XVI. PHẨM
TÁN THÁN.
Tiếp theo
phần giữa quyển 573, Hội thứ VI, ĐBN.
(Tương đương với phẩm 15: Khen Ngợi, Kinh TTVBN)
Tóm lược:
Bấy giờ, đại Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi
liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ chân Phật, kéo y che vai trái, gối phải quỳ
sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật:
- Công đức của Như Lai thật là hiếm
có, không gì sánh bằng, không thể nghĩ bàn. Chư Phật ba đời đều không có khác.
Nếu được thấy Như Lai hoặc nghe công đức của Ngài thì loài hữu tình này cũng
khó nghĩ bàn. Lại một lần nữa, hôm nay con được thấy Phật chuyển xe pháp lớn,
thật là điều chưa từng có, nên hân hoan vui mừng.
Nói lời này rồi, đại Bồ tát liền bay
lên hư không cao bằng 7 cây Đa la, chắp tay khen:
Tất cả loài hữu tình,
Chỉ Phật là tối tôn.
Không có ai sánh bằng,
Huống lại có người hơn.
Ngã và pháp đều Không,
Diệu lý Vô đẳng đẳng.
Chỉ Phật Thế Tôn ta,
Sánh bằng Vô đẳng đẳng.
Phiền não và tập khí
Đều hết hẳn không còn,
Biết được tất cả pháp
Đều hoàn toàn rõ ràng,
Hoặc trí hoặc thuyết pháp
Không ai sánh bằng Phật.
Cõi Tam thiên đại thiên,
Chỉ Phật là tối tôn.
Mười lực, vô úy thảy,
Thật có chẳng hư dối.
Đế thích cùng Phạm vương,
Thảy đều không thể bằng.
Đại ân đức Thế Tôn,
Thấm khắp các hữu tình.
Việc này khó nghĩ bàn,
Nhất định không ai bằng
Thường đem tuệ vi diệu
Và phương tiện thiện xảo,
Giáo hóa các hữu tình,
Khiến đều được lợi vui.
Khi ấy, trong hội có một Thiên tử tên là Diệu Sắc, liền từ
chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo y che vai trái(1), gối phải quỳ sát
đất, chắp tay hướng Phật, dùng kệ khen:
Có kẻ nói thế gian ngang Phật,
Lời ấy là hư dối chẳng thật.
Nếu nói Pháp vương rất tối tôn,
Lời này là chắc thật chẳng dối.
Những hàng trời người đang vấn nạn,
Không ai bẻ được Đại sư ta.
Thiện Thệ hàng ma dẹp ngoại đạo,
Dẫn dắt thế gian đến giải thoát.
Bốn biện thanh tịnh nói không cùng,
Thuốc diệu Cam lồ ban hữu tình.
Quán khắp các pháp trí vô ngại,
Tất cả sát na chẳng giảm mất.
Bình đẳng đại bi xem hữu tình,
Tâm luôn thanh tịnh, đời chẳng nhiễm.
Biết rõ hoàn toàn căn, dục, tánh,
Tùy sự thích nghe mà ứng nói.
Phiền não khác nhau chẳng phải một,
Chỉ bày vô lượng môn đối trị.
Duy Phật khéo nói nhân duyên kia,
Luôn vì lợi lạc chúng hữu tình.
Gặp Phật nghe pháp chẳng chứng Thánh,
Hữu tình như thế thật khó độ.
Đại danh Như Lai phải khát ngưỡng,
Kẻ nào được thấy lợi vô hạn.
Phật trí luôn làm tâm thanh tịnh,
Được nghe chánh pháp khỏi sanh tử.
Nghe danh hiệu Phật điềm lành lớn,
Thường niệm Thế Tôn luôn hỷ lạc.
Phát tâm hướng Phật sanh trí tuệ,
Như lời dạy tu thành chủng trí.
Giới phẩm thanh tịnh không bẩn đục.
Tĩnh lự đệ nhất, tâm bừng sáng.
Trí tuệ tối thắng khó khuynh động,
Biển pháp thanh tịnh như cam lồ.
Tất cả hữu tình ưa buông lung.
Chư Phật chuyên tịnh, lìa thế gian.
Thương yêu hữu tình như con một,
Ơn đức sâu dày không đền được.
Trước nói pháp phá giặc phiền não,
Sau dẹp thiên ma quân huyễn hóa.
Thế Tôn đã nói lỗi ba cõi,
Rộng bày vô lượng đức Niết bàn,
Trăm ngàn đại kiếp khó được nghe,
Nên nay con chí thành tán lễ.
Trong hội lại có một vị Thiên tử tên là Thiện Danh, liền
từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo y che vai trái, gối phải quỳ sát
đất, chắp tay hướng về Phật, nói kệ khen:
Như Lai bình đẳng hành đại từ,
Nếu có thể
dùng trí độ người.
Đề Bà Đạt
đa(2) được độ trước,
Huống gì đối
với hữu tình khác.
Nay con
chẳng muốn để luống qua,
Tu trì đại
hạnh đền ơn Phật.
Nếu chỉ tự
chứng Diệt vô lậu,
Đối ơn Phật
kia chưa đền được.
Nếu có tu
hành như Phật dạy,
Mới được gọi
là chơn Phật tử.
Phật chịu
khổ lâu vì hữu tình.
Ơn lớn vô
thượng khó trả được.
Đại từ khai
rõ chơn diệu pháp,
Khiến chúng
tự tu và độ người.
Nếu Phật
chẳng hiện ở thế gian,
Tất cả hữu
tình chịu khổ lớn,
Chỉ có ác
thú không trời, người,
Nghe toàn
các thứ âm thanh khổ.
Chịu khổ các
cõi không ai khỏi,
Do vì phiền
não buộc hữu tình.
Phật muốn
cởi bỏ các gút độc,
Ngược lại
buộc bằng dây đại bi.
Như Lai
ruộng phước lớn của đời,
Nương pháp
chánh tu lìa ác thú.
Nếu trái lời
Phật chẳng tu hành,
Nhất định
chẳng được sanh trời, người.
Nếu ai ác
tâm với đức Phật,
Hoặc chẳng
ưa nghe pháp thâm sâu,
Thì hữu tình
này thật đáng thương,
Quyết định ở
mãi chỗ tối tăm.
Như Phật Thế
Tôn trí tự biết,
Loài kia Như
Lai mới hiểu rõ.
Trí Phật
chẳng phải dễ so lường,
Cúi đầu đảnh
lễ mười phương Phật,
Vô úy, trí,
lực, pháp bất cộng,
Chỉ Phật Thế
Tôn có đầy đủ.
Tướng hảo
trang nghiêm, hương vi diệu,
Người xem
không chán, vượt các sắc.
Ba môn khai
mở chẳng tạm dứt.
Hoa Phật
thanh tịnh, nay con lễ.
Duy Phật
hiểu đúng Vô thượng giác,
Vĩnh viễn ra
khỏi các hiểm nạn.
Phật là đệ
nhất bậc Vô thượng,
Cúi đầu quy
mạng đấng Lưỡng túc(3).
Phật đem
công đức nước chánh pháp,
Rửa trừ sạch
hết các cấu uế.
Thế Tôn xưa
nay sạch trong ngoài,
Con nay đảnh
lễ thân chơn tịnh.
Lúc này, đại Phạm vương chủ cõi Kham Nhẫn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh
lễ chân Phật, kéo y che vai trái, gối phải quì sát đất, chấp tay hướng Phật,
dùng kệ khen:
Như Lai đầy đủ thắng phước tu
Lợi lạc hữu
tình chẳng tạm ngưng,
Thường rưới
Cam lồ cứu đói khát.
Con nay cúi
đầu làm lợi người.
Thế gian
Người khả kính hơn hết.
Tất cả loài
kia đến cúng Phật
Đầy đủ các
thiện, hết các ác.
Con nay kính
lạy bậc Vô đẳng.
Vì muốn cứu
vớt các hữu tình,
Chẳng còn
hạnh nào không tu học.
Vượt khỏi
sanh tử được an vui.
Con nay đảnh
lễ đấng cứu thế,
Lễ lạy thân
sắc vàng vi diệu,
Lễ lạy bậc
thuyết pháp cam lồ,
Lễ lạy trí thanh
tịnh không bẩn,
Lễ lạy tất
cả rừng công đức.
Bấy giờ, Phật bảo đại Phạm thiên
vương:
- Lành thay! Lành thay! Như điều
ngươi khen Như Lai là thật chẳng phải hư dối. Vì sao? Vì trong vô lượng kiếp,
chư Phật Thế Tôn đã tu tập nhiều loại phước đức trí tuệ, do đó quả vị hoàn toàn
đầy đủ. Vì sao? Vì Như Lai đầy đủ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh
lự, Bát nhã Ba la mật. Ba nghiệp thân, ngữ, ý đều thanh tịnh, nên thông suốt
được chơn như thật tế, vì trụ thật tế nên nói ra điều gì chẳng hư dối.
Khi ấy, đại Phạm thiên vương đảnh lễ chân Phật, chắp tay cung kính, bạch Phật:
- Cúi xin Thế Tôn dùng năng lực thần
thông làm cho Bát nhã Ba la mật này trụ lâu ở thế gian để làm lợi lạc cho tất
cả.
Phật bảo đại Phạm thiên vương:
- Tất cả Như Lai trong mười phương
ba đời đều dùng đại thần thông, cùng chung hộ niệm Bát Nhã thâm sâu để trụ lâu
ở thế gian, làm lợi lạc cho tất cả. Thiên ma, Phạm chí, ngoại đạo, Sa môn đều
không thể phá diệt và gây trở ngại. Vì sao? Vì Ta nhớ quá khứ có Phật tên là
Bảo Nguyệt Như Lai, đầy đủ mười hiệu. Nước tên Vô Hủy, kiếp tên Hỷ Tán. Phật
kia có hai đệ tử Bí sô làm đại pháp sư, khéo thuyết giáo pháp thâm sâu. Một:
Tên là Trí Thịnh, hai: Tên là Đế Thọ, thường theo Phật kia chuyển xe chánh
pháp. Trải qua một kiếp tuyên thuyết Bát Nhã thâm sâu này, có trăm ngàn ức
chúng ma cõi Tam thiên đại thiên đều được giáo hóa phát Bồ đề tâm. Vì thế nên
các Thiên ma không có sức phá diệt và cản trở. (Q.573, ĐBN)
Đại Bồ tát
Tịch Tĩnh Tuệ liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo y
che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bảo Nguyệt Như Lai
trụ ở chỗ nào? Vẫn còn trụ ở đời hay đã nhập Niết bàn rồi?
Thế Tôn bảo Tịch Tĩnh Tuệ:
- Thiện nam tử! Cách phương Đông hơn
mười ngàn ức thế giới chư Phật, đã từng có thế giới tên là Vô Hủy. Trong thế
giới ấy, Như Lai thọ một vạn kiếp. Ở thế giới ấy, Phật thường thuyết Bát Nhã
thâm sâu này. Các Thiên ma và ngoại đạo v.v... không thể làm chướng ngại Kinh
điển này và đều phát tâm quả vị Vô Thượng Bồ đề. Bí sô Trí Thịnh nay chính là
Mạn Thù Thất Lợi. Bí sô Đế Thọ nay là Thiên vương Tối Thắng. Hai vị Bồ tát này
đã dùng các phương tiện thiện xảo ủng hộ Bát Nhã làm cho trụ lâu ở đời. Mười
phương cõi Phật nếu có thuyết Bát Nhã này thì hai vị Bồ tát ấy liền đến nghe
nhận. Như ngày nay, Ta thuyết pháp môn này, phóng đại quang minh, tìm theo ánh
quang minh đến đây vân tập. (Q. 573, ĐBN)
Thích nghĩa:
(1).
Kéo áo che vai trái hay trật (chệch) áo chìa vai phải gần như nhau, tuy nhiên
nói cho đúng thì phải trật áo chìa vai phải. Vì theo tục lệ khi xưa bất cứ quan
dân dù là đại thần trong triều đình khi gặp Phật thường hôn chân Phật và trật
áo chìa vai phải để tỏ lòng khiêm hạ đối với Phật. Đa số bản dịch đều dịch là “kéo
y che vai trái”, tuy dịch như vậy không
có gì sai nhưng không nói đúng với phong tục khi xưa “kéo áo chìa vai phải hay
trật áo để lộ vai phải”.
(2). Đề Bà
Đạt Đa: (提婆達多) Phạm, Pàli: Devadatta. Cũng gọi Đề Bà Đạt
Đâu, Đế Bà Đạt Đa, Địa Bà Đạt Đa. Hoặc gọi là Điều Đạt. Gọi tắt: Đề Bà Đạt Đa.
Hán dịch: Thiên Nhiệt, Thiên Thụ, Thiên Dữ. Vị Tỷ khưu xấu ác, phạm tội ngũ
nghịch, phá hoại Tăng đoàn, đối địch với Phật. Đề Bà Đạt Đa là con vua Hộc Phạn
chú của Phật (cũng có thuyết cho là con của Cam lộ Phạn vương, Bạch Phạn vương
hoặc là con của trưởng giả Thiện Giác). Thuở nhỏ, ông học tập cùng Thái tử Tất
Đạt Đa, Nan đà, tài năng ông xuất sắc nên thường tranh đua với Thái tử Tất Đạt
Đa. Sau khi Thái tử Tất Đạt Đa thành Phật, ông theo Phật xuất gia, trong khoảng
12 năm đầu, ông dốc lòng tu đạo, siêng năng tinh tiến. Sau vì không được Thánh
quả nên ông thoái tâm và muốn học thần thông để cầu lợi dưỡng, đức Phật không
cho, Đề Bà liền đến chỗ Thập Lực Ca Diếp học thần thông, được Thái tử A Xà Thế
của nước Ma Yết Đà cúng dường. Do đó, Đề Bà càng kiêu mạn hơn, muốn thay Phật
lãnh đạo Tăng đoàn. Sau đó, Đề bà cầm đầu 500 đồ chúng thoát ly Tăng đoàn, tự
xưng Đại sư, đặt ra năm pháp và cho đó là con đường tới Niết bàn mau chóng. Đây
là việc phá hòa hợp Tăng. Về 5 pháp do Đề Bà lập ra, các bộ luận ghi chép không
giống nhau. Cứ theo Hữu bộ tỳ nại da Phá Tăng sự quyển 10 chép, thì 5 pháp ấy
là: Không ăn váng sữa, không ăn thịt cá, không ăn muối, khi may ca sa để nguyên
tấm vải không cắt nhỏ ra, ở nơi xóm làng chứ không ở chỗ vắng vẻ. Còn theo luật
Thập tụng quyển 4, quyển 36, thì 5 pháp là: - Trọn đời mặc áo vá. - Trọn đời đi
xin ăn. - Trọn đời ngồi nơi đất trống. - Trọn đời không ăn thịt cá. - Trọn đời
chỉ ăn một bữa. Ngoài ra, về việc giải thích các pháp nghĩa, Đề bà cũng nêu ra
những dị thuyết. Từ đó, ở thành Vương Xá, nước Ma Yết Đà, Đề Bà có giáo đoàn
độc lập, được Thái tử A Xà Thế ủng hộ nên thế lực mỗi ngày một lớn mạnh, Phật
đã thường răn bảo các Tỷ khưu chớ tham lợi dưỡng của Đề Bà. Về sau, Đề bà xúi
giục A xà thế giết cha, để cướp ngôi, A xà thế bèn bắt cha giam trong ngục tối
rồi lên làm vua. Đồng thời, Đề bà cũng âm mưu ám hại Phật để lên làm Phật, nên
ông ta lên núi Kì xà lăn tảng đá lớn xuống nhằm giết Phật, nhưng việc không
thành và Phật chỉ bị thương ở chân. Lại thừa lúc Phật vào thành Vương xá, Đề bà
cho thả voi điên ra để hại Phật, nhưng voi vừa gặp Phật liền qui phục nên âm
mưu cũng bị thất bại. Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên khuyên nhủ đồ
chúng Đề Bà trở về với Tăng đoàn của đức Phật, vua A Xà Thế cũng được đức Phật
giáo hóa, bèn sám hối qui y. Đề Bà vẫn không bỏ tâm ác, đánh đập Tỷ khưu ni
Liên Hoa Sắc đến chết; lại bôi thuốc độc vào 10 móng tay mình định nhân lúc lễ lạy
Phật để hại Phật, nhưng chân Ngài khi ấy cứng chắc như đá, còn 10 đầu ngón tay
của Đề bà thì bị xây xát, chất độc thấm vào máu khiến Đề Bà bỏ mạng. Trong Kinh
gọi 5 việc: Phá hòa hợp tăng, làm thân Phật chảy máu, thả voi điên, giết Tỷ
khưu ni Hoa Sắc, 10 móng tay bôi chất độc là Đề bà ngũ nghịch và gọi riêng 3
việc: Phá Tăng, hại Phật, giết Tỷ khưu ni là Tam nghịch. Trong các Kinh điển
phần nhiều có nói vì những việc làm trái với đạo lý trên đây nên sau khi chết,
Đề Bà bị rơi vào địa ngục. Cứ theo điều Thất La Phạt Tất Để Quốc trong Đại
Đường Tây Vực Ký quyển 6, thì về phía Đông chỗ nền cũ của Tinh xá Kỳ Viên, Ngài
Huyền Trang còn thấy cái hố sâu nơi mà Đề Bà rơi xuống khi còn sống. Lại cứ
theo điều Yết La Noa Tô Phạt Thích Na Quốc trong Đại Đường Tây Vực Ký quyển 10
và Cao Tăng Pháp Hiển Truyện chép, thì khi các Ngài Pháp Hiển, Huyền Trang du
học ở Ấn độ, lúc đó, ở Ấn độ vẫn còn có người tuân hành theo lời di huấn của Đề
Bà Đạt Đa. Ngoài ra, cứ theo Kinh Tăng Nhất A hàm quyển 47 chép, thì đức Phật
bảo Đề Bà Đạt Đa sẽ phải chịu khổ địa ngục trong một kiếp và được thọ ký thành
Bích Chi Phật. Kinh Tát Đàm Phân Đà Lợi và phẩm Đề Bà Đạt Đa trong Kinh Pháp
Hoa quyển 4 nói, ở đời quá khứ Đề Bà là thiện tri thức, từng thuyết giảng Kinh
điển Đại thừa cho đức Thích tôn nghe, nhờ thế mà đức Thích tôn được thành Phật.
Trong Kinh còn nói, sau vô lượng kiếp ở đời vị lai, Đề Bà Đạt Đa sẽ thành Phật
hiệu là Thiên Vương Như Lai. Tóm tắt thích nghĩa của Từ điển Phật Quang.
(3). Lưỡng
túc tôn: Nói một cách vắn tắt có nghĩa là bậc tôn quý có đầy đủ phước đức và trí tuệ. Lưỡng túc tôn cũng chính là danh hiệu Phật. Phật Quang từ
điển tán rộng lưỡng túc tôn (兩足尊) như sau:
Lưỡng túc
tôn: Phạm: Dvipadottama, Pàli: Dvipada-seỉỉha.
Cũng gọi Vô thượng lưỡng túc tôn, Nhị túc tôn, như sau: Tôn hiệu của đức Phật,
vì Ngài có đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, thành tựu các pháp vô học vô lậu như Tận
trí, Vô sinh trí và các pháp bất cộng như 10 lực, 4 vô úy, nên tôn hiệu này có
2 nghĩa: 1- Phật là bậc tôn quí nhất trong các loài chúng sinh 2 chân ở cõi
người và cõi trời. Cứ theo phẩm Báo ân trong Kinh Đại thừa bản sinh tâm địa
quán quyển 2 và luận Đại trí độ quyển 27, thì Phật là bậc nhất trong tất cả các
loài chúng sinh không chân, 2 chân, 4 chân, nhiều chân, có sắc, không sắc, có
tưởng, không tưởng, chẳng phải có tưởng, chẳng phải không tưởng v.v... 2- Lưỡng
túc (đủ cả 2) ví dụ cho quyền và thực, giới và định, phúc và tuệ, giải và hành
v.v..., đức Phật có đầy đủ lưỡng túc này. [X. phẩm Phương tiện Kinh Pháp hoa
Q.1; phẩm A xà lê chân thực trí trong Kinh Đại nhật Q.5; luận Du già sư địa
Q.83; Pháp hoa huyền tán Q.3; Kim quang minh văn cú ký (hội bản) Q.3; Sa di thụ
giới văn trong Thiền uyển thanh qui Q.9].
Sơ giải:
Phẩm này các
Bồ tát, các Thiên tử Phạm vương như: Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi hay còn gọi là Văn Thù Sư Lợi, Thiên tử tên là Diệu Sắc, Thiên tử tên là Thiện Danh, đại Phạm vương chủ cõi Kham Nhẫn đều xướng
kệ ca tụng công đức Thế Tôn và sau cùng là các Bồ tát khác “xin Thế Tôn dùng
năng lực thần thông làm cho Bát nhã Ba la mật này trụ lâu ở thế gian để làm lợi
lạc cho tất cả”.
Nội dung
phẩm này chỉ có thế, ai đọc cũng có thể hiểu. Nên không cần bàn thêm!
---o0o---