XXIV. PHẨM
“KIẾN BẤT ĐỘNG PHẬT”
Phần cuối
quyển 565, Hội thứ V, ĐBN.
Tóm lược:
Bấy giờ bốn chúng vây quanh, Như Lai
khen ngợi Bát nhã Ba la mật giao phó, dạy bảo A Nan Đà thọ trì xong, lại đối
với tất cả Bí sô, Bí sô ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, trời, rồng, Dược xoa, Kiền đạt
phược v.v... giữa hội đại chúng, bằng năng lực thần thông làm cho chúng đều
thấy Như Lai Bất Động Ứng Chánh Đẳng Giác, với đại chúng Thanh văn, Bồ tát vây
quanh tuyên thuyết chánh pháp cho đại hội như biển lớn chẳng động, và thấy
tướng nghiêm tịnh của cõi kia. Thanh văn Tăng cõi đó đều là A la hán, các lậu
đã sạch, không còn phiền não, được chơn thật tự tại, tâm giải thoát hoàn toàn,
tuệ giải thoát hoàn toàn, như ngựa khôn điêu luyện, cũng như rồng lớn, việc
đáng làm đã làm xong, đã vứt bỏ gánh nặng, đạt được lợi ích cho chính mình, dứt
các kiết sử, chánh trí giải thoát, đạt đến tâm tự tại rốt ráo đệ nhất. Bồ tát
Tăng ở cõi đó, tất cả đều là những vị mà mọi người đều biết. Các Ngài đã đắc Đà
la ni và vô ngại biện, thành tựu vô lượng công đức vi diệu chẳng thể nghĩ bàn,
chẳng thể đo lường. (Q.565, ĐBN)
Phật thu hồi thần lực, làm cho bốn
chúng, trời, rồng, Dược xoa, Kiền đạt phược v.v... này chẳng còn thấy Như Lai
Bất Động Ứng Chánh Đẳng Giác, Thanh văn, Bồ tát và đại chúng khác cùng tướng
trang nghiêm thanh tịnh của cõi Phật kia. Chúng hội và cõi trang nghiêm thanh
tịnh của Phật kia đều chẳng phải là đối tượng của nhãn căn ở cõi này thấy được.
Vì sao? Vì Phật thu hồi thần lực nên không thể thấy được cảnh ở xa kia.
Bấy giờ, Phật bảo A Nan đà:
- Ngươi có còn thấy cõi nước và
chúng hội của Như Lai Bất Động Ứng Chánh Đẳng Giác nữa không?
A nan đà thưa:
- Bạch Thế Tôn! Con chẳng còn thấy
những việc đó, vì chẳng phải cảnh giới của mắt này đạt tới.
Phật bảo A Nan Đà:
- Như chúng hội và cõi nước của Như
Lai kia, chẳng phải là cảnh giới của nhãn căn này, nên biết các pháp cũng như thế, chẳng phải cảnh giới mà nhãn căn này
đạt tới được.
Khánh Hỷ nên biết! Vì pháp chẳng tu
pháp, pháp chẳng thấy pháp, pháp chẳng biết pháp, pháp chẳng chứng pháp.
Khánh Hỷ nên
biết! Tất cả pháp tánh không thể tu, không thể thấy, không thể biết, không thể
chứng, không hành động, không tạo tác. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không tác
dụng. Năng thủ, sở thủ đều như hư không, vì tánh viễn ly vậy, vì tất cả pháp
chẳng thể nghĩ bàn, năng, sở nghĩ bàn đều như huyễn nhân, vì tánh xa lìa vậy;
vì tất cả pháp không tạo tác, không lãnh thọ, như bóng sáng v.v... chẳng chắc
thật vậy.
Khánh Hỷ nên
biết! Nếu các Bồ tát thường tu như thế thì gọi là tu Bát nhã Ba la mật, không
chấp trước tướng các pháp. Nếu các Bồ tát thường học như thế thì gọi là học Bát
nhã Ba la mật. Đối với tất cả pháp không thủ, không xả.
Khánh Hỷ nên biết! Nếu các Bồ tát
muốn được mau chóng viên mãn tất cả Ba la mật, đạt rốt ráo tất cả pháp đến bờ
kia thì nên học Bát nhã Ba la mật.
Vì sao? Vì người học như thế đối với các pháp học là tối, là thắng, là tôn, là
cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, lợi ích an lạc cho tất cả
thế gian.
Khánh Hỷ nên biết! Nếu các Bồ tát có
thể học như thế, là làm nơi nương tựa giúp đỡ cho người không có nơi nương tựa
giúp đỡ; chư Phật Thế Tôn chấp nhận, khen ngợi.
Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật, Bồ tát
học pháp học này xong, an trụ trong đó, có thể dùng ngón tay phải hoặc ngón
chân phải nhấc thế giới Tam thiên đại thiên ném qua phương khác, hoặc trả lại
chỗ cũ, mà hữu tình trong đó chẳng hay chẳng biết, không tổn hại, không sợ hãi.
Vì sao? Vì công đức oai lực của Bát Nhã sâu xa chẳng thể nghĩ bàn. Chư Phật và
các Bồ tát quá khứ, vị lai, hiện tại học Bát nhã Ba la mật này đối với quá khứ,
vị lai, hiện tại và pháp vô vi đều đạt được tri kiến vô ngại.
Thế nên, này Khánh Hỷ! Ta bảo:
Thường học Bát Nhã sâu xa, đối với trong các pháp học là tối, là thắng, là tôn,
là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng.
Khánh Hỷ nên biết! Có người muốn nắm
lấy lượng và biên giới của Bát Nhã sâu xa thì cũng giống như kẻ ngu si muốn nắm
lấy lượng và biên giới của hư không. Vì sao? Vì công đức của Bát Nhã sâu xa
không lượng, không biên giới vậy.
Khánh Hỷ nên biết! Ta hoàn toàn
chẳng nói Bát Nhã sâu xa như danh, thân v.v... có biên giới, có hạn lượng. Vì
sao? Vì danh, cú, văn, thân là pháp có
hạn lượng; còn công đức lợi ích thù thắng của Bát Nhã sâu xa là pháp chẳng
có hạn lượng, chẳng phải danh, thân v.v... có thể lường được.
Cụ thọ Khánh Hỷ bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên nào,
nói Bát Nhã sâu xa là vô lượng?
Phật bảo Khánh Hỷ:
- Bát Nhã sâu xa vì tánh vô tận, vì tánh viễn ly nên nói là vô lượng.
Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật ba đời
đều học Bát nhã Ba la mật, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề hoàn
toàn viên mãn, tuyên thuyết chỉ dạy cho các hữu tình, mà Bát nhã Ba la mật này
vẫn thường còn, không dứt hết. Vì sao? Vì Bát Nhã sâu xa như hư không, rộng lớn
chẳng thể cùng tận vậy. Nếu có người muốn Bát Nhã sâu xa cùng tận tức là muốn
biên giới của hư không cùng tận.
Thế nên, này Khánh Hỷ! Bát Nhã sâu
xa nói là vô tận. Do vô tận nên nói là vô lượng.
Bấy giờ Thiện Hiện nghĩ điều này sâu
xa, ta nên hỏi Phật. Nghĩ vậy liền bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa vì lẽ
gì Như Lai dạy là không cùng tận?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Bát Nhã sâu xa giống như hư không,
chẳng thể cùng tận.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bồ tát làm thế nào
để phát khởi Bát nhã Ba la mật?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Các chúng Bồ tát nên quán các pháp
sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều vô tận để phát khởi Bát nhã Ba la mật. Nên quán
vô minh cho đến lão tử đều vô tận để phát khởi Bát nhã Ba la mật. Như vậy, này
Thiện Hiện! Các chúng Bồ tát nên làm như thế để phát khởi Bát Nhã. (Q.565, ĐBN)
Thiện Hiện nên biết: Các chúng Bồ
tát quán sát mười hai duyên khởi, xa lìa hai bên như thế; quán sát mười hai
duyên khởi không chính giữa, không chung quanh như thế, đó là diệu quán bất
cộng của các Bồ tát. Nghĩa là cần phải an tọa tòa Bồ đề vi diệu mới có thể quán
sát đúng đắn lý thú sâu xa như hư không rộng lớn, chẳng thể cùng tận của mười
hai nhân duyên như thế, nên có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Thiện Hiện nên biết: Nếu đại Bồ tát
đem hành tướng như hư không vô tận hành Bát Nhã sâu xa, quán sát đúng đắn mười
hai duyên khởi thì chẳng rơi vào địa vị Thanh văn và Độc giác, mau chứng quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết: Các chúng Bồ
tát nào thối chuyển quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, là do chẳng nương vào
tác ý phương tiện thiện xảo như thế. Các chúng Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la
mật mà chẳng hiểu biết đúng, thì nên dùng hành tướng vô tận nào để phát khởi Bát
nhã Ba la mật, để quán sát đúng đắn mười hai duyên khởi.
Thiện Hiện nên biết: Các chúng Bồ
tát nếu thối chuyển quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, là do xa lìa phát khởi
phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật.
Thiện Hiện nên biết: Các chúng Bồ
tát nếu chẳng thối chuyển quả vị Vô thượng Bồ đề, thì tất cả đều do nương vào
phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật mà phát khởi. Các Bồ tát ấy nhờ
nương vào phương tiện thiện xảo như thế để hành Bát Nhã sâu xa, dùng hành tướng
như hư không vô tận để quán sát đúng đắn mười hai duyên khởi; khi quán sát pháp
duyên khởi như thế, chẳng thấy có chút pháp nào do nhân mà sanh, chẳng thấy có
chút pháp nào tánh tướng thường trụ, chẳng thấy có chút pháp nào có người tạo
tác và lãnh thọ. Các Bồ tát này hành Bát Nhã sâu xa, dùng hành tướng như hư không vô tận, quán sát đúng 12 duyên khởi để
phát khởi Bát nhã Ba la mật, có thể mau chứng đắc Nhất thiết trí trí. (Q.565, ĐBN)
Thiện Hiện nên biết: Nếu khi Bồ tát
quán sát đúng như thật mười hai duyên khởi, phát sanh Bát nhã Ba la mật, thì
bấy giờ Bồ tát hoàn toàn chẳng thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức; chẳng thấy thế
giới của Phật này, chẳng thấy thế giới của Phật kia, chẳng thấy có pháp có thể
thấy thế giới của chư Phật này, chư Phật kia.
Nếu các Bồ tát có thể hành Bát Nhã
như thế, thì khi ấy ác ma rất buồn khổ như trúng phải tên độc, cũng như người
có cha mẹ mới chết, thân tâm buồn khổ, ác ma cũng như thế.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Chỉ có một ác ma
thấy các Bồ tát hành sâu Bát Nhã rất buồn khổ như trúng tên độc hay là tất cả
ác ma khắp thế giới Tam thiên đại thiên cũng đều như thế?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Tất cả ác ma đầy khắp thế giới Tam
thiên đại thiên đều thấy các Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật rất lo buồn như
trúng tên độc, mỗi ác ma chẳng thấy yên ổn ngay chỗ ngồi của mình. Vì sao? Vì
nếu các Bồ tát trụ Bát Nhã sâu xa, trời, người, A tu la v.v... ở thế gian xét
tìm lỗi của vị đó đều chẳng thể được, cũng chẳng thể làm rối loạn, thối lui.
Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề, thì nên siêng năng an trụ Bát Nhã sâu xa. Nếu các Bồ tát có thể siêng
năng an trụ Bát Nhã sâu xa, thì có thể tu viên mãn Bố thí, tịnh giới, an nhẫn,
tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Nếu các Bồ tát có thể chính mình tu hành
Bát Nhã sâu xa, thì có thể tu hành viên mãn tất cả phương tiện thiện xảo Bát
nhã Ba la mật. Các việc ma phát sanh đều có thể như thật biết để xa lìa.
Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu các Bồ
tát muốn chính mình thủ hộ phương tiện thiện xảo, thì nên chính mình hành sâu Bát
nhã Ba la mật.
Nếu khi Bồ tát tu hành phát sanh Bát
Nhã sâu xa, thì khi ấy có chư Phật Thế Tôn ở vô lượng vô biên các thế giới đều
cùng hộ niệm. Các Bồ tát này nên nghĩ: Các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác kia
cũng từ Bát Nhã sanh Nhất thiết trí. Nghĩ như thế xong, lại nên suy nghĩ: Như
các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã chứng đắc pháp, ta cũng sẽ chứng. (Q.565, ĐBN)
Như vậy, này Thiện Hiện! Nếu các Bồ
tát tu hành phát khởi Bát Nhã sâu xa, tư duy như thế trải qua khoảng khảy móng
tay, thì lượng phước phát sanh hơn công đức đạt được về sự tu hành bố thí trải
qua số đại kiếp nhiều như cát sông Hằng của các chúng Bồ tát có sở đắc, huống
là có thể trong một ngày hoặc nửa ngày. Các Bồ tát ấy chẳng bao lâu sẽ an trụ
địa vị Bất thối chuyển, thường được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cùng hộ niệm.
Các chúng Bồ tát này nếu được chư Phật hộ niệm, thì nhất định chứng quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chẳng rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác v.v... chắc
chắn không còn sanh vào các nẻo ác, thường sanh trong cõi trời, người, chẳng xa
lìa chư Phật. Nếu các Bồ tát tu hành phát sanh Bát Nhã sâu xa, nhớ nghĩ tư duy
công đức của chư Phật trải qua khoảng khảy móng tay, thì công đức lợi ích thù
thắng còn đạt được vô biên, huống là trải qua một ngày hay hơn một ngày, tinh
tấn dõng mãnh tu hành phát sanh Bát Nhã sâu xa, nhớ nghĩ tư duy công đức của
chư Phật như các chúng Bồ tát Hương Tượng v.v... ở chỗ Phật Bất Động thường tu
phạm hạnh, chẳng lìa Bát nhã Ba la mật.
Khi đức Bạt Già Phạm thuyết Kinh này
xong, vô lượng đại Bồ tát, Bồ tát Từ Thị làm thượng thủ, cụ thọ Thiện Hiện, Xá
lợi Tử v.v... các đại Thanh văn và các trời, rồng, Dược xoa, v.v... tất cả đại
chúng nghe Phật giảng đều rất vui mừng, tin thọ phụng hành.
Sơ giải:
Điểm đáng
lưu ý trong phẩm này là Phật thuyết: Các pháp “chẳng phải
cảnh giới mà nhãn căn này đạt tới được”. Điều
đó có nghĩa bằng nhục nhãn của con người trần tục không dễ gì thấy được thật
tánh của tất cả pháp. Như vậy, chỉ có mắt Thánh mới thấy được hay nói khác là
mắt phàm không có cớ hội chăng? Hãy nghe Phật bảo Khánh Hỷ:
“Khánh Hỷ nên biết! Vì pháp chẳng tu
pháp, pháp chẳng thấy pháp, pháp chẳng biết pháp, pháp chẳng chứng pháp.
Khánh Hỷ nên biết! Tất cả pháp tánh
không thể tu, không thể thấy, không thể biết, không thể chứng, không hành động,
không tạo tác. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không tác dụng. Năng thủ, sở thủ đều
như hư không, vì tánh viễn ly vậy, vì tất cả pháp chẳng thể nghĩ bàn, năng, sở
nghĩ bàn đều như huyễn nhân, vì tánh xa lìa vậy; vì tất cả pháp không tạo tác, không
lãnh thọ, như bóng sáng v.v... chẳng chắc thật vậy.
Khánh Hỷ nên biết! Nếu các Bồ tát
thường tu như thế thì gọi là tu Bát nhã Ba la mật, không chấp trước tướng các
pháp. Nếu các Bồ tát thường học như thế thì gọi là học Bát nhã Ba la mật. Đối
với tất cả pháp không thủ, không xả”.
Đây có thể
nói là cái thấy giác ngộ trên muôn sự muôn vật. Vì sao? Vì thấy mà như không
thấy không biết, chả có năng sở chủ khách trong cái thấy biết, nên không bị
tướng che. Nếu không còn phân biệt, không chấp, không dính mắc, không thủ xả,
tung hứng nữa... Thấy như vậy thì các pháp không còn tác dụng nên nói là thấy
tánh, thấy tận nguồn tâm.
Ở đây không
cần giác biết các pháp như huyễn như mộng, không cần giác biết các pháp là
không thật, là giả danh, không cần thấy biết các pháp là vô tri hay trì độn,
không cần thấy biết là không, cũng không cần thấy biết là như như hay bình
đẳng, cũng không cần thấy biết là vô tánh, vô tướng, vô sanh vô diệt v.v... mà
chỉ cần “thấy mà không phân biệt chấp
tướng các pháp, không thủ xả là được”. Chư Phật, Tổ có cái thấy như vậy,
nếu chúng sanh nào cũng có cái thấy như vậy thì sạch hết lậu tận, nhãn căn trở
nên thanh tịnh mà trực nhận chân như thật tướng các pháp.
Các phần sau
của phẩm này chỉ thuyết về công đức Bát nhã Ba la mật mà thôi. Ai đọc cũng có
thể hiểu nên không cần bàn thêm nữa.
---o0o---
Đến đây chấm dứt phần năm,
(Hội thứ V).
Hội thứ V,
bắt đầu từ quyển 556 cho đến hết quyển 565, vỏn vẹn chỉ có 24 phẩm, 10 quyển.
Văn từ của Hội này giản dị, ngắn gọn, dễ hiểu so với các Hội trước. Tuy nhiên,
giáo pháp Bát nhã Ba la mật có thuyết trong bất cứ Hội nào cũng được xiển dương
đầy đủ trong Hội thứ V này. Có thể xem Hội thứ V là bản tóm lược, rút gọn bốn Hội trước mặc dù cả 5 Hội đều quản diễn
cùng một đề tài như nhau. Phải nói rằng chính nhờ tụng đọc các pháp hội trước
mà chúng ta trưởng thành theo từng pháp hội. Nên khi tụng tới Hội thứ V này mới
thấy dễ dàng như vậy. Đó là kết quả của trì tụng và đó cũng chính là kinh
nghiệm thực chứng của những người tu Bát nhã Ba la mật!
Đến đây là
chấm dứt năm phần chính của Đại Bát
Nhã mà các nhà khảo cứu về đạo Phật, các nhà học thuật, các triết gia, tu sĩ...
chú trọng nhiều nhất khi nghiên cứu cũng như thọ trì Kinh này.
Nếu cần
khuyến cáo trong việc ôn tập và thực hành năm Hội này thì chúng tôi đề nghị:
Sau khi tụng hết cả 5 Hội đầu, nên ôn lại Hội thứ V trước, vì Hội này ngắn gọn
dễ hiểu nhất để nắm vững tổng quát các giáo lý căn bản của ĐBN. Kế đến là đọc
tụng Hội thứ II, Hội này trình bày đầy đủ các giáo lý của ĐBN, ít trùng tuyên
lại chia ra thành các phẩm ngắn gọn, phẩm tựa có nội dung phù hợp với chánh
văn, nên dễ đọc, dễ học, dễ nhớ. Kế đến, là tụng Hội thứ IV, vì Hội này nêu lên
được cốt tủy của Bát nhã Ba la mật, đồng thời văn từ lại thanh thoát, xúc tích
nhưng không kém phần thậm thâm. Chúng tôi không dám thay đổi bố cục của Đại Bát
Nhã mà chỉ đề nghị chương trình ôn tập như vậy!
Bây giờ,
chúng ta tiếp tục tụng Hội thứ VI. Hội này bắt đầu từ quyển 566 cho đến hết
quyển 573, vỏn vẹn chỉ có 8 quyển, gói ghém trong 17 phẩm, do Phật thuyết. Hội
này không phải do nhóm của Ngài Huyền Trang dịch mà do các vị đi trước dịch và
nhóm của Ngài Huyền Trang sao lại và ghi thành Hội thứ VI trong Đại Bát Nhã Ba La
Mật. Nội dung Hội này đức Phật
thuyết Bát Nhã và cách tu tập Bát Nhã riêng cho Thắng Thiên Vương nghe. Đây có
thể xem là một Hội tuy ngắn nhưng mắc mỏ nhất, vì tất cả giáo lý khó khăn được thuyết rải rác trong năm Hội đầu, được
lặp lại và triển khai ở Hội này nhất là các giáo lý như chân như, pháp giới,
pháp tánh, bình đẳng tánh... Ngoài ra Phật chỉ dạy chi tiết về tu tịnh hạnh, các pháp tu hết sức khó
khăn của Bồ tát đạo hay Bồ tát hạnh, mà các Kinh thường rút gọn trong bốn chữ
là tu “lục độ vạn hạnh”. Ai thọ trì và
thâm nhập được Hội này thì thật sự đã có một bước tiến khá vững chắc trong việc
học tập và thực hành Bát nhã Ba la mật.
Tuy nói Hội
này Phật thuyết Bát nhã Ba la mật và cách tu tập Bát nhã Ba la mật cho riêng
Thắng Thiên Vương nghe, nhưng thật sự Phật thuyết và dạy Bát nhã Ba la mật cho
từng cá nhân chúng ta, ai cũng có phần. Nên cố gắng đọc tụng, thọ trì thôi. Chỉ
có người tìm Kinh chứ Kinh không tìm người và Phật thường nhắc nhở “phải là
người trong nhiều đời kiếp thờ phụng cúng dường chư Phật khắp mười phương mới
có được phúc duyên này”.
Vậy cố gắng
đọc tụng Hội này trước khi chúng ta bước sang lãnh vực mới, một lãnh vực hoàn
toàn khác lạ với những điều nghĩ tưởng thế gian. Tất cả các pháp hội từ thứ VI
trở đi sẽ cho chúng ta một lối lãnh hội mới, nhất là Hội thứ VII, kinh lật úp
tất cả những gì mà chúng ta đã đọc tụng thọ trì từ trước.
--- o0o ---