XII. PHẨM “HIỆN
HÓA”.
Phần giữa
quyển 572, Hội thứ VI, ĐBN:
(Tương đương với phẩm 11: Hiện Hóa, Kinh
TTVBN)
Tóm lược:
Bấy giờ, Bồ tát Thiện Tư thưa với
Thiên vương Tối Thắng:
- Hóa thân của Phật có thể biến hóa
nữa không?
Tối Thắng đáp:
- Nay đối với việc đó lấy Thế Tôn
làm minh chứng. Hóa thân của Phật lại có
thể hóa làm hằng hà sa số vô lượng hóa thân Phật nữa, với vô lượng hình
tượng thần thông để thuyết pháp làm lợi lạc hữu tình. Vì sao? Vì nguyện lực thuở xưa của chư Phật thanh tịnh
nên mới được như vậy.
Bồ tát Thiện Tư lại hỏi:
- Thiên vương thường thuyết pháp
thâm sâu một cách khéo léo. Nếu gọi nguyện lực thuở xưa của Phật thanh tịnh thì
cúi xin Thiên vương thỉnh thần lực Phật làm cho Bát Nhã thâm sâu tồn tại lâu
dài trên thế gian, không bao giờ diệt mất.
Tối Thắng trả lời:
- Thiện Tư nên biết! Tất cả Như Lai
thường cùng nhau hộ trì Bát Nhã thâm sâu. Vì sao? Vì văn tự để tuyên thuyết Bát
Nhã thâm sâu, văn tự này chẳng khởi đầu, chẳng kết thúc, thường không ẩn mất. Ý
nghĩa được hiển bày kia cũng chẳng khởi đầu, chẳng kết thúc, thường không ẩn
mất. Do đó, Bát Nhã thâm sâu của chư Phật cũng không ẩn mất. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh. Nếu pháp không sanh thì
cũng không diệt, tức là giáo lý bí mật của chư Phật. Diệu lý như vậy thì Như
Lai ra đời, hoặc không ra đời, tánh tướng vẫn vắng lặng gọi là chơn như, cũng
gọi là pháp giới, còn gọi là thật tế, thuận theo nhân duyên mà chẳng chống
trái, đó là chánh pháp. Tánh nó thường trú vĩnh viễn không ẩn mất.
Bồ tát Thiện Tư thưa:
– Đại vương! Những người nào có thể
hộ trì chánh pháp?
Thắng Thiên vương đáp:
– Thiện nam tử! Nếu không trái
nghịch với tất cả pháp, thì gọi là hộ trì chánh pháp. Vì sao? Vì không có tranh
luận và không trái đạo lý, nên gọi là hộ trì chánh pháp.
Lại hỏi:
– Thế nào không trái đạo lý?
Đáp:
– Nếu thuận theo văn tự là không
trái đạo lý và không có chỗ để tranh luận thì gọi đó là hộ trì chánh pháp. Vì
sao? Vì phàm phu thế gian đều chấp trước các kiến, còn người thuận đạo lý
thường nói không. Cho nên thế gian
sinh ra tranh luận; như vậy phàm phu tham đắm vào pháp có, còn người thuận theo đạo lý thì coi thường việc này. Thế gian
nói có thường, lạc, ngã, tịnh; người thuận đạo lý nói: Vô thường, khổ, bất
tịnh, vô ngã, cho nên thế gian sinh ra tranh luận.
Thiện nam
tử! Tất cả phàm phu đều thuận theo thế gian, còn người thuận theo đạo lý thì
ngược lại với thế gian, cho nên thế gian thường sanh tranh luận. Tất cả phàm
phu đều chấp uẩn, xứ, giới, còn người thuận đạo lý thì nói tất cả pháp đều
không có chấp trước, cho nên thế gian phát khởi tranh luận.
Thiện nam tử! Tất cả phàm phu thuận
theo đời thì không thực hành đạo lý, còn người thuận theo đạo lý thì trái với
đời.
Bồ tát Thiện Tư lại hỏi Tối Thắng:
- Vậy hôm nay Thiên vương nên nắm
lấy gì?
Tối Thắng đáp:
- Thiện Tư nên biết! Tôi chẳng nắm lấy ngã cũng chẳng nắm lấy
pháp.
Thiện Tư lại hỏi:
- Vì sao chẳng nắm?
Tối Thắng đáp:
- Tự tánh ngã là xa lìa. Tự tánh của
pháp và hữu tình cũng là xa lìa. Các sự xa lìa này cũng bất khả đắc.
Tự tánh quá khứ là xa lìa. Tự tánh
vị lai, hiện tại cũng là xa lìa. Các sự xa lìa này đều bất khả đắc.
Tự tánh chư Phật chẳng phải xa lìa,
tự tánh chư Phật chẳng phải không xa lìa. Tự tánh quốc độ chư Phật chẳng phải
xa lìa. Tự tánh của quốc độ chư Phật chẳng phải không xa lìa.
Tự tánh các pháp chẳng phải xa lìa,
tự tánh các pháp chẳng phải không xa lìa. Thiện Tư nên biết! Hành được như vậy
gọi là thuận chánh lý. Không có pháp để nắm, không nắm mới có thể hộ trì chánh
pháp.
Bồ tát Thiện Tư khen Thiên vương Tối
Thắng:
- Hay thay! Đại sĩ chính là người có
thể thuyết Bát Nhã thâm sâu này, không chấp, không đắm, không văn, không tự,
diệt hý luận, lìa phân biệt và pháp bị phân biệt.
(Sao gọi là không phân biệt?)
Bấy giờ, trong chúng có một Thiên tử
tên là Hiền Đức, từ tòa đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo áo che vai trái, gối
phải quì chấm đất, chắp tay cung kính thưa với Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thiên vương Tối
Thắng đã nói không có sự phân biệt, đó là pháp nào?
Phật bảo Hiền Đức:
- Thiên vương
nên biết! Không có phân biệt ấy chính là
pháp tịch tĩnh. Vì sao? Vì được
hay mất đều bất khả đắc, chẳng sanh
chẳng diệt, lìa ngã và ngã sở. Như vậy, gọi là pháp không phân biệt. Nếu đại Bồ
tát quán như thế ấy, năng hộ được Chánh pháp, chẳng thấy pháp năng hộ và sở hộ.
Khi nói pháp này mười ngàn Bí sô tâm
được giải thoát, hai ngàn Thiên tử xa lìa trần cấu, phát sinh pháp nhãn thanh
tịnh.
Bồ tát Thiện
Tư hỏi Thiên vương Tối Thắng:
- Những biện
tài nào có thể thuyết pháp thâm sâu như thế?
Tối Thắng
đáp:
- Bậc không còn
tất cả tập khí phiền não, đã đạt được biện tài thì có thể nói pháp thâm sâu
này. Đạo ngoài ngôn ngữ, không thể gọi tên, tuyên thuyết Đệ nhất nghĩa trí,
biện tài như vậy mới có thể nói được pháp thậm thâm này.
Bồ tát Thiện Tư hỏi Thiên tử Hiền
Đức:
- Vì sao trong pháp không sanh đem
biện tài mà nói?
Thiên tử Hiền Đức đáp:
- Đại Bồ tát
nếu là kẻ chẳng trụ pháp không sanh không diệt, thời không có biện tài nói pháp
sâu thẳm. Vì sao? Xa lìa hý luận, chẳng thấy sở duyên, chẳng thấy năng duyên,
tâm không chỗ trụ, vậy có thể nói. Chẳng trụ ngã pháp, chẳng trụ đây kia, chỉ
trụ Đệ nhất nghĩa đế thanh tịnh, cho nên có thể nói.
Bồ tát Thiện Tư liền thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thật là kỳ lạ. Thiên
tử Hiền Đức thật là hiếm có, chính Ngài mới có thể thông suốt pháp thậm thâm,
biện tài vô tận.
Phật bảo Thiện Tư:
- Thiên Tử Hiền Đức từ chỗ Phật Bất
Động của thế giới Diệu Hỷ, mà đến thế giới Kham Nhẫn này nghe Bát Nhã thâm sâu.
Các ông nên biết! Thiên tử Hiền Đức đã ở vô lượng trăm ngàn ức kiếp tu tập môn
Đà la ni hiếm có, nhiều kiếp thuyết pháp cũng chẳng cùng tận.
Bồ tát Thiện Tư lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là môn Đà la
ni hiếm có?
Phật dạy:
- Thiện Tư! Đấy gọi là Đà la ni Chư pháp bất nhập. Môn Đà la
ni vượt qua các văn tự, nói không thể nhập, tâm không thể vào, các pháp nội
ngoại đều bất khả đắc.
Thiện Tư nên biết! không có pháp nào
có thể vào được pháp này nên gọi là Đà la ni Chư pháp bất nhập. Vì sao? Pháp
đây bình đẳng không cao không thấp, không có vào ra, không một văn tự từ ngoài
mà vào, không một văn tự từ trong mà ra, không một văn tự trụ trong pháp đây,
cũng không văn tự chung thấy nhau được, cũng chẳng phân biệt pháp và phi pháp,
các văn tự này nói cũng không giảm, chẳng nói cũng không tăng, từ xưa đến nay
trọn không khởi tác và hoại diệt được.
Thiện Tư nên biết! Giống như các văn
tự, tâm cũng như vậy. Giống như tâm, tất cả pháp cũng như thế. Vì sao? Vì pháp
lìa ngôn ngữ, cũng lìa nghĩ lường, từ xưa đến nay không sanh không diệt, nên
không vào ra. Đó gọi là Đà la ni Chư pháp bất nhập. Nếu kẻ thông suốt được pháp
môn đây, biện tài vô tận. Vì sao? Vì thông đạt Pháp không đứt đoạn, không cùng
tận. Người có thể vào hư không tức có thể vào cửa Đà la ni này.
Thiện Tư nên biết! Nếu đại Bồ tát
thông suốt được môn Đà la ni này, tâm được thanh tịnh, thân ngữ cũng thế, sự tu
hành thuận theo lý Bát Nhã vững chắc thì các quân ma không thể quấy nhiễu. Tất
cả ngoại đạo chẳng dám đối diện, các nghiệp phiền não làm gì hoại được, thần
lực vững vàng, tâm lìa sự khiếp nhược, hễ có thuyết giảng thì biện tài vô tận,
có thể tuyên thuyết các môn Thánh đế thậm thâm vi diệu. Trí tuệ đa văn tựa như
biển cả. An trú tam muội ví như núi Diệu Cao (Tu di), như sư tử chúa giữa chúng không sợ. Pháp thế gian chẳng
nhiễm, giống như hoa sen trong sạch. Lợi ích chúng sinh ví như đất liền; tẩy
trừ cấu uế ví như nước lớn. Thành thục thế gian sánh với các lửa dữ. Tăng
trưởng pháp lành đồng như gió mạnh. Mát mẻ vui lòng như ánh sáng hiền hòa của
mặt trăng. Thường phá đi những sự tối tăm như ánh sáng mặt trời. Phá dẹp phiền
não oán hại như dũng sĩ oai hùng. Tâm tánh điều phục như voi chúa lớn. Thường
vang sấm pháp dụ như rồng lớn. Mưa pháp rưới khắp ví như đám mây lớn. Như đại
lương y chữa bệnh phiền não, giống như đại quốc vương khéo ngự trị thế gian.
Như Tứ Thiên vương ủng hộ hữu tình và hộ trì chánh pháp. Như trời Đế Thích giàu
sang hơn hết, đối với trong trời, người. Tâm được tự tại, ví như Đại phạm
vương, Tự tại vương, dẫn dắt thế giới Ta bà. Thân không ngăn ngại, như chim Ca
lâu la. Chỉ dạy hữu tình, như người cha của thế gian; có thể ban báu pháp,
giống như Tỳ sa môn vương có thể ban các báu. Được trang nghiêm bằng công đức,
trí tuệ; hữu tình nhìn thấy, không ai không lợi ích. Được chư Phật Thế Tôn khen
ngợi, các trời, rồng v.v... cùng nhau ủng hộ.
Thiện Tư nên biết! Các đại Bồ tát
nếu đắc môn Đà la ni này liền được tự tại, làm lợi ích hữu tình, phương tiện
thuyết pháp chẳng cùng tận, tâm không mỏi mệt, chẳng màng lợi dưỡng tiếng khen,
pháp thí bình đẳng không có bỏn sẻn, ganh tị. Thọ trì tịnh giới, 3 nghiệp không
lỗi.
An nhẫn thanh tịnh lìa các sự giận
dỗi, bực bội.
Tinh tấn thanh tịnh làm việc thành
tựu.
Tĩnh lự thanh tịnh khéo léo điều
phục tâm.
Trí Bát Nhã thanh tịnh vĩnh viễn
không nghi ngờ.
Đủ bốn Vô lượng như Đại Phạm vương
thường tu hành các đẳng trì, đẳng chí một cách khéo léo, vào ra tự tại, hơn hẳn
các thế gian, tu nhân Đại Giác đủ các phước tuệ, nhận lãnh ngôi quán đỉnh được
tự tại lớn.
Khi Phật thuyết môn Tổng trì này,
trong chúng có sáu vạn bốn ngàn Bồ tát được Bất thối chuyển, ba vạn Bồ tát được
Vô sanh nhẫn. Hai vạn trời người xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh. Vô
lượng, vô biên trời, người v.v... đều phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề.
Sơ giải:
Giáo pháp ở
đây nhấn mạnh về các pháp nếu không sanh thì cũng không diệt, dầu Như Lai có
xuất hiện hay không xuất hiện ở thế gian này tánh tướng của các pháp vẫn thường
trụ. Đó là giáo lý bí mật của tất cả
chư Như Lai. Thâm ngộ các pháp chẳng sanh chẳng diệt mà Đại Bát Nhãthường gọi là Không thì sẽ thấy đâu đâu cũng
là đạo, đâu đâu cũng là chơn như, pháp giới, thật tế...!
Năm Hội
trước đây Phật thường nói các pháp là giả thi thiết, các pháp là như huyễn như
mộng, các pháp là trì độn, là không, là như như, là bình đẳng, và bình đẳng nên
nói là thanh tịnh. Đó là một chuỗi dài tri nhận của Phật đối với bản tánh các
pháp mà Phật bày tỏ trong toàn bộ Đại Bát Nhãnày. Vì vậy, Phật thú nhận: Vì “các
pháp như vậy, nên trong lòng vắng lặng không muốn nói pháp”.
Thắng Thiên
Vương tự hội nhập giáo lý đó, nên nói với Thiện Tư:
“...
Vì pháp chẳng sanh. Nếu pháp không sanh thì cũng không diệt, tức là giáo lý
bí mật của chư Phật. Diệu lý như vậy thì Như Lai ra đời, hoặc không ra đời,
tánh tướng vẫn vắng lặng gọi là chơn như, cũng gọi là pháp giới, còn gọi là
thật tế, thuận theo nhân duyên mà chẳng chống trái, đó là chánh pháp. Tánh nó thường trú vĩnh viễn không ẩn mất”.
Pháp thoại
giữa Thắng Thiên Vương và Bồ tát Thiện Tư cho chúng ta thấy đâu cũng là đạo lý:
“Thắng Thiên bảo:
– Thiện nam tử! Nếu không trái
nghịch với tất cả pháp, thì gọi là hộ trì chánh pháp. Vì sao? Vì không có tranh
luận và không trái đạo lý, nên gọi là hộ trì chánh pháp.
Lại hỏi:
– Thế nào không trái đạo lý?
Đáp:
– Nếu thuận theo văn tự là không
trái đạo lý và không có chỗ để tranh luận thì gọi đó là hộ trì chánh pháp. Vì
sao? Vì phàm phu thế gian đều chấp trước các kiến, còn người thuận đạo lý
thường nói không. Cho nên thế gian
sinh ra tranh luận; như vậy phàm phu tham đắm vào pháp có, còn người thuận theo đạo lý thì coi thường việc này. Thế gian
nói có thường, lạc, ngã, tịnh; người thuận đạo lý nói vô thường, khổ, vô ngã,
bất tịnh, cho nên thế gian sinh ra tranh luận.
Thiện nam
tử! Tất cả phàm phu đều thuận theo thế gian, còn người thuận theo đạo lý thì
ngược lại với thế gian, cho nên thế gian thường sanh tranh luận. Tất cả phàm
phu đều chấp uẩn, xứ, giới, còn người thuận đạo lý thì nói tất cả pháp đều
không có chấp trước, cho nên thế gian phát khởi tranh luận.
Thiện nam tử! Tất cả phàm phu thuận
theo đời thì không thực hành đạo lý, còn người thuận theo đạo lý thì trái với
đời”.
Người thế
gian thuận theo thế gian nói các pháp có không, sanh diệt, đoạn thường... Đó là
lưỡng nguyên pháp, pháp đối nghịch hai đầu, nên phân biệt chấp đắm mà sanh ra
sanh tranh cãi, buông bỏ hay nắm bắt... Còn Thánh giả ngược dòng thế gian vì “không chấp, không đắm, không văn tự, diệt
hý luận, lìa phân biệt...”.
Nên Phật
bảo: “Không phân biệt ấy chính là pháp tịch tĩnh. Vì sao? Vì được hay mất (lấy hay bị lấy) đều bất khả đắc, chẳng sanh chẳng
diệt, lìa ngã và ngã sở. Như vậy, gọi là pháp không phân biệt. Nếu đại Bồ tát
quán như thế ấy, năng hộ được Chánh pháp, chẳng thấy pháp năng hộ và sở hộ”.
Tất cả pháp
phơi bày trước mắt bình dị tịch tĩnh, nhưng mấy ai thấy được dầu có chỉ cho
thấy, nói cho nghe, chứng cho biết nhưng ngoan cố tranh cãi, giận hờn. Vì sao?
Vì ngã và ngã kiến tạo thành thân kiến, kiến thủ quá sâu đậm nên theo dòng thế
gian mà phải chịu luân lưu. Chỉ có những ai dám lội dòng nước ngược mới có thể
uống được ngụm nước Cam lồ chảy ra từ đầu nguồn của cõi Thánh!
Kết luận:
Toàn thể
“Hiện Hóa” này chỉ có 4 trang, nhưng giáo lý rất sâu. Hãy suy nghĩ về pháp
thoại sau đây giữa Bồ tát Thiện Tư và Thiên vương Tối Thắng:
- “Những
biện tài nào có thể thuyết pháp thâm sâu như thế?
Tối Thắng
đáp:
- Bậc không
còn tất cả tập khí phiền não, đạt được biện tài thì có thể nói pháp thâm sâu
này. Đạo ngoài ngôn ngữ, không thể gọi tên, tuyên thuyết Đệ nhất nghĩa trí,
biện tài như vậy mới có thể nói được pháp thậm thâm này.
Bồ tát Thiện Tư hỏi Thiên tử Hiền
Đức:
- Vì sao trong pháp không sanh đem
biện tài mà nói?
Thiên tử Hiền Đức đáp:
- Đại Bồ tát
nếu là kẻ chẳng trụ pháp không sanh không diệt, thời không có biện tài nói pháp
sâu thẳm. Vì sao? Xa lìa hý luận, chẳng thấy sở duyên, chẳng thấy năng duyên,
tâm không chỗ trụ, vậy có thể nói. Chẳng trụ ngã pháp, chẳng trụ đây kia, chỉ
trụ Đệ nhất nghĩa đế thanh tịnh, cho nên có thể nói.
Bồ tát Thiện Tư liền thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thật là kỳ lạ. Thiên
tử Hiền Đức thật là hiếm có, chính Ngài mới có thể thông suốt pháp thậm thâm,
biện tài vô tận”.
Vậy biện tài
vô ngại, thâm sâu bắt nguồn từ đâu? Không phải bắt nguồn từ hý luận. Không năng
duyên sở duyên, tâm sở vô trụ. Chẳng trụ ngã pháp, chẳng trụ sanh diệt, chẳng
trụ có không… chỉ trụ Đệ nhất nghĩa đế thì có phần khế hợp. Nên có thể phát
khởi biện tài vô ngại.
---o0o---