VII. PHẨM
"BÌNH ĐẲNG"
Phần đầu
quyển 570, Hội thứ VI, ĐBN.
(Tương đương với phẩm 6: Bình Đẳng, Kinh TTVBN)
Gợi ý:
Đây cũng là
thượng phẩm trong các phẩm thuộc Đại Bát Nhã. Nếu thâm nhập phẩm này sẽ hiểu
chân như, pháp giới, pháp tánh, thật tế... thì được giác ngộ. Phẩm này đã được
ĐBN giới thiệu rải rác trong 5 Hội đầu. Tuy nhiên, ở đây Phật trực tiếp giảng
dạy Thắng Thiên Vương ý nghĩa thâm sâu và mầu nhiệm về giáo lý này. Và cũng nhờ
tu giáo lý này nên Phật mới được đầy đủ 10 thân Như Lai. Đồng thời phẩm này
cũng giúp ích trong việc hóa độ cho những ai tu phạm hạnh được vuông tròn.
Tóm lược:
Quyển thứ
570
(Tất cả danh sắc tự tánh tịch tĩnh, không sanh không
diệt
nên gọi là bình
đẳng)
Bấy giờ, Tối Thắng từ chỗ ngồi đứng
dậy, kéo phủ áo che vai bên trái, quì gối phải chấm đất, chắp tay
cung kính bạch Phật:
- Bạch đức Thế Tôn! Như đức Thế Tôn
dạy, pháp tánh bình đẳng. Vậy thế nào là bình đẳng? Những pháp nào gọi là bình
đẳng?
Phật dạy Tối Thắng:
- Thiên vương nên biết! Các pháp quán bình đẳng, tự tánh của nó tịch tĩnh, không sanh không
diệt, nên gọi là bình đẳng. Tất cả phiền não hư vọng phân biệt, tự tánh
tịch tĩnh, không sanh không diệt, nên gọi là bình đẳng. Danh tướng phân biệt,
tự tánh tịch tĩnh, không sanh không diệt, nên gọi là bình đẳng. Các điên đảo
diệt, không khởi phan duyên nên gọi là bình đẳng. Tâm năng duyên vô minh, hữu
ái diệt; vì si ái diệt, hoàn toàn tịch tĩnh, không còn chấp trước ngã và ngã sở
nên gọi là bình đẳng. Vì ngã và ngã sở chấp vĩnh viễn không còn nên danh sắc
tịch tĩnh, gọi là bình đẳng. Vì danh sắc diệt nên biên kiến không sanh, gọi là
bình đẳng. Vì thường đoạn diệt nên thân kiến tịch tĩnh, gọi là bình đẳng.
Thiên vương phải biết: Năng chấp sở chấp tất cả phiền
não chướng thiện ác ấy đều nương thân
kiến mà sanh. Nếu các Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật phương tiện khéo
léo năng diệt được thân kiến, tất cả phiền não và tùy miên đều vắng lặng, khởi
muốn cũng dứt. Ví như đại thọ bị bật gốc rễ thì cành lớn cành nhỏ đều khô chết.
Như người không đầu, mạng căn đều dứt. Tùy miên phiền não cũng lại như thế, nếu
dứt thân kiến các thứ kia đều diệt hẳn. Nếu
người quán được các pháp vô ngã thì năng chấp sở chấp đều vắng lặng hẳn. (Q.570, ĐBN)
Tối Thắng lại bạch Phật:
- Bạch đức Thế Tôn! Làm sao ngã kiến
khởi lại làm chướng ngại chân lý?
Phật bảo Tối Thắng:
- Thiên vương nên biết! Đối với năm thủ uẩn, vọng chấp cho là ngã
thì tức khởi ngã kiến. Pháp chân thực tự tính bình đẳng, không có nắm bắt
và cái được nắm bắt, trái với ngã kiến, nên không gọi là chướng (ngã kiến làm chướng đạo mới gọi là chướng).
Thiên vương nên biết! Thông đạt bình
đẳng, gọi là quán Không chơn thực. Không, Vô tướng, Vô nguyện, tự tính tịch
tĩnh, không sinh, không diệt, không nắm bắt, không dính mắc, xa lìa ngã kiến,
gọi là bình đẳng.
Thiên vương nên biết! Nói ngã là
không đến không đi, không có chơn thật, là pháp phân biệt hư vọng, từ vọng
sanh, cũng là hư vọng. Nếu các Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng phương
tiện thiện xảo quán pháp như vậy thì lìa xa hư vọng, nên gọi là tịch tĩnh bình
đẳng.
Thiên vương nên biết! Năng chấp, sở
chấp gọi là lửa, xa lìa gọi là tịch tĩnh, hoặc chướng là lửa, xa lìa là tịch
tĩnh. Nếu các Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo,
như thật biết năng chấp, sở chấp và các phiền não diệt thì thiện pháp tăng
trưởng. Đoạn trừ năng chấp, sở chấp và các phiền não, nhưng không thấy sanh
cũng không thấy diệt, nên gọi là bình đẳng. Tu hết thảy chủng loại Ba la mật xa
lìa ma chướng, nhưng không thấy có tu cũng không thấy có lìa nên gọi là bình
đẳng.
(Bồ tát phải quán ngoại duyên như thế nào để có tâm
bình đẳng?)
Bồ tát thường duyên Bồ đề phần pháp,
không khởi tâm Thanh Văn, Độc giác mà đối với các Bồ đề phần pháp, Thanh Văn,
Duyên Giác, không thấy tướng khác nhau, gọi là bình đẳng. Tâm duyên Nhất thiết
trí, không có ngừng nghỉ, thường tu hạnh Không; vì lực Đại bi không bỏ chúng
sinh, gọi là bình đẳng.
Thiên vương nên biết! Nếu các Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo, đối với tất cả pháp,
tâm duyên tự tại, tâm duyên vô tướng mà tu Bồ đề, không thấy vô tướng và Bồ đề
khác nhau, nên gọi là bình đẳng. Tâm duyên vô nguyện, không bỏ tam giới, không
thấy vô nguyện và tam giới khác nhau, nên gọi là bình đẳng. Quán thân bất tịnh,
tâm trụ thanh tịnh. Quán hành vô thường, tâm duyên sanh tử mà không chán bỏ.
Quán hữu tình khổ, trụ Niết bàn vui. Quán pháp vô ngã, khởi tâm đại bi đối với
các loài hữu tình, thường vì hữu tình mà nói thuốc bất tịnh, nhưng không thấy
bệnh tham; thường nói đại từ nhưng không thấy bệnh sân; thường nói duyên khởi
nhưng không thấy bệnh si. Vì những kẻ bệnh như vậy mà nói thuốc vô thường,
nhưng không thấy các bệnh và vô thường khác nhau. Như vậy, Bồ tát hành sâu Bát
nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo, đối với tất cả pháp, tâm duyên tự
tại, duyên pháp ly tham là giáo hóa Thanh văn, duyên pháp ly sân là giáo hóa
Độc giác, duyên pháp ly si là giáo hóa Bồ tát. Duyên tất cả sắc, vì nguyện được
diệu sắc thanh tịnh vô sở đắc của Như Lai. Duyên tất cả âm thanh, vì nguyện
được âm thanh vi diệu vô sở đắc của chư Phật. Duyên tất cả hương, vì nguyện
được giới hương thanh tịnh vô sở đắc của chư Phật. Duyên tất cả vị, vì nguyện
được tướng đại sĩ phu bật nhất trong vị vô sở đắc của Như Lai. Duyên tất cả
xúc, vì nguyện được bàn tay mềm mại vô sở đắc của Như Lai. Duyên tất cả pháp,
vì nguyện được tâm tịch tĩnh vô sở đắc của Như Lai. Tâm duyên bố thí, vì muốn
thành tựu thân tướng hảo của Phật. Tâm duyên tịnh giới, vì muốn được quốc độ
cõi Phật thanh tịnh. Tâm duyên an nhẫn, nguyện được thân tịnh, quang minh, âm
thanh Đại phạm của Như Lai. Tâm duyên tinh tấn, vì nguyện độ hữu tình thường
không bị gián đoạn. Tâm duyên tĩnh lự, vì muốn thành tựu thần thông quảng đại.
Tâm duyên Bát Nhã, vì muốn đoạn trừ tất cả phiền não vọng kiến. Tâm duyên đại
từ bình đẳng vô ngại, vì muốn các hữu tình đều được an lạc. Tâm duyên đại bi,
vì muốn hộ trì chánh pháp, cứu độ hữu tình thoát khỏi khổ lớn sanh tử. Tâm
duyên đại hỷ, vì muốn được vô ngại tự tại nói pháp, làm vui tất cả hữu tình.
Tâm duyên đại xả, vì không còn kiến chấp hữu tình, phiền não, trói buộc, tùy
miên.
Thiên vương nên biết! Nếu các Bồ tát
hành phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật sâu xa, không thấy hai việc thì
gọi là hành bình đẳng. Duyên tứ nhiếp pháp vì hóa độ hữu tình. Duyên lỗi keo
kiệt ganh ghét, vì bỏ tài sản, tu hành bố thí. Duyên lỗi phá giới, vì trụ tịnh
giới. Duyên lỗi sân giận, vì muốn được an nhẫn. Duyên lỗi biếng nhác, vì muốn
thành tựu đại lực tinh tấn của Như Lai. Duyên lỗi tán loạn, vì muốn đắc định
thù thắng tịch tĩnh của Như Lai. Duyên lỗi ác tuệ, vì muốn thành tựu trí tuệ vô
ngại của Như Lai. Duyên pháp nhị thừa, vì muốn thành tựu Đại thừa vô thượng.
Duyên các cõi ác, vì muốn cứu độ tất cả hữu tình. Duyên các cõi thiện, vì muốn
hữu tình biết quả của chư thiên và loài người đều sẽ tan hoại. Duyên các hữu
tình, vì muốn hữu tình thông đạt tất cả chỉ là hư vọng, không bền chắc. Duyên
tùy niệm Phật, vì muốn thành tựu định thù thắng trợ đạo. Duyên tùy niệm Pháp,
vì muốn thông đạt các pháp bí tạng. Duyên tùy niệm Tăng, vì muốn hòa hợp chúng,
tâm không thối chuyển. Duyên tùy niệm xả, vì không ái trước. Duyên tùy niệm
giới, vì muốn được giới thanh tịnh. Duyên tùy niệm thiên, vì muốn thành tựu Bồ
đề, chư thiên tán thán. Duyên tướng tự thân, vì muốn được thân Phật. Duyên
tướng tự ngữ, vì muốn được Phật ngữ. Duyên tướng tự ý, vì muốn được tâm bình
đẳng của chư Phật. Duyên pháp hữu vi, vì muốn thành tựu Phật trí. Duyên pháp vô
vi, vì muốn được tịch tĩnh.
(Thấy xấu thì biết tốt, tùy cơ giáo hóa chúng sanh)
Thiên vương nên biết! Các Bồ tát
hành phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật, không có luống qua một tâm một
hạnh mà chẳng hồi hướng Nhất thiết trí. Bồ tát hành phương tiện thiện xảo Bát
nhã Ba la mật như thế, tuy duyên khắp các pháp nhưng không chấp trước, cho nên gọi là phương tiện thiện xảo. Quán tất cả
pháp đều hồi hướng đến đại Bồ đề. Giống như Tam thiên đại thiên thế giới sanh
ra các vật, không một vật nào mà không được hữu tình thọ dụng. Cũng vậy, các
cảnh giới mà Bồ tát hành phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật duyên vào,
không có cảnh giới nào hồi hướng Bồ đề mà không lợi ích. Ví như các sắc, không
có sắc nào mà không có nhân bốn đại chủng. Cũng vậy, các cảnh giới mà Bồ tát
duyên vào, không có một pháp nào mà không hướng đến Bồ đề. Vì sao? Vì Bồ tát tu hành đều do ngoại duyên mà
được thành tựu. Nghĩa là các Bồ tát
thấy nhờ kẻ keo kiệt mà thành tựu bố thí Ba la mật; nhờ thấy kẻ bội ơn mà thành
tựu tịnh giới Ba la mật; nhờ thấy kẻ tánh ác mà thành tựu an nhẫn Ba la mật;
nhờ thấy kẻ biếng nhác mà thành tựu tinh tấn Ba la mật; nhờ thấy kẻ tán loạn mà
thành tựu tĩnh lự Ba la mật; nhờ thấy kẻ ngu si mà thành tựu Bát nhã Ba la mật.
Như các hữu tình làm tổn não Bồ tát,
Bồ tát nhờ đó chiết phục sân giận. Như thấy người tu hành thiện pháp hướng đến
Bồ đề, Bồ tát sanh tâm xem như con mình. Như thế, Bồ tát tán thán, không ưa chê
bai, không sanh sân giận. Thấy người không vui, Bồ tát khởi tâm đại từ. Thấy
người đau khổ, Bồ tát khởi tâm đại bi. Thấy người an vui, Bồ tát khởi tâm đại
hỷ. Thấy người không khổ, Bồ tát khởi tâm đại xả. Vì người khó giáo hóa, Bồ tát
phát khởi Xa ma tha (chỉ). Vì người
dễ giáo hóa, Bồ tát phát khởi Tì bát xá na (quán).
Vì người tín hạnh, Bồ tát phát khởi trí tri ân. Nếu thấy hữu tình ác duyên bên
ngoài mạnh hơn thiện duyên bên ngoài thì Bồ tát khuyên nên thủ hộ. Nếu thấy
người khỏe mạnh, đầy đủ năng lực thì Bồ tát dùng đủ loại phương tiện dạy cho họ
lãnh thọ giáo pháp. Nếu thấy hữu tình trí tuệ khai ngộ thì Bồ tát tuyên thuyết
pháp yếu sâu xa cho họ. Nếu thấy hữu tình giảng rộng mới ngộ thì Bồ tát nói các
pháp theo thứ lớp. Nếu các hữu tình chấp trước văn tự thì Bồ tát nói cú nghĩa
để cho họ hiểu. Nếu người đã học thiền chỉ thì Bồ tát dạy thiền quán vi diệu.
Nếu người đã học thiền quán thì Bồ tát dạy thiền chỉ vắng lặng. Nếu người chấp
chặt trì giới thì Bồ tát nói địa ngục cho họ, nếu trì giới mà không chấp thì
không nói điều này. Nếu người chấp văn tuệ thì Bồ tát dạy tư tuệ. Nếu người
chấp đẳng trì thì Bồ tát dạy Bát Nhã. Nếu có người ưa thích A lan nhã thì Bồ
tát dạy pháp tâm viễn ly. Nếu có người thích nghe công đức của Phật thì Bồ tát
dạy cho họ nghe Thánh trí vô thượng.
Vì người tham dục, Bồ tát dạy pháp
bất tịnh. Vì người sân giận, Bồ tát dạy pháp từ bi. Vì người ngu si, Bồ tát dạy
pháp duyên khởi. Vì người đẳng phần, Bồ tát dạy các loại pháp, hoặc dạy pháp
bất tịnh, hoặc dạy pháp từ bi, hoặc dạy pháp duyên khởi. Nếu người đã điều phục
thì Bồ tát dạy giới thanh tịnh, định thù thắng, tuệ vi diệu cho họ. Với người
cần vào Phật thừa mới nhận sự giáo hóa thì Bồ tát nói Ba la mật theo thứ lớp
cho họ. Với người cần áp chế mới nhận sự giáo hóa thì Bồ tát trước phải bẻ gãy
ngôn từ của họ, sau mới nói pháp. Với người cần nghe nhiều ngôn từ mới nhận sự
giáo hóa thì Bồ tát nói nhân duyên thí dụ để cho họ được hiểu. Với người cần
nghe pháp sâu xa mới nhận sự giáo hóa thì Bồ tát nói Bát nhã Ba la mật, phương
tiện thiện xảo, vô ngã, vô pháp cho họ.
Với người
chấp thủ các kiến, Bồ tát nên nói pháp Không. Với người nhiều tầm tứ, Bồ tát
nói pháp vô tướng. Với người chấp thủ pháp hữu vi, Bồ tát nói pháp vô nguyện.
Với người chấp thủ các uẩn, Bồ tát nói pháp như huyễn. Với người chấp thủ các
cõi, Bồ tát nói pháp vô tánh. Với người chấp thủ các xứ, Bồ tát nói pháp như
mộng. Với người chấp thủ cõi Dục, Bồ tát nói sự thiêu đốt hừng hực. Với người
chấp thủ cõi Sắc, Bồ tát nói pháp hành khổ. Với người chấp thủ cõi Vô sắc, Bồ
tát nói các hành vô thường. Với hữu tình khó giáo hóa, Bồ tát tán thán Thánh
chủng. Với hữu tình dễ giáo hóa, Bồ tát nói pháp tĩnh lự và vô lượng tâm. Với
người nghe nói sanh thiên mới chịu sự giáo hóa thì Bồ tát nói pháp an lạc. Với
người nhờ nghe pháp Thanh văn mới chịu sự giáo hóa thì Bồ tát nói pháp Thánh
đế. Với người nhờ nghe pháp Độc giác mới chịu sự giáo hóa thì Bồ tát nói pháp
duyên khởi. Với người nhờ nghe pháp Bồ tát mới chịu sự giáo hóa thì Bồ tát nói
tâm thanh tịnh. Với người tu hạnh Bồ tát với pháp đại từ bi thì Bồ tát nói pháp
phước và tuệ. Với Bồ tát bất thối thì Bồ tát nói pháp tịnh độ. Với Bồ tát chỉ
còn một lần sanh nữa thì Bồ tát nói pháp nghiêm tịnh tòa Bồ đề. Với người cần
nghe Phật nói mới chịu sự giáo hóa thì Bồ tát nói trình tự nhiều lần.
Thiên vương nên biết! Bồ tát tu sâu
hành Bát nhã Ba la mật thanh tịnh như vậy, bằng phương tiện thiện xảo, đạt được
các tự tại, nói pháp lợi ích, không có lỗi hư rỗng.
Khi đức Thế Tôn nói pháp tự tại của
Bồ tát thì ba vạn trời, người đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, năm ngàn
Bồ tát đắc vô sanh nhẫn.
Bấy giờ, đức Thế Tôn liền mỉm cười.
Thường pháp của chư Phật mỉm cười như vậy thì từ miệng phóng ra vô lượng ánh
sáng đủ màu sắc: Xanh, vàng, đỏ, trắng và màu pha lê, chiếu khắp mười phương vô
biên thế giới, hiện bày việc hiếm có, rồi trở về chỗ Phật, nhiễu quanh ba vòng,
sau đó nhập vào đảnh Ngài.
Khi thấy tướng tốt lành ấy, trong
lòng Xá lợi Tử phân vân, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chệch y che vai bên trái,
quì gối phải chấm đất, chắp tay cung kính bạch Phật:
- Bạch đức Thế Tôn! Vì nhân duyên gì
mà Ngài hiện tướng tốt lành này?
Phật bảo Xá lợi Tử:
- Này Xá lợi Tử! Trong vô lượng, vô
số, vô biên đại kiếp quá khứ, vị trời Tối Thắng ấy đã từng ở chỗ chư Phật, tu
hành tất cả Ba la mật, vì các Bồ tát mà thủ hộ Bát Nhã Ba-la- mật. Do nhân
duyên đây, nên nay ông ta được gặp Như Lai, tiếp nhận Bát nhã Ba la mật, trải
qua vô lượng, vô số đại kiếp đời vị lai, tu tập tư lương Bồ đề vô thượng, sau
đó chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đầy đủ mười hiệu, tên Phật là Công Đức
Trang Nghiêm, cõi nước tên là Tối Cực Nghiêm Tịnh, kiếp tên là Thanh Tịnh. Cõi
ấy an lạc sung túc, dân chúng hưng thịnh đều là Bồ tát Tăng, không có chúng
Thanh văn. Đại địa cõi ấy do bảy báu trang nghiêm hợp thành, bằng phẳng như bàn
tay, được trang sức bởi các loại cỏ cây, hương hoa xinh đẹp, không có các đồi
núi gồ ghề, trang nghiêm bằng các loại cờ phướn lọng hoa. Cõi ấy có đô thành
lớn tên là Nan Phục, bên trên được bao phủ bằng lưới bảy báu, kim tuyến bao
quanh, linh vàng treo lơ lửng các góc. Ngày đêm sáu thời, trên không trung tấu
nhạc và tán rải các loại hương hoa vi diệu của cõi trời. Dân chúng quốc độ ấy
vui thích thọ lạc, thù thắng vi diệu hơn cả Thiên cung Tha hóa tự tại; trời,
người đến đi không ngăn ngại nhau, không có ba đường ác và tên gọi Nhị thừa.
Hữu tình cõi ấy chỉ cầu trí Phật. Phật ấy thường vì các đại Bồ tát tuyên thuyết
đủ loại pháp yếu thanh tịnh. Vô lượng, vô số, vô biên quyến thuộc Bồ tát cõi ấy
không có tà kiến chấp thủ, không có phá giới tà mạng, cũng không có đui, điếc,
câm, ngọng, gù lưng, khuyết căn… và các việc xấu ác. Thân của các vị ấy được
trang nghiêm bằng ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Cõi ấy, đức Như Lai
thọ tám tiểu kiếp, chúng trời, người không có ai chết yểu. Phật ấy có vô lượng
công đức như vậy. Nếu Phật muốn nói pháp thì trước hết phóng ánh sáng. Thấy ánh
sáng ấy, các chúng Bồ tát biết đức Thế Tôn sắp nói pháp, liền cùng nhau đến
nghe.
Khi ấy, chư thiên trải tòa Sư tử cho
Phật. Tòa ấy cao rộng trăm do tuần, trang nghiêm bằng đủ loại, cúng dường vô
lượng. Đức Thế Tôn thăng tòa, vì chúng mà thuyết pháp. Các Bồ tát ấy lợi căn
thông minh, nghe qua một lần là lãnh hội, lìa xa ngã và ngã sở, khi ứng niệm
thì các vật dụng, đồ ăn thức uống liền đến.
Lúc Phật nói pháp thọ ký Tối Thắng
thì năm vạn trời, người thân tâm vui vẻ, cùng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng
giác, đều nguyện đời vị lai sanh cõi Phật ấy.
Nghe Phật nói vậy, Tối Thắng vô cùng
vui mừng, phấn khởi không sao tả được, bay lên hư không khoảng bảy cây Đa la,
ba ngàn cõi biến động sáu cách, kĩ nhạc chư thiên không đánh tự kêu, tán rải
các loại hoa trời cúng dường Phật, đại Bồ tát và Thiên vương Tối Thắng.
Sau đó, Thiên vương Tối Thắng từ hư
không bay xuống, đảnh lễ chân Phật, rồi ngồi một bên(1).
Thích nghĩa:
(1). Xin đọc Tạng Thư Phật
Học(tangthuphathoc.net): Kinh “Thắng Thiên Vương Bát nhã Ba la mật”, Vương tử
Nguyệt Bà Thủ Na, người nước Ưu Thiền Ni, dịch Phạn ra Hán đời Trần. Linh Sơn
Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, dịch từ Hán sang Việt, có các mạng Phật học để hiểu
biết thêm.
Sơ giải:
1. Làm thế nào soi thấy các pháp bình đẳng?
Chúng ta
thường mộc mạc nghĩ rằng tất cả mặt nước của các lạch, ao hồ, sông ngòi, biển
cả… đều ngang nhau một mực, nên nói là bình đẳng. Hay nói bóng bảy như Phật:
Tất cả chúng sanh máu cùng đỏ, vị cùng mặn như nhau, đó là bình đẳng. Hay nghĩa
vụ và quyền lợi của mọi sắc dân, các chủng tộc ngang nhau thì gọi là bình đẳng.
Bình đẳng này chỉ có trên phương diện cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng
đồng dân tộc, là cái dễ thấy vì nằm bên ngoài. Vì nằm bên ngoài nên dễ thấy, dễ
hiểu dễ nói… Sống mà thấy biết như vậy và thực hành được như vậy là có trình
độ, có đạo đức hơn người.
Lên một tầng
nữa quán các pháp không sinh, không diệt, tự tánh vắng lặng. Do vậy, tất cả
phiền não, giả dối, phân biệt, chấp trước, không sanh không khởi, tự tánh vắng
lặng, nên nói là bình đẳng. Danh tướng hư vọng, các tưởng điên đảo, tâm phan
duyên, ái hành bị chặt đứt... si ái không chỗ nương, không chỗ bám. Ngã và ngã
sở không tồn tại thì danh sắc sẽ ngủ yên; danh sắc ngủ yên nên thân kiến, biên
kiến, kiến thủ lấy đâu sanh khởi. Thân kiến, biên kiến, kiến thủ chẳng thể sanh
khởi nên chấp đoạn, chấp thường không còn gốc rễ thì tâm thể được bình đẳng,
như như. Tất cả phiền não tương tục, năng thủ sở thủ, năng trước sở trước,
chướng ngại pháp lành đều nương vào thân kiến mà sinh trưởng. Diệt được thân kiến thì tất cả tạo tác và
kết sử đều đoạn dứt và vắng lặng, nên được bình đẳng. Như vậy, bệnh trong,
bệnh ngoài, cả hai không còn nữa thì pháp nhãn thanh tịnh, nên thấy chân như,
pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh…trở nên như như bất động thì thân ngữ ý
trở nên thanh tịnh. Nên ĐBN thường bảo tất cả mọi thứ (năng duyên-sở duyên) trở
nên tịch tĩnh nên nói là bình đẳng hay thanh tịnh.
Tất cả sai
trái, phải quấy bắt đầu từ ngã kiến, bị ngã kiến che thì chướng ngại chân lý. Đối với thân năm ấm, vọng chấp có ngã liền sinh ngã kiến. Nhưng pháp chân thật tự
tánh bình đẳng, như như, vốn không năng sở, chấp đắm. Chính do ngã kiến trái
ngược chánh giác nên gọi là chướng.
Sạch trong
sạch ngoài, không chỗ nương bám nên gọi là vắng lặng, tức gọi bình đẳng. Xa lìa
ngã kiến, thấu rõ bình đẳng, gọi là quán không, tức là Không, Vô tướng, Vô
nguyện. Quán như vậy là chân thật, tức biết ngã không đi, không đến, không có
phân biệt, tự tánh vắng lặng không sinh, không diệt, không thủ, không trước, xa
lìa ngã kiến gọi là bình đẳng.
Thực hành
Bát Nhã quán sát các pháp như vậy, xa lìa được hư vọng. Nên có thể biết như
thật đã đoạn trừ phiền não. Đoạn trừ nhưng chẳng có gì để đoạn trừ, vì không
thấy pháp để tu và không thấy pháp để xa lìa, tự nhậm xa lìa nên bình đẳng mà
được tự tại.
Đoạn Kinh của quyển 570, phẩm “Bình
Đẳng”, Hội thứ VI này, được xem là thậm thâm khi nói về “bình
đẳng tánh” trong thập nhị chân như, như sau:
- “Bạch đức Thế Tôn! Khi ngã kiến
khởi thì chướng ngại chân lý như thế nào?
Phật bảo Tối Thắng:
- Thiên vương nên biết! Đối với năm
thủ uẩn, vọng chấp cho là có ngã thì tức là khởi ngã kiến. Pháp chơn thật, tự
tánh của nó bình đẳng, không có năng chấp và sở chấp. Nếu ngã kiến trái nhau,
nên gọi là chướng ngại.
Thiên vương nên biết! Ngã kiến như
vậy không ở trong, không ở ngoài, không ở hai bên, đều không có chỗ trụ nên gọi
là tịch tĩnh, tức là bình đẳng viễn ly ngã kiến. Thông đạt bình đẳng, gọi là
chơn thật Không. Quán sát Không, vô tướng, vô nguyện này tự tánh tịch tĩnh
không sanh, không diệt, không thủ, không trước, xa lìa ngã kiến nên gọi là bình
đẳng.
Thiên vương nên biết! Nói ngã là
không đến không đi, không có chơn thật, là pháp phân biệt hư vọng, từ vọng
sanh, cũng là hư vọng. Nếu các Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật sâu xa, dùng
phương tiện thiện xảo quán pháp như vậy thì lìa xa hư vọng, nên gọi là tịch
tĩnh bình đẳng.
Thiên vương nên biết! Năng chấp, sở
chấp gọi là lửa thiêu đốt, lìa tên gọi tịch tĩnh. Các phiền não chướng gọi là
lửa thiêu đốt, lìa tên gọi tịch tĩnh. Nếu các Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật sâu
xa, dùng phương tiện thiện xảo, như thật biết năng chấp, sở chấp và các phiền
não diệt thì thiện pháp tăng trưởng. Đoạn trừ năng chấp, sở chấp và các phiền
não, nhưng không thấy sanh cũng không thấy diệt, nên gọi là bình đẳng. Tu hết
thảy chủng loại Ba la mật lìa xa ma chướng, nhưng không thấy có tu cũng không
thấy có lìa nên gọi là bình đẳng. Bồ tát thường duyên pháp phần Bồ đề, không
tác ý khởi Thanh văn, Độc giác, nhưng đối với phần Bồ đề Thanh văn, Độc giác,
Bồ tát không thấy dị tướng, nên gọi là bình đẳng. Tâm không ngừng nghỉ duyên
Nhất thiết trí, thường tu hạnh Không, do lực đại bi mà không bỏ hữu tình, nên
gọi là bình đẳng.
Thiên vương nên biết! Nếu các Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật sâu
xa, dùng phương tiện thiện xảo, đối với tất cả pháp, tâm duyên tự tại, tâm
duyên vô tướng mà tu Bồ đề, không thấy vô tướng và Bồ đề khác nhau, nên gọi là
bình đẳng. Tâm duyên vô nguyện, không bỏ tam giới, không thấy vô nguyện và tam
giới khác nhau, nên gọi là bình đẳng, v.v...
... Thiên
vương nên biết! Nếu các Bồ tát hành phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật sâu
xa, không thấy hai (bất nhị) thì gọi là
hành bình đẳng”.
(Phần “Mạn Thù Thất Lợi”, Hội thứ VII kế tiếp
Hội này, nói về bình đẳng rất là thậm thâm, sẽ bổ túc cho phần luận giải này).
2. Bồ tát phải quán, phải duyên các
pháp như thế nào?
Bồ tát hành
sâu Bát Nhã dạy chúng sanh 4 pháp quán về thân thọ tâm pháp là bất tịnh, là
khổ, là vô thường, là vô ngã để chúng sanh tìm an vui Niết bàn v.v... Đó là
quán.
Đối với tất
cả pháp Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo, dạy
chúng sanh tâm duyên tự tại là giáo hóa Thanh văn, duyên pháp ly sân là giáo
hóa Độc giác, duyên pháp ly si là giáo hóa Bồ tát. Duyên sắc, vì nguyện được diệu sắc thanh
tịnh. Duyên âm thanh, vì nguyện được âm thanh vi diệu. Duyên hương, vì nguyện
được giới hương thanh tịnh. Duyên vị,
vì nguyện được tướng đại sĩ phu. Duyên
xúc, vì nguyện được bàn tay mền mại để xoa dịu các nỗi đau thương của chúng
sanh. Duyên tất cả pháp, vì nguyện được tâm tịch tĩnh.
“Tâm duyên bố thí, vì muốn thành tựu
thân tướng hảo của Phật. Tâm duyên tịnh giới, vì muốn được quốc độ cõi Phật
thanh tịnh. Tâm duyên an nhẫn, nguyện được thân tịnh, quang minh, âm thanh Đại
phạm của Như Lai. Tâm duyên tinh tấn, vì nguyện độ hữu tình thường không bị
gián đoạn. Tâm duyên tĩnh lự, vì muốn thành tựu thần thông quảng đại. Tâm duyên
Bát Nhã, vì muốn đoạn trừ tất cả phiền não vọng kiến. Tâm duyên đại từ bình đẳng vô ngại, vì muốn các hữu tình đều được
an lạc. Tâm duyên đại bi, vì muốn hộ
trì chánh pháp, cứu độ hữu tình thoát khỏi khổ lớn sanh tử. Tâm duyên đại hỷ, vì muốn được vô ngại
tự tại nói pháp, làm vui tất cả hữu tình. Tâm
duyên đại xả, vì không còn kiến chấp hữu tình, phiền não, trói buộc, tùy
miên”.
“... Duyên tứ nhiếp pháp vì hóa độ hữu tình. Duyên lỗi keo kiệt ganh ghét, vì bỏ tài sản, tu hành bố thí. Duyên lỗi phá giới, vì trụ tịnh giới. Duyên lỗi sân giận, vì muốn được an
nhẫn. Duyên lỗi biếng nhác, vì muốn
thành tựu đại lực tinh tấn của Như Lai. Duyên
lỗi tán loạn, vì muốn đắc định thù thắng tịch tĩnh của Như Lai. Duyên lỗi ác tuệ, vì muốn thành tựu trí
tuệ vô ngại của Như Lai, v.v...”.
Duyên tất cả
pháp không kể tốt xấu mục đích giúp mình cải thiện thân tâm để trở thành con
người phạm hạnh thánh thiện. Nếu thành công thì được cái thấy biết bình đẳng
giữa chúng sanh và vạn hữu để dọn đường cho thánh trí tự giác xuất hiện.
3. Thấy xấu thì biết tốt, tùy cơ hóa
độ chúng sanh.
Bồ tát đối “Với người chấp thủ các kiến, thuyết pháp Không. Với người nhiều tầm tứ, Bồ tát nói pháp vô tướng. Với
người chấp thủ pháp hữu vi, Bồ tát nói pháp vô nguyện. Với người chấp thủ các
uẩn, Bồ tát nói pháp như huyễn. Với người chấp thủ các cõi, Bồ tát nói pháp vô
tánh. Với người chấp thủ các xứ, Bồ tát nói pháp như mộng. Với người chấp thủ
cõi Dục, Bồ tát nói sự thiêu đốt hừng hực. Với người chấp thủ cõi Sắc, Bồ tát
nói pháp hành khổ. Với người chấp thủ cõi Vô sắc, Bồ tát nói các hành vô
thường. Với hữu tình khó giáo hóa, Bồ tát tán thán Thánh chúng. Với hữu tình dễ
giáo hóa, Bồ tát nói pháp tĩnh lự và vô lượng tâm. Với người nghe nói sanh
thiên mới chịu sự giáo hóa thì Bồ tát nói pháp an lạc. Với người nhờ nghe pháp
Thanh văn mới chịu sự giáo hóa thì Bồ tát nói pháp Thánh đế. Với người nhờ nghe
pháp Độc giác mới chịu sự giáo hóa thì Bồ tát nói pháp duyên khởi. Với người
nhờ nghe pháp Bồ tát mới chịu sự giáo hóa thì Bồ tát nói tâm thanh tịnh. Với
người tu hạnh Bồ tát với pháp đại từ bi thì Bồ tát nói pháp phước và tuệ. Với
Bồ tát bất thối thì Bồ tát nói pháp tịnh độ. Với Bồ tát chỉ còn một lần sanh
nữa thì Bồ tát nói pháp nghiêm tịnh
tòa Bồ đề. Với người cần nghe Phật nói mới chịu sự giáo hóa thì Bồ tát nói
trình tự nhiều lần”.
Bồ tát hành
sâu Bát nhã Ba la mật biết rõ tâm hành sai khác của chúng sanh mà thuyết pháp
tùy theo căn cơ để hóa độ như vậy.
Kết luận chung:
(Cho ba
phẩm: Pháp giới, pháp tánh và bình đẳng tánh).
Chân như:
Chân là chân thực, như là thường như, thể tính của các pháp chân thực thường
như. Pháp giới tức là nói chỗ nương của muôn pháp (thế giới ngoại). Pháp tánh
là nói bản thể (tức nói nội tâm). Bình đẳng là nói tâm không hai mà pháp cũng
bất nhị, lìa tướng sai biệt. Nếu
thấy muôn pháp đổi dời, tâm theo khách trần động chuyển, thì đó là bệnh từ
ngoài vào. Pháp vốn như, chẳng lúc nào chẳng như, nhưng tâm sanh diệt đổi dời,
nên không thấy được như như. Đó là bệnh từ trong ra.
Phẩm "”Hiện
Tướng”, quyển 570, ĐBN nói: “Bồ tát hành phương tiện thiện xảo
Bát Nhã sâu xa như vậy, tâm không có chỗ duyên cũng không có chỗ trụ. Vì sao?
Vì các Bồ tát này, tâm không hành cũng không có chỗ hành, tâm không tưởng cũng
không có chỗ tưởng, tâm không duyên cũng không có chỗ duyên, tâm không dính mắc
cũng không có chỗ dính mắc, tâm không loạn cũng không có chỗ loạn, tâm không
cao thấp, tâm không thuận nghịch, tâm không buồn, không vui, không phân biệt,
lìa phân biệt…” Nếu tâm không phân biệt,
lìa phân biệt chấp trước thì tất cả pháp đều vắng lặng bình đẳng như như thì
trong, ngoài, cả hai đều không bệnh, tức được thong dong!
Phương pháp
hóa đạo có khác là tùy theo căn tánh chúng sanh, nên Bồ tát thuyết có quán, có
duyên, có trong, có ngoài, có tốt, có xấu... nhưng tâm Bồ tát luôn luôn như như
bất động.
Phẩm “Thắng Nghĩa Du Già” Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện: “Các pháp như (chân như), pháp giới, pháp
tánh, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh (không sanh, không diệt), pháp định,
pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Như Lai ra đời hoặc chẳng
ra đời, tánh tướng thường trụ, đấy gọi
tất cả pháp tánh bình đẳng. Tánh bình đẳng đây gọi pháp thanh tịnh, đây
nương thế tục nói là thanh tịnh, chẳng nương thắng nghĩa. Vì sao? Vì trong thắng
nghĩa đế không phân biệt, không hý luận, bặt cả danh tự, ngôn
thuyết”.
Trong phẩm
“Bình Đẳng” này Phật cũng bảo:
“Thiên vương nên biết! Nếu các Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật sâu
xa, dùng phương tiện thiện xảo, đối với tất cả pháp, tâm duyên tự tại, tâm
duyên vô tướng mà tu Bồ đề, không thấy vô tướng và Bồ đề khác nhau, nên gọi là
bình đẳng. Tâm duyên vô nguyện, không bỏ tam giới, không thấy vô nguyện và tam
giới khác nhau, nên gọi là bình đẳng, v.v...
... Thiên
vương nên biết! Nếu các Bồ tát hành phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật sâu
xa, không thấy hai thì gọi là hành bình đẳng”.
Tri kiến
được Chân như, Pháp giới, Pháp tánh, Bình đẳng tánh hay nói chung là thập nhị
chân như tức Giác ngộ, thì có thể vén mở được bức màn đen tối phủ kín tâm thức
ngàn đời để chứng thật tế, được giải thoát sang bờ kia! Vì vậy, trong nhiều
pháp hội thuộc ĐBN Phật thường nói Không, Như như, Bình đẳng và Thanh tịnh là
các đại luân tự, pháp ấn của chư Phật. Vì chúng là thân
ấn, ngữ ấn, tâm ấn và trí ấn của tất cả chư Phật. Phật tu Bồ tát đạo, ở giai vị
sơ địa phải chứng thân bình đẳng mới được 10 thân Như Lai.
Phẩm“Bất Khả Động”, quyển 386, Hội thứ I, ĐBN.Nói:
“Nếu bản tánh của tất cả pháp chẳng
không, thì các đại Bồ tát chẳng vì các hữu tình thuyết tất cả pháp đều bản tánh không; thuyết như thế là hoại
bản tánh không. Nhưng bản tánh không, lý chẳng thể hoại, chẳng phải thường,
chẳng phải đoạn. Vì sao? Vì lý bản tánh không không phương, không xứ, không từ
đâu đến, cũng không về đâu. Lý không như thế cũng gọi là pháp tánh. Trong ấy không có pháp, không tụ, không tán, không tăng,
không giảm, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; tất cả pháp ấy vốn
là tánh an trụ. Các đại Bồ tát an trụ trong đó, cầu đạt quả vị Giác ngộ tối cao
chẳng thấy các pháp có chỗ hướng đến, không chỗ hướng đến, vì tất cả pháp hoàn
toàn không sở trụ, cho nên gọi là pháp
trụ. Các đại Bồ tát an trụ trong đó, tu hành Bát Nhã, thấy tất cả pháp bản
tánh không rồi, nhất định hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao, được bất thối
chuyển. Vì sao? Vì đại Bồ tát ấy chẳng thấy có pháp có thể gây chướng ngại. Vì
thấy tất cả pháp không chướng ngại nên đối với quả vị Giác ngộ tối cao chẳng
sanh nghi hoặc, vì vậy nên không bao giờ thối thất”.
Tu như vậy
là đạt đến biên tế thực tại của tất cả pháp. Nên nói là chứng thật tế thì có thể nhập Niết bàn. Nên
thường nghe nói người nào chứng được Chân như, Pháp giới, Pháp tánh, Bình đẳng
tánh, Pháp định, Pháp trụ, Thật tế... thì được xem là Giác ngộ. Do đó, trong
Đại thừa giáo, tất cả từ Chân như, Pháp giới, Pháp tánh, Bất hư vọng tánh, Bất
biến dị tánh, Bình đẳng tánh, Ly sanh tánh, Pháp định, Pháp trụ, Thật tế, Hư
không giới, Bất tư nghì giới, Phật tánh, Tánh Không, Vô tướng, Thật Tướng, Pháp
thân, Viên Thành Thực, Tự tánh Thanh tịnh thân, Bản lai diên mục, Như như, Niết
bàn… tất cả những từ này đồng nghĩa với nhau, chúng lưu xuất từ giữa lòng chân
tánh của tất cả vật thể trần gian hay nói theo thuật ngữ đạo Phật, từ trong
cùng một bào thai của Như Lai gọi là Như Lai Tạng nên như như không khác. Chứng
được cái như đó thì trở thành Như Lai không khác!
(Chúng ta sẽ quay lại vấn đề này trong phần thứ III,
Tổng luận)
---o0o---