không hành, không chấp cũng không trụ. Tất cả giáo pháp đó là chỗ thậm thâm đối
với hành giả Bát nhã Ba la mật.
---o0o---