I. PHẨM “THIỆN HIỆN”
Phần đầu
quyển 556, Hội thứ V, ĐBN.
Tóm lược:
Quyển thứ
556
Tôi nghe như
vầy: Một thời Thế Tôn ngự ở đỉnh núi Thứu Phong, thuộc thành Vương Xá, cùng
chúng đại Bí sô một vạn hai ngàn người(1) đều là bậc A la hán. Cụ thọ Thiện
Hiện, Xá lợi Tử v.v... làm Thượng thủ, ngoại trừ hiền giả A Nan Đà còn ở bậc
hữu học. Lại có vô lượng vô số đại Bồ tát đắc vô ngại biện, Bồ tát Từ Thị (Di Lạc), Bồ tát Diệu Cát Tường (Văn Thù Sư Lợi) v.v... làm Thượng thủ.
Khi ấy, đức
Thế Tôn bảo Thiện Hiện:
- Ngươi hãy
dùng biện tài tuyên thuyết, chỉ dạy Bát nhã Ba la mật cho chúng đại Bồ tát để
cho các Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật mau được thành tựu.
Khi ấy, Xá
lợi Tử nghĩ: Cụ thọ Thiện Hiện do tự lực của mình tuyên thuyết chỉ dạy Bát nhã
Ba la mật cho các chúng đại Bồ tát, hay là nhờ năng lực oai thần của Như Lai để
thuyết?
Thiện Hiện
biết được ý nghĩ của Ngài Xá lợi Tử liền thưa:
- Những lời
chỉ dạy của đệ tử Phật đều là nhờ vào năng lực oai thần của Như Lai. Vì sao?
Này Xá lợi Tử! Vì chư Phật giảng thuyết pháp yếu cho các đệ tử, các đệ tử y
theo lời Phật dạy tinh tấn tu học cho đến lúc chứng được thật tánh của các pháp; chứng xong chỉ dạy lại cho người khác. Nếu
không trái với thật tánh của các pháp thì đó là nhờ oai thần của Như Lai, cũng
là sự chứng nhập dòng pháp tánh bình
đẳng. Thế nên việc tôi sẽ chỉ dạy Bát nhã Ba la mật cho các Bồ tát đều là
nhờ năng lực oai thần của Như Lai.
Thiện Hiện
bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Thế Tôn dạy con chỉ dạy Bát nhã Ba la mật cho các chúng đại Bồ tát tu hành
Bát nhã Ba la mật mau được thành tựu.
Bạch Thế
Tôn! Đã nói các Bồ tát ấy là theo pháp nghĩa nào? Vì con chẳng thấy có pháp nào
được gọi là Bồ tát, cũng chẳng thấy có pháp nào được gọi là Bát nhã Ba la mật.
Con chẳng thấy, chẳng đắc Bồ tát và pháp Bồ tát, cũng chẳng thấy, chẳng đắc Bát
nhã Ba la mật thì làm sao bảo con chỉ dạy Bát nhã Ba la mật cho các chúng Bồ
tát? Con dạy những Bồ tát nào, tu hành những Bát nhã Ba la mật gì để cho mau
được thành tựu?
Bạch Thế
Tôn! Nếu Bồ tát nào nghe thuyết những lời này, tâm không chìm đắm, cũng không
thối lui, không kinh, không sợ, y như lời dạy mà an trụ, tu hành Bát nhã Ba la
mật thì Bồ tát đó đáng được chỉ dạy Bát nhã Ba la mật mau được thành tựu. Vì nếu không có chấp trước thì chính đó là Bát
nhã Ba la mật.
Lại nữa, bạch
Thế Tôn! Nếu Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật thì nên học như vầy: Học rằng
không nên chấp đắm tâm Bồ tát này. Vì sao? Vì tâm này chẳng phải tâm, vì bản
tánh thanh tịnh vậy.
Khi ấy, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Tâm này chẳng phải tâm tánh phải không?
Thiện Hiện hỏi lại Xá lợi Tử:
- Tâm chẳng phải tâm tánh, hoặc có hoặc không là có
thể đắc, phải không?
Xá lợi Tử thưa:
- Thưa không, Thiện Hiện!
Thiện Hiện lại bảo:
- Này Xá lợi Tử! Tâm chẳng phải tâm tánh, hoặc có hoặc
không và đã không thể đắc. Như vậy, thì làm sao có thể hỏi tâm này chẳng phải
là tâm tánh phải không?
Khi ấy, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Những gì gọi là tâm, chẳng phải tâm tánh?
Thiện Hiện đáp:
- Nếu không hư hoại, cũng không sai khác thì chính đó
gọi là tâm, chẳng phải tâm tánh.(2)
Xá lợi Tử
khen Thiện Hiện:
- Lành thay!
Lành thay! Đúng như lời ông nói, Phật dạy: Thầy là người trụ định Vô tránh cùng
tột hàng đầu. Thật đúng như lời Thánh dạy. Nếu Bồ tát nào nghe thuyết lời này,
tâm không chìm đắm, cũng không thối lui, chẳng kinh, chẳng sợ, y như lời dạy mà
an trụ, mà tu hành Bát nhã Ba la mật thì Bồ tát này được Bất thối chuyển quả vị
Vô thượng Bồ đề. Nếu Bồ tát nào quán sát tâm chẳng phải tâm tánh như thế thì Bồ
tát này chẳng lìa Bát nhã Ba la mật. Nếu các hữu tình nào muốn siêng tu học
hoặc địa vị Thanh văn, hoặc địa vị Độc giác, hoặc địa vị Bồ tát thì thường nên
lắng nghe, thọ trì, đọc tụng Bát nhã Ba la mật cho thông suốt hoàn toàn và đúng
như lời dạy mà tu hành. Vì sao? Vì trong giáo nghĩa của Bát Nhã sâu xa này
giảng thuyết rộng về tất cả pháp cần nên học. Nếu Bồ tát nào siêng năng tinh
tấn tu học Bát nhã Ba la mật này thì ở nơi nào cũng đều được an lành. (Q.556, ĐBN)
Bấy giờ,
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Con đối
tâm Bồ tát chẳng biết cũng chẳng đắc, con đối chúng Bồ tát và Bát nhã Ba la mật
đều chẳng thấy thật sự có thể đắc, làm sao khiến vì chúng các Bồ tát tuyên chỉ Bát
nhã Ba la mật-đa?
Bạch Thế
Tôn! Con quán sát tất cả hoặc sanh hoặc diệt, hoặc nhiễm hoặc tịnh hoàn toàn
bất khả đắc, nhưng trong đó nói có danh tự Bồ tát và Bát Nhã v.v... nên có sự
nghi ngờ.
Bạch Thế
Tôn! Tên Bồ tát v.v... hoàn toàn không xác định, cũng không có chỗ trụ. Vì sao?
Vì tên Bồ tát v.v... hoàn toàn vô sở hữu
và pháp vô sở hữu thì không định, không trụ. Nếu Bồ tát nào nghe thuyết như
vậy, tâm không chìm đắm, cũng không thối lui, không kinh, không sợ thì nên biết
Bồ tát này chắc chắn an trụ địa vị Bất thối chuyển, dùng vô sở trụ làm phương tiện
trụ không chỗ trụ.
Lại nữa,
bạch Thế Tôn! Các Bồ tát tu hành Bát Nhã sâu xa không nên trụ sắc, cũng không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức. Vì
sao? Vì nếu trụ sắc thì hành theo sắc,
chẳng phải hành Bát Nhã sâu xa. Nếu trụ thọ, tưởng, hành, thức thì hành
theo thọ, tưởng, hành, thức, chẳng phải hành Bát Nhã sâu xa. Vì sao? Vì chẳng
phải người tạo tác có thể nhiếp thọ được Bát nhã Ba la mật. Nếu không thể nhiếp
thọ được Bát nhã Ba la mật thì chẳng thể tu tập Bát nhã Ba la mật. Nếu chẳng
thể tu tập Bát nhã Ba la mật thì chẳng thể viên mãn Bát nhã Ba la mật. Nếu
chẳng thể viên mãn Bát nhã Ba la mật thì chẳng thể thành tựu Nhất thiết trí
trí. Nếu chẳng thể thành tựu Nhất thiết trí trí thì chẳng thể làm lợi ích cho
các hữu tình. Vì sao? Vì sắc chẳng thể nhiếp thọ; thọ, tưởng, hành, thức cũng
chẳng thể nhiếp thọ; Bát nhã Ba la mật cũng chẳng thể nhiếp thọ; sắc chẳng thể
nhiếp thọ nên chẳng phải sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể nhiếp thọ
nên chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Bát nhã Ba la mật cũng chẳng thể nhiếp
thọ nên chẳng phải là Bát nhã Ba la mật. Các Bồ tát nên học Bát Nhã sâu xa như
vậy.
Nếu học Bát
Nhã thậm thâm như thế, đấy gọi Bồ tát không sở nhiếp thọ tam ma địa luân(輪)(3), tư cụ
rộng lớn không lường không vượt hơn, chẳng bị tất cả Thanh văn, Độc giác dẫn
cướp, cũng chẳng nhiếp thọ Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì Nhất thiết trí trí này chẳng phải lấy tướng tu đắc. Các kẻ lấy tướng
đều là phiền não. Vì sao? Vì Nhất thiết trí trí này chẳng phải thủ tướng tu
đắc. Người đắc thủ tướng đều là phiền não. (Q. 556, ĐBN)
Nếu lấy
tướng tu đắc Nhất thiết trí trí ấy, Phạm chí Thắng Quân đối Nhất thiết trí trí
chẳng cần tin hiểu. Thắng Quân Phạm chí này do sức tin hiểu quay về Phật pháp
gọi tùy tín hành, mà năng đem chút
ít trí quán tất cả pháp tánh không, ngộ vào Nhất thiết trí trí. Đã ngộ vào rồi,
chẳng thủ tướng sắc, cũng chẳng thủ tướng thọ tưởng hành thức. Chẳng lấy vui
mừng quán thấy trí đây, chẳng nắm lấy được nghe quán thấy trí đây.
Chẳng lấy
nội sắc quán thấy trí đây, chẳng lấy ngoại sắc quán thấy trí đây, chẳng lấy nội
ngoại sắc quán thấy trí đây, cũng chẳng lìa sắc quán thấy trí đây. Chẳng lấy
nội thọ tưởng hành thức quán thấy trí đây, chẳng lấy ngoại thọ tưởng hành thức
quán thấy trí đây, chẳng lấy nội ngoại thọ tưởng hành thức quán thấy trí đây,
cũng chẳng lìa thọ tưởng hành thức quán thấy trí đây.
Chẳng lấy
vui mừng quán thấy trí đây, chẳng lấy được nghe quán thấy trí đây.
Thắng Quân Phạm chí dùng các môn ly tướng như thế thảy
đối Nhất thiết trí trí rất sanh tin hiểu, gọi tùy tín hành, đối tất cả pháp đều
không lấy đắm. Như vậy, Phạm chí dùng môn ly tướng đối Nhất thiết trí trí được
tin hiểu rồi, đối tất cả pháp đều chẳng lấy tướng, cũng chẳng suy gẫm các pháp
vô tướng. Như vậy Phạm chí do sức hiểu sâu, đối tất cả pháp chẳng lấy chẳng bỏ,
chẳng chứng, chẳng đắc. Khi Phạm chí kia đối với sự tin hiểu cho đến Niết bàn
cũng chẳng lấy đắm, vì lấy chơn pháp tánh làm định lượng vậy.
Bạch Thế
Tôn! Đại Bồ tát bằng Bát nhã Ba la mật sâu xa chẳng nhiếp thọ sắc, cũng chẳng
nhiếp thọ thọ tưởng hành thức. Dù đối các pháp không sở nhiếp thọ, nếu chưa
viên mãn Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải và mười tám pháp Phật
bất cộng thảy, quyết chẳng giữa đường nhập bát Niết bàn. Phải biết đại Bồ tát
này đối với Bát nhã Ba la mật dù không lấy đắm mà năng thành xong Nhất thiết
trí trí, lợi ích an vui tất cả hữu tình.
Lại nữa,
bạch Thế Tôn! Các Bồ tát thực hành Bát Nhã sâu xa nên quán như vầy: Sao gọi là Bát
nhã Ba la mật? Cái gì là Bát nhã Ba la mật? Có phải pháp vô sở hữu bất khả đắc
là Bát nhã Ba la mật ư? Trong không sở hữu, không kia, không đây thì hệ thuộc
vào đâu?
Bạch Thế
Tôn! Nếu khi Bồ tát quán sát kỹ việc như thế, tâm không chìm đắm, cũng không
thối lui, không kinh, không sợ, thì nên biết Bồ tát này không lìa Bát nhã Ba la
mật.
Khi ấy, Xá
lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Vì nhân
duyên gì sắc lìa tánh sắc? Thọ, tưởng, hành, thức lìa tánh thọ, tưởng, hành,
thức? Bát nhã Ba la mật lìa tánh Bát nhã Ba la mật nhưng lại nói Bồ tát chẳng
lìa Bát nhã Ba la mật?
Thiện Hiện
đáp:
- Đúng như
vậy! Đúng như vậy! Sắc lìa tánh sắc; Thọ, tưởng, hành, thức lìa tánh thọ,
tưởng, hành, thức; Bát nhã Ba la mật lìa tánh Bát nhã Ba la mật. Tướng các pháp như vậy cũng lìa tánh, tánh
cũng lìa tướng, tướng cũng lìa tướng, tánh cũng lìa tánh; vì tướng (năng) và đối tượng của tướng (sở) hoàn toàn bất khả đắc. Nếu Bồ tát hiểu
biết đúng đắn nghĩa như thế thì chẳng lìa Bát nhã Ba la mật.
Khi ấy, Xá
lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Nếu Bồ tát
học pháp này thì mau thành tựu Nhất thiết trí trí phải không?
Thiện Hiện
thưa:
- Đúng như
vậy! Đúng như vậy. Nếu Bồ tát nào học pháp này thì mau thành tựu Nhất thiết trí
trí. Vì sao? Này
Xá lợi Tử! Vì Bồ tát này biết tất cả pháp không sanh diệt vậy. Xá lợi Tử! Nếu
Bồ tát có thể thực hành như vậy thì chính là gần kề Nhất thiết trí trí.
Lại nữa, Xá
lợi Tử! Các Bồ tát nếu hành sắc là hành
tướng, nếu hành sự sanh của sắc là hành tướng, nếu hành sự hoại diệt của
sắc là hành tướng, nếu hành Không của sắc là hành tướng. Nếu bảo ta hành là
hành có sở đắc, nếu hành thọ, tưởng, hành, thức là hành tướng, nếu hành sự sanh
của thọ, tưởng, hành, thức là hành tướng, nếu hành sự hoại diệt của thọ, tưởng,
hành, thức là hành tướng, nếu hành Không của thọ, tưởng, hành, thức là hành
tướng. Nếu bảo ta có thể hành là hành có sở đắc, nếu Bồ tát nghĩ thế này: Ta là
Bồ tát có thể hành Bát nhã Ba la mật, thì đó là hành tướng.
Nếu Bồ tát
nghĩ như vầy: Người nào hành như vậy là
hành tướng, thì nên biết Bồ tát tát này không có phương tiện thiện xảo. (Q.556, ĐBN)
(Phải hành như thế nào mới gọi là hành Bát nhã Ba la
mật?)
Khi ấy, Xá
lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Vậy các Bồ
tát nên hành như thế nào mới gọi là hành Bát nhã Ba la mật?
Thiện Hiện
thưa:
- Các Bồ tát
nếu không hành sắc, không hành tướng của sắc, không hành sự
sanh của sắc, không hành sự hoại diệt của sắc, không hành Không của sắc thì
chính là hành Bát nhã Ba la mật. Các Bồ tát nếu không hành thọ, tưởng,
hành, thức; không hành tướng của thọ, tưởng, hành, thức; không hành sự sanh của
thọ, tưởng, hành, thức; không hành sự hoại diệt của thọ, tưởng, hành, thức;
không hành Không của thọ, tưởng, hành, thức thì chính là hành Bát nhã Ba la mật.
Nếu Bồ tát không chấp thủ hành, không chấp thủ
không hành, không chấp thủ vừa hành vừa không hành, không chấp thủ không phải
hành, không phải không hành, đối với không chấp thủ cũng không chấp thủ (không chấp tứ cú) thì chính là hành Bát
nhã Ba la mật. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì tất
cả pháp đều không thể chấp thủ, không thể tùy hành, không thể chấp thọ, vì lìa
tánh tướng vậy.
Như vậy, gọi
là các Bồ tát ngay trong vô sanh định
luân (dịch giả dịch là Tam ma đại
luân) của tất cả các pháp phát sanh tài sản vô lượng vô số. Không chung
cùng với tất cả Thanh văn, Độc giác. Nếu Bồ tát nào an trụ định này thì mau
chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Khi ấy,
Thiện Hiện nương thần lực của Phật bảo Xá lợi Tử:
- Nếu Bồ tát
nào tuy an trụ định này nhưng không thấy định này, cũng không đắm trước định
này, cũng không nghĩ rằng ta đã nhập định này, đang nhập định này, sẽ nhập định
này, người kia tư duy phân biệt như vậy và nhờ năng lực định này nên không khởi(tưởng)tất cả, thì biết người này đã
được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ thọ ký Bất thối chuyển quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Khi ấy, Xá
lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Nếu Bồ tát
nhờ định này mà được chư Phật Thế Tôn quá khứ, hiện tiền thọ ký thì Bồ tát này
là người có thể chỉ dạy định như vậy, phải không?
Thiện Hiện
đáp:
- Chẳng phải
vậy. Này Xá lợi Tử! Vì sao? Vì thiện nam tử này đối định như thế không biết
không tưởng.
Xá lợi Tử
thưa:
- Cụ thọ bảo
các thiện nam tử kia không hiểu biết, không nghĩ tưởng định này sao?
Thiện Hiện
đáp:
- Tôi quả
quyết nói các thiện nam tử kia không hiểu biết, không nghĩ tưởng định này. Vì
sao? Vì các định này vô sở hữu nên thiện nam tử kia không hiểu biết, không nghĩ
tưởng các định như vậy. Các định như vậy tất cả pháp cũng không hiểu biết,
không nghĩ tưởng. Vì sao? Vì tất cả pháp vô sở hữu vậy.
Đức Thế Tôn
khen Thiện Hiện:
- Lành thay!
Lành thay! Như lời ngươi nói nên Ta bảo ngươi là người đứng hàng đầu trụ định
vô tránh. Các Bồ tát muốn học Bát nhã Ba la mật thì nên học như vậy. Ai học như
vậy thì gọi là học Bát nhã Ba la mật.
Xá lợi Tử
bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Nếu Bồ tát nào học như vậy thì gọi là chơn thật học Bát nhã Ba la mật,
phải không?
Phật bảo Xá
lợi Tử:
- Nếu Bồ tát
nào có thể học như vậy thì gọi là chơn thật học Bát nhã Ba la mật.
Khi ấy, Xá
lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Các Bồ tát khi học như vậy là học pháp nào?
Phật bảo Xá
lợi Tử:
- Các Bồ tát
khi học như vậy là chẳng phải học pháp. Vì sao? Này Xá lợi Tử! Chính sự chấp trước của các phàm phu ngu si như
thế chứ chẳng phải tất cả pháp có như vậy
Xá lợi Tử
bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Nếu như vậy thì các pháp làm sao mà có?
Phật bảo Xá
lợi Tử:
- Như vô sở hữu mà có như vậy. Nếu không thể
hiểu rõ pháp vô sở hữu như vậy thì gọi là vô minh. Phàm phu ngu si đối với tánh
vô sở hữu của tất cả pháp thế lực vô minh tham ái tăng thượng, nên phân biệt
chấp trước hai bên: Đoạn thường. Do đây, không biết, không thấy tánh các pháp
vô sở hữu nên phân biệt các pháp. Do phân biệt nên sanh chấp trước. Do chấp
trước nên phân biệt tánh các pháp vô sở hữu. Do đó nên đối với pháp không thấy,
không biết. Vì đối với các pháp chẳng thấy, chẳng biết nên phân biệt quá khứ,
vị lai, hiện tại. Do phân biệt nên tham đắm danh sắc. Do đắm danh sắc nên phân
biệt chấp trước pháp vô sở hữu. Đối pháp vô sở hữu phân biệt chấp trước nên đối
với đạo như thật chẳng biết, chẳng thấy, nên chẳng thể ra khỏi sanh tử trong ba
cõi, chẳng tin pháp Tứ đế, chẳng hiểu rõ Niết bàn; thế nên bị rơi vào trong số
phàm phu ngu si. Do đó, chúng Bồ tát này đối với tánh tướng của các pháp hoàn
toàn không chấp trước.
Khi ấy Xá
lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Các Bồ tát khi học như vậy, chẳng lẽ không cầu học Nhất thiết trí trí?
Phật bảo Xá
lợi Tử:
- Các Bồ tát
khi học như vậy cũng không cầu học Nhất thiết trí trí, nhưng các Bồ tát khi học
như vậy, mặc dầu không học nhưng gọi đó là chơn thật học Nhất thiết trí trí,
mau có thể thành tựu Nhất thiết trí trí vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Giả sử có người đến hỏi thế này: Huyễn
sĩ nếu học Nhất thiết trí trí thì người đó cũng có thể thành tựu Nhất thiết trí
trí phải không? Được hỏi như vậy thì con trả lời bằng cách nào?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ta hỏi lại ngươi, tùy ý ngươi trả lời. Ý ngươi thế
nào? Huyễn khác với sắc, thọ, tưởng, hành, thức phải không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Huyễn chẳng khác sắc, sắc chẳng khác
huyễn, huyễn chính là sắc, sắc chính là huyễn. Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều
như vậy.
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ý ngươi thế nào? Trong năm thủ uẩn khởi tất cả tưởng
đều thi thiết là Bồ tát chăng?
Thiện Hiện bạch:
- Đúng như vậy, bạch Thế Tôn!
Phật bảo Thiện Hiện:
- Các Bồ tát tu học Bát nhã Ba la mật cầu thẳng đến
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tất cả đều như huyễn sĩ tu học. Vì sao? Vì
huyễn sĩ chính là năm thủ uẩn vậy. Vì sao? Vì Ta nói năm uẩn: Nhãn, nhĩ , tỹ
v.v... sáu căn đều như huyễn hóa, hoàn toàn không có thật.
Cụ thọ Thiện
Hiện bạch Phật:
- Nếu Bồ tát
nào mới học Đại thừa, nghe nói như vậy thì tâm vị đó sẽ không kinh sợ, thối lui
phải không?
Phật bảo
Thiện Hiện:
- Nếu Bồ tát
nào mới học Đại thừa, gần gũi bạn ác, nghe thuyết như vậy, tâm liền kinh sợ thì
sanh thối lui. Còn nếu gần bạn lành thì tuy nghe thuyết như vậy nhưng chẳng
kinh sợ, cũng chẳng thối lui.
Cụ thọ Thiện
Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Những hạng người như thế nào là bạn ác của Bồ tát?
Phật bảo
Thiện Hiện:
- Bạn ác của
Bồ tát nghĩa là dạy Bồ tát nhàm chán, xa lìa Bát nhã Ba la mật, xả bỏ Bồ đề
tâm, chấp lấy tướng các pháp, dạy cho học sách vở thủ tướng của thế tục, dạy
cho học Kinh pháp tương ưng với Thanh văn. Lại dạy gần gũi việc làm của ác ma.
Như vậy gọi là bạn ác của Bồ tát.
Cụ thọ Thiện
Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Còn những hạng nào gọi là bạn lành của Bồ tát?
Phật bảo
Thiện Hiện:
- Bạn lành
của các Bồ tát nghĩa là dạy Bồ tát siêng năng tu tập Bát nhã Ba la mật, cho đến
nói về việc làm của ma, tội lỗi của ma để cho người kia biết rõ mà phương tiện
xả bỏ. Những hạng người này gọi là bạn lành chơn tịnh, đại thệ trang nghiêm của
Bồ tát mới học.
(Thế nào là Bồ Tát?)
Cụ thọ Thiện
Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Nói Bồ tát, ý nghĩa danh tự đó là gì?
Phật bảo
Thiện Hiện:
- Học tất cả pháp không dính mắc, không chướng ngại.
Hiểu rõ tất cả pháp không dính mắc, không chướng ngại để cầu chứng Bồ đề, nên
gọi đó là Bồ tát.
Cụ thọ Thiện
Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Những hạng này lại do nhân duyên nào gọi là Bồ tát?
Phật bảo
Thiện Hiện:
- Vì các Bồ
tát sẽ làm thượng thủ trong chúng đại hữu tình nên gọi là Bồ tát.
Khi ấy, Xá
lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Nay con muốn nói về nghĩa của Bồ tát. Cúi xin Thế Tôn cho phép.
Phật bảo Xá
lợi Tử:
- Tùy ý
ngươi nói.
Xá lợi Tử
thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Các Bồ tát bằng phương tiện thiện xảo tuyên thuyết pháp yếu cho các hữu
tình, làm cho dứt hẳn ngã kiến, hữu tình kiến, mạng giả kiến, nhơn kiến, hữu
kiến, vô kiến, đoạn kiến, thường kiến v.v... y theo nghĩa như thế nên gọi là Bồ
tát.
Khi ấy,
Thiện Hiện cũng bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Con nay muốn nói về nghĩa của đại Bồ tát. Cúi xin Thế Tôn cho phép.
Phật bảo
Thiện Hiện:
- Tùy ý
ngươi nói.
Thiện Hiện
bạch:
- Bạch Thế
Tôn! Vì các Bồ tát phát Bồ đề tâm, Vô đẳng đẳng tâm; còn Thanh văn, Độc giác
thì không thể phát tâm, như vậy. Vì sao? Vì tâm Nhất thiết trí là chơn thật vô
lậu, không rơi vào ba cõi, chẳng nên đối trong mà sanh chấp đắm. Nương nghĩa
như thế gọi là Ma ha tát.
Xá lợi Tử
hỏi Thiện Hiện:
- Nhân duyên
thế nào mà đối với tâm như vậy cũng không chấp trước?
Thiện Hiện
thưa:
- Các tâm như thế là chẳng phải là tâm tánh nên
không chấp trước.
Khi ấy Mãn
Từ Tử cũng bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Con nay muốn nói về nghĩa của đại Bồ tát. Cúi xin Thế Tôn cho phép.
Phật bảo Mãn
Từ Tử:
- Tùy ý
ngươi nói.
Mãn Từ Tử
thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Do các Bồ tát làm lợi ích an vui khắp tất cả hữu tình nên mặc áo giáp đại
nguyện, huớng thẳng đến Đại thừa, cỡi xe lớn, nên gọi là đại Bồ tát.
Khi ấy Thiện
Hiện bạch Phật:
- Như Thế
Tôn dạy: Các đại Bồ tát mặc áo giáp đại nguyện. Vậy đạt tới trình độ nào gọi là
các đại Bồ tát mặc giáp đại nguyện?
Phật bảo
Thiện Hiện:
- Các đại Bồ
tát nghĩ như vầy: Ta nên độ thoát vô lượng, vô số, vô biên hữu tình vào cảnh
giới Vô dư y bát Niết bàn. Tuy làm việc như vậy nhưng không có pháp và các hữu
tình đắc Niết bàn. Vì sao? Vì thật tánh các pháp của nó là như vậy. Ví như nhà
ảo thuật hoặc học trò của ông ta, ở giữa ngã tư đường hóa làm đại chúng, giết
hại lẫn nhau. Ý ngươi thế nào? Trong ấy có việc giết hại lẫn nhau thật không?
Thiện Hiện
bạch:
- Thưa
không. Bạch Thế Tôn!
Phật bảo
Thiện Hiện:
- Các đại Bồ
tát cũng như vậy, tuy thị hiện độ thoát vô lượng, vô số, vô biên hữu tình vào
cảnh giới Vô dư y bát Niết bàn nhưng không có pháp và các hữu tình đắc Niết
bàn. Nếu Bồ tát nào nghe việc như vậy không kinh, không sợ, cũng không thối lui
thì nên biết Bồ tát này là người mặc áo giáp đại nguyện.
Khi ấy,
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Theo con hiểu nghĩa Phật đã nói, các
đại Bồ tát không mặc áo giáp đại nguyện thì nên biết đó là mặc áo giáp đại
nguyện.
Phật bảo
Thiện Hiện:
- Đúng như
vậy! Đúng như vậy! Vì sao? Vì Nhất thiết trí trí không tạo, không tác. Tất cả
hữu tình cũng không tạo, không tác. Các Bồ tát vì muốn lợi ích hữu tình kia nên
mặc áo giáp đại nguyện. Vì sao? Vì sắc chẳng phải tạo, chẳng phải không tạo;
chẳng phải tác, chẳng phải không tác. Thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải
tạo, chẳng phải không tạo; chẳng phải tác, chẳng phải không tác. Vì sao? Vì sắc
cho đến thức bất khả đắc vậy.
Cụ thọ Thiện
Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật nói: Sắc cho đến thức không nhiễm, không tịnh. Vì
sao? Vì sắc không buộc không mở. Thọ, tưởng, hành, thức cũng không buộc không
mở.
Khi ấy, Mãn
Từ Tử hỏi Thiện Hiện:
- Tôn giả
nói sắc không buộc không mở; nói thọ, tưởng, hành, thức cũng không buộc không
mở, phải không?
Thiện Hiện
đáp:
- Đúng như
vậy ! Đúng như vậy!
Mãn Từ Tử
hỏi:
- Tôn giả
nói những sắc nào không buộc không mở? Nói những thọ, tưởng, hành, thức nào
cũng không buộc không mở?
Thiện Hiện
thưa:
- Tôi nói
sắc như huyễn sĩ, không buộc không mở. Nói thọ, tưởng, hành, thức như huyễn sĩ,
cũng không buộc không mở. Vì sao? Vì sắc cho đến thức vô sở hữu nên không buộc không mở, xa lìa nên không buộc không mở, tịch tịnh nên không buộc không mở, không sanh diệt nên không buộc không mở. Đây gọi là Bồ tát mặc áo
giáp đại nguyện hướng thẳng đến Đại thừa.
Khi ấy, Mãn
Từ Tử nghe thuyết như vậy, hoan hỷ tín nhận, ngồi lặng thinh.
(Sao gọi là
Đại thừa?)
Bấy giờ,
Thiện Hiện bạch Phật:
- Các đại Bồ
tát phát tới Đại thừa, sao là Đại thừa, sao là Bồ tát phát tới Đại thừa? Đại
thừa như thế từ chỗ nào ra, đến trụ chỗ nào? Ai nương Đại thừa này mà ra?
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Nói Đại thừa ấy tức nói vô lượng vô số vô biên công đức chung lại mà
thành vậy.
Sao là Bồ
tát phát tới Đại thừa, nghĩa là các Bồ tát siêng tu sáu thứ Ba la mật-đa, năng
từ một bậc tiến tới một bậc, đấy gọi Bồ tát phát tới Đại thừa. Đại thừa như thế
từ chỗ nào ra, đến trụ chỗ nào, nghĩa là Đại thừa đây từ trong ba cõi ra, đến
trụ trong Nhất thiết trí trí, nhưng đem
không hai làm phương tiện nên không ra không trụ. Ai nương Đại thừa này ra,
không có kẻ nương Đại thừa này ra cả. Vì sao? Vì hay nương bị nương hai pháp
như thế đều vô sở hữu. Trong vô sở hữu ai nương pháp nào khá gọi kẻ nương?
Cụ thọ Thiện
Hiện bạch Phật:
- Đại thừa như vậy hơn khắp tất cả thế gian trời
người, A tu la v.v… Đại thừa như vậy ngang đồng với hư không. Ví như hư không
có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Đại thừa cũng như vậy,
có thể dung chứa khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Lại như hư không,
không đến, không đi, không ở, không có thể thấy; Đại thừa cũng vậy, không đến,
không đi, không ở, không có thể thấy. Lại như hư không, tiền tế, hậu tế, trung
tế hoàn toàn không thể đắc; Đại thừa cũng vậy, hoàn toàn không thể đắc tiền tế,
hậu tế, trung tế, ba đời bình đẳng nên gọi là Đại thừa.
Phật bảo
Thiện Hiện:
- Lành thay!
Lành thay! Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ngươi nói.
Khi ấy, Mãn
Từ Tử bạch Phật:
- Kính bạch
Thế Tôn! Trước đây Thế Tôn dạy Đại đức Thiện Hiện tuyên dạy Bát nhã Ba la mật
cho các chúng Bồ tát, mà nay vì lẽ gì lại nói Đại thừa?
Thiện Hiện
bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Con thuyết Đại thừa sẽ không trái vượt Bát nhã Ba la mật.
Phật bảo
Thiện Hiện:
- Ngươi
thuyết Đại thừa hoàn toàn thuận với Bát Nhã, không có trái vượt.
Cụ thọ Thiện
Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Con hoàn toàn không nắm bắt được tiền tế, hậu tế, trung tế của Bồ tát, vì
sắc vô biên nên Bồ tát cũng vô biên. Thọ, tưởng, hành, thức vô biên nên Bồ tát
cũng vô biên. Ngay nơi sắc lìa sắc, Bồ tát vô sở hữu, bất khả đắc. Ngay nơi
thọ, tưởng, hành, thức, lìa thọ, tưởng, hành, thức, Bồ tát cũng vô sở hữu, bất
khả đắc.
Như vậy,
bạch Thế Tôn! Con đối với tất cả pháp này đem tất cả chủng loại, tất cả nơi
chốn, tất cả thời gian để tìm các Bồ tát, cũng hoàn toàn không thấy đâu cả,
hoàn toàn bất khả đắc, thì làm sao bảo con chỉ dạy Bát nhã Ba la mật cho các Bồ
tát?
(Bồ tát chỉ
là giả danh?)
Lại nữa,
kính bạch Thế Tôn! Nói Bồ tát chỉ có giả
danh, hoàn toàn không có tự tánh.
Như nói ngã thảy rốt ráo chẳng sanh, chỉ có giả danh trọn không tự tánh. Các
pháp cũng vậy, hoàn toàn không sanh, chỉ có giả danh, hoàn toàn không có tự
tánh. Trong đây những gì gọi là sắc hoàn toàn không sanh? Nếu hoàn toàn không
sanh thì không thể gọi là sắc. Những gì gọi là thọ, tưởng, hành, thức hoàn toàn
không sanh? Nếu hoàn toàn không sanh thì không thể gọi là thọ, tưởng, hành,
thức.
Bạch Thế
Tôn! Sắc là Bồ tát bất khả đắc. Thọ, tưởng, hành, thức là Bồ tát cũng bất khả
đắc. Bất khả đắc này cũng bất khả đắc. Con đối với tất cả pháp như vậy, đem tất
cả chủng loại, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian tìm các Bồ tát hoàn toàn bất khả
đắc thì sẽ dạy những pháp nào, tu những pháp nào, ở những nơi chốn nào, thời
gian nào và chứng những pháp nào?
Lại nữa,
bạch Thế Tôn! Chư Phật, Bồ tát và Bát Nhã sâu xa chỉ có giả danh, hoàn toàn
không có tự tánh. Như nói: ngã rốt ráo chẳng sanh, chỉ có giả danh, hoàn toàn
không có tự tánh. Các pháp cũng vậy, chỉ có giả danh, hoàn toàn không có tự
tánh. Những gì là sắc đã không thể nắm giữ, cũng không thể sanh? Những gì là
thọ, tưởng, hành, thức đã không thể nắm giữ, cũng không thể sanh? Tự tánh các
pháp đã không thể nắm giữ, cũng không thể sanh? Nếu pháp không tánh thì cũng
không thể sanh. Pháp không sanh này cũng không thể sanh, thì con làm sao có thể
đem Bát Nhã sâu xa hoàn toàn không sanh để dạy cho các Bồ tát hoàn toàn chẳng
sanh?
Bạch Thế
Tôn! Lìa pháp không sanh, không có pháp để có thể đắc. Cũng không có Bồ tát có
thể thực hành quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bạch Thế
Tôn! Nếu Bồ tát nghe nói lời này không kinh, không sợ thì nên biết Bồ tát này
có thể thực hành Bát Nhã sâu xa. Vì sao? Vì nếu khi Bồ tát thực hành Bát Nhã
sâu xa quán sát các pháp thì ngay khi ấy, Bồ tát liền không thủ sắc. Vì sao? Vì
sắc không sanh tức là chẳng phải sắc, sắc không diệt cũng chẳng phải sắc. Đã
không sanh, không diệt tức là không hai, không riêng. Nên nói sắc tức nhập vào
pháp số không hai. Nếu khi Bồ tát thực hành Bát Nhã sâu xa, quán sát các pháp
thì khi ấy Bồ tát không chấp thủ thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì thọ, tưởng,
hành, thức không sanh tức là không phải thọ, tưởng, hành, thức. Thọ, tưởng,
hành, thức không diệt, cũng không phải là thọ, tưởng, hành, thức. Đã không sanh
không diệt tức là không hai, không riêng. Nên nói thọ, tưởng, hành, thức tức
nhập vào pháp số không hai.
Khi ấy Xá
lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Như tôi
hiểu nghĩa Ngài nói, các Bồ tát v.v... hoàn toàn không sanh, nếu vậy thì do
duyên nào có các Bồ tát vì độ vô lượng, vô số hữu tình mà tu trăm ngàn hạnh khổ
khó hành, chịu đủ vô lượng khổ lớn sanh tử?
Thiện Hiện
thưa:
- Chẳng phải
tôi đối với pháp vô sanh kia cho rằng có Bồ tát vì độ vô lượng, vô số hữu tình
mà tu trăm ngàn hạnh khổ khó hành, chịu đủ vô lượng khổ lớn sanh tử. Nhưng các
Bồ tát tuy làm việc này mà ngay trong đó không nghĩ tưởng hạnh khổ. Vì sao? Này
Xá lợi Tử! Vì nếu đối với hạnh khổ, phát sanh tưởng hạnh khổ thì không thể làm
lợi ích cho vô lượng, vô biên hữu tình. Thế nên Bồ tát đối với các hạnh khổ
phát sanh tưởng hạnh vui; đối với hạnh khó hành, phát sanh tưởng dễ hành; đối
với các hữu tình phát sanh ý tưởng như cha mẹ và chính bản thân mình. Vì độ cho
người kia nên phát Bồ đề tâm, nhờ đó mới có thể làm được những việc lợi ích
lớn.
Khi ấy, Bồ
tát tư duy: Như tự tánh đối với tất cả pháp, đem tất cả chủng loại, tất cả nơi
chốn, thời gian tìm không thể được. Các pháp trong ngoài cũng như vậy, hoàn
toàn không sở hữu, hoàn toàn bất khả đắc. Nếu trụ tưởng này thì chẳng thấy có
hạnh khổ khó hành. Nhờ vậy, có thể vì vô biên hữu tình tu trăm ngàn hạnh khổ
khó hành, làm lợi ích lớn cho các loài hữu tình.
Xá lợi Tử
hỏi Thiện Hiện:
- Các Bồ tát
này thật không sanh, phải không?
Thiện hiện
thưa:
- Đúng như
vậy! Đúng như vậy! Tất cả Bồ tát đều thật không sanh.
Xá lợi Tử
hỏi:
- Chỉ có Bồ
tát thật không sanh, hay là Nhất thiết trí cũng thật không sanh?
Thiện hiện
thưa:
- Nhất thiết
trí cũng thật không sanh.
Xá lợi Tử
hỏi:
- Là chỉ
Nhất thiết trí thật không sanh, hay là các phàm phu cũng thật không sanh?
Thiện hiện
thưa:
- Các phàm
phu cũng thật không sanh.
Xá lợi Tử
hỏi:
- Nếu các Bồ
tát thật không sanh thì pháp của các Bồ tát cũng phải không sanh. Nếu Nhất
thiết trí thật là vô sanh thì pháp Nhất thiết trí cũng phải không sanh. Nếu
phàm phu thật là không sanh thì pháp phàm phu cũng phải không sanh. Nếu vậy, Bồ
tát được Nhất thiết trí, có phải đối với pháp vô sanh mà chứng vô sanh, phải
không?
Thiện hiện
đáp:
- Ý tôi
không cho rằng trong pháp vô sanh có đắc, có chứng. Vì sao? Vì trong pháp vô
sanh không có chứng đắc vậy.
Xá lợi Tử
hỏi:
- Là cho
rằng pháp sanh chứng pháp sanh, hay là cho rằng pháp vô sanh chứng pháp vô
sanh?
Thiện hiện
thưa:
- Ý tôi
không cho rằng pháp sanh chứng pháp sanh. Cũng không cho rằng pháp vô sanh
chứng pháp vô sanh.
Xá lợi Tử
hỏi:
- Là cho
rằng pháp sanh chứng pháp vô sanh, hay
là cho rằng pháp vô sanh chứng pháp
sanh?
Thiện hiện
thưa:
- Ý tôi
không cho rằng pháp sanh chứng pháp vô sanh. Cũng không cho rằng pháp vô sanh
chứng pháp sanh.
Xá lợi Tử
hỏi:
- Nếu như
vậy thì lẽ ra không đắc, không chứng?!
Thiện hiện
thưa:
- Tuy có đắc
có chứng, nhưng chẳng phải thật có.
Xá lợi Tử
hỏi:
- Là cho
rằng pháp chưa sanh, sanh; hay là cho rằng pháp đã sanh, sanh?
Thiện hiện
thưa:
- Ý tôi
không cho rằng pháp chưa sanh, sanh. Cũng không cho rằng pháp đã sanh, sanh.
Xá lợi Tử
hỏi:
- Vì cho
rằng sanh sanh, hay là cho rằng không sanh sanh?
Thiện hiện
đáp:
- Ý tôi
không cho rằng sanh, sanh. Cũng không cho rằng không sanh, sanh.
Xá lợi Tử
hỏi:
- Ngài thuyết
pháp không sanh là muốn biện thuyết tướng không sanh, phải không?
Thiện Hiện
thưa:
- Tôi đối
với sự thuyết về pháp vô sanh cũng không muốn diễn thuyết tướng vô sanh.
Xá lợi Tử
hỏi:
- Đối với
pháp vô sanh, phát sanh lời nói vô sanh. Lời nói vô sanh này cũng vô sanh, phải
không?
Thiện hiện
thưa:
- Từ nơi
pháp vô sanh phát sanh lời nói vô sanh. Pháp và lời này đều là nghĩa vô sanh,
nhưng vì tùy thuận thế tục nên nói tướng vô sanh.
Xá lợi Tử
khen Thiện Hiện:
- Trong
những vị thuyết pháp, Ngài là người đứng đầu. Trừ Phật Thế Tôn ra, không ai có
thể bằng Ngài. Vì sao? Vì tùy theo sự gạn hỏi về vô số pháp môn, Ngài đều có
thể trả lời được cả.
Thiện Hiện
nói:
- Đệ tử của
chư Phật không hệ thuộc, dính mắc vào tất cả pháp. Vì lẽ đó nên đều có thể tùy
theo sự gạn hỏi mà mỗi mỗi tự tại đáp lại, không sợ. Vì sao? Vì tất cả pháp không có sự hệ thuộc vậy.
Khi ấy, Xá
lợi Tử bảo Thiện Hiện:
- Lành thay!
Lành thay! Nếu các Bồ tát có thể tùy theo câu hỏi mà trả lời như vậy là nhờ
những oai lực của Ba la mật nào mà được thành tựu?
Thiện Hiện
thưa:
- Đây là nhờ
oai lực của Bát nhã Ba la mật mà được thành tựu. Vì sao? Vì nói tất cả pháp
không sự tùy thuộc là chính nhờ Bát nhã
Ba la mật mà thông suốt được tất cả pháp không sự hệ thuộc.
Xá lợi Tử!
Nếu Bồ tát nghe lời như vậy, tâm không hoang mang, cũng không nghi ngờ, thì nên
biết Bồ tát này có thể trụ được hạnh trụ như thế, không xả ly, cũng không xa
lìa tác ý đại bi.
Xá lợi Tử
hỏi Thiện Hiện:
- Nếu các Bồ
tát trụ được hạnh trụ như thế, có thể không xả bỏ, cũng có thể không xa lìa tác
ý như vậy, thì tất cả hữu tình đều chính là Bồ tát. Vì sao? Vì tất cả hữu tình
cũng trụ hạnh này và tác ý này, thường không xả bỏ tánh bình đẳng của Bát Nhã
đại bi, vậy thì các Bồ tát cùng các hữu tình lẽ ra phải không sai khác?
Thiện Hiện
thưa:
- Lành thay!
Lành thay! Tuy rằng giống như hỏi tôi nhưng mà giúp cho tôi được hiểu nghĩa. Vì
sao? Xá lợi Tử! Vì tất cả hữu tình không có tự tánh nên biết trụ và tác ý như
thế cũng không có tự tánh. Tất cả tánh hữu tình xa lìa, nên biết tánh của trụ
và tác ý như thế cũng xa lìa. Tất cả hữu tình không biết rõ nên phải biết trụ
và tác ý như vậy cũng không biết rõ. Do nhân duyên như vậy, các Bồ tát này trụ
vào tác ý như thế không xa lìa, cùng với các hữu tình không sai khác. Nếu các
Bồ tát biết rõ như thế không bị trở ngại thì chính là hành Bát nhã Ba la mật. Ý
của tôi là muốn làm cho tất cả Bồ tát đem ý nghĩ này thực hành Bát Nhã sâu xa.
Thích nghĩa:
(1). Trong pháp hội thứ V này có đến vạn hai ngàn tỳ kheo là các A la hán và
vô số Bồ tát ở các nơi đến tham dự. Xin đừng hiểu lầm với số tỳ kheo của Tăng
đoàn. Tăng đoàn của Phật Thích ca Mâu ni chỉ có 1250 tỳ kheo mà thôi. Số tỳ
kheo tham dự pháp hội này lên hơn vạn là do các nơi đến vân tập, không riêng
thế giới Kham Nhẫn.
(2). Đoạn Kinh (in
đậm nét) này nguyên văn bằng chữ Hán
là:
“時thời . 舍Xá 利Lợi 子Tử 問vấn 善thiện 現hiện 言ngôn .
為vi 有hữu 是thị 心tâm 非phi 心tâm 性tánh 不phủ .
善thiện 現hiện 反phản 問vấn 舍Xá 利Lợi 子Tử 言ngôn .
心tâm 非phi 心tâm 性tánh 若nhược 有hữu 若nhược 無vô 為vi 可khả 得đắc 不phủ.
舍Xá 利Lợi 子Tử 言ngôn .
不phủ 也dã . 善thiện 現hiện .
善thiện 現hiện 便tiện 語ngữ 舍Xá 利Lợi 子Tử 言ngôn .
心tâm 非phi 心tâm 性tánh 若nhược 有hữu 若nhược 無vô 既ký 不bất 可khả 得đắc . 如như 何hà 可khả 問vấn 為vi 有hữu 是thị 心tâm 非phi 心tâm 性tánh 不phủ .
時thời . 舍Xá 利Lợi 子Tử 問vấn 善thiện 現hiện 言ngôn .
何hà 等đẳng 名danh 為vi 心tâm 非phi 心tâm 性tánh .
善thiện 現hiện 答đáp 言ngôn .
若nhược 無vô 變biến 壞hoại 亦diệc 無vô 分phân 別biệt . 是thị 則tắc 名danh 為vi . 心tâm 非phi 心tâm 性tánh”.
Việt dịch
là:
“Khi ấy, Xá
lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Tâm này có
phải tâm tánh chăng?
Thiện Hiện
hỏi lại Xá lợi Tử:
- Tâm chẳng
phải là tâm tánh, hoặc có hoặc không có thể đắc phải không?
Xá lợi Tử
thưa:
- Thưa
không, Thiện Hiện!
Thiện Hiện
lại bảo:
- Này Xá lợi
Tử! Tâm chẳng phải tâm tánh, hoặc có hoặc không đã không thể đắc. Như vậy, thì
làm sao có thể hỏi tâm này có phải là tâm tánh không?
Khi ấy, Xá
lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Những gì
gọi là tâm chẳng phải tâm tánh?
Thiện Hiện
đáp:
- Nếu không
hư hoại, cũng không sai khác thì chính đó gọi là tâm, chẳng phải tâm tánh”.
Cùng một đoạn Kinh viết trong năm Hội:
1- Hội thứ I: Phẩm
“Khuyến Học” quyển 36;
2- Hội thứ II: Phẩm “Vào Ly Sanh” quyển 408;
3- Hội thứ III: Phẩm “Thiện Hiện” quyển 484;
4- Hội thứ IV: Phẩm “Diệu Hạnh” quyển 538 và
5- Hội thứ V: Phẩm “Thiện Hiện” quyển 556.
Ý thì giống
nhau, chỉ khác cách chuyển ngữ và dịch thuật. Mấu chốt ở các từ:
Tâm(心): Nguồn
gốc của mọi ý thức, suy tưởng, cảm thọ có thể là vọng hay chân.
Tánh(性): Trong nghĩa bản tánh là cái thường trụ, chẳng
đổi dời, nhiễm tịnh.
Tâm là tâm, tánh
là tánh, ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Bây giờ, ghép hai chữ Tâm(心) và
Tánh(性) với
nhau để có từ kép là Tâm tánh(心性) thì
rất khó giải thích. Nếu nói bản tánh
hay bổn tánh của tâm thì có thể hiểu là cái bất biến dịch, bất hoại, vô nhiễm...
vốn tịch tịnh, chân thật nên gọi là chân tâm(nói theo đệ nhất nghĩa đế hau bản
hữu). Ai cũng có tâm này, nhưng tùy theo điều kiện chung quanh mà sanh ra nhiễm
tịnh nên mới có phàm Thánh.
Phi tâm tánh(非心性) hay nói gọn là phi tâm tức “Tâm không” nghĩa là đối với trần cảnh tâm không
sanh diệt, đổi dời thì gọi là tâm không(phi tâm) hay vô niệm, vô tâm.
Sau đây là thí dụ về các đoạn Kinh nguyên gốc bằng chữ
Hán trong Hoavouu.com của các pháp Hội khác nhau, đã tạo thành những khó khăn
cho người học đạo qua cách chuyển ngữ cũng như dịch thuật:
1- Một đoạn Kinh khác trong phẩm
cũng có tên là “Thiện Hiện”: Quyển 484, Hội thứ III, lại diễn tả:
Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:
- Những gì
gọi là phi tâm tánh?
Thiện Hiện đáp:
- Tất cả
pháp không biến đổi, không phân biệt thì gọi là phi tâm tánh
2- Trong khi đoạn Kinh khác thuộc
phẩm “Diệu Hạnh”, quyển 538, Hội thứ IV, diễn tả hoàn toàn khác:
Xá Lợi Tử hỏi:
- Tánh của
cái không phải tâm gọi là gì?
Tu Bồ Đề nói:
- Tất cả
không hoại, xa lìa phân biệt, chính là cái tâm không phải tâm.
3- Chúng ta phải hiểu như thế nào về
các câu hỏi cũng như câu trả lời của Xá Lợi Tử và Thiện Hiện trong phẩm “Thiện
Hiện”, quyển 556, Hội thứ V:
- Những gì
gọi là tâm chẳng phải tâm tánh?
Câu trả lời của Thiện Hiện còn bí
nhiệm hơn:
- Nếu không hư
hoại, cũng không sai khác thì chính đó gọi là tâm, chẳng phải tâm tánh.
(Có thể
chúng tôi hiểu sai về từ ngữ cùng lối dịch này chăng? Chúng tôi thích lối dịch
của phẩm “Diệu Hạnh”, quyển 538, Hội thứ IV, TBBN hơn. Vì dễ hiểu: “Tất cả không hoại, xa lìa phân biệt, chính là cái tâm
không phải tâm”). Tâm không phải tâm nên gọi là phi tâm.
(3). Luân(輪): Là bánh xe hay vòng tròn.
Lược giải:
Gợi ý:
Phải nói đây
là một phẩm rất cô động, nên trong bố cục mở đầu Hội này đã nói: “Nội dung rất
vắn tắt so với bốn Hội trước”. Mở đầu cho Hội thứ V này là phẩm “Thiện Hiện”,
chỉ chiếm có nữa phần đầu của quyển 556, trong khi Hội thứ I chiếm hơn 70
quyển. Nói nhiều thì loãng, nói ít thì thiếu! Quý vị muốn được đầy đủ, xin đọc
lại các Hội trên! Nhưng phải nói phẩm này của Hội thứ V cũng lược tóm nhiều
giáo lý của các phẩm khác gọp lại giống như Hội thứ III chẳng hạn.
1. Quan niệm về tất cả pháp:
Phẩm “Thiện
Hiện” được thuyết minh ở đây cũng giống như tất cả phẩm “Thiện Hiện” của các
hội khác. Khi Phật bảo Ngài Thiện Hiện thuyết giảng Bát nhã Ba la mật cho các
Bồ tát, không phải Thiện Hiện thối thất nhiệm vụ do Phật giao phó mà Ngài chỉ
muốn nói lên quan điểm của Ngài: Chẳng đắc Bồ tát, chẳng đắc pháp Bồ tát và
cũng chẳng đắc Bát nhã Ba la mật. Vậy làm sao dạy bảo trao truyền cho các Bồ
tát?
Ngay mở đầu
phẩm này, Kinh muốn nói Bồ tát chỉ là giả danh, pháp chỉ là giả pháp, nên mục
tiêu tu tập các thiện pháp để trở thành Vô Thượng Giác ngộ cũng chẳng thể chứng
đắc. Tất cả phản biện này đưa đến một chuỗi dài dẫn đến tánh Không mà mấu chốt
của giáo lý là muốn đưa hành giả Bát Nhã chứng nghiệm thật tánh các pháp và tánh như như, bình đẳng của chúng để cuối
cùng đạt được cái thanh tịnh tuyệt đối của tâm hay còn gọi là Niết bàn tịch
tĩnh.
Lần lượt
Kinh chứng minh: Các pháp là huyễn, là mộng, các pháp là không, không có tự
tánh, vô sở hữu bất khả đắc, chỉ là giả danh, giả pháp, không sanh không diệt,
không nhiễm không tịnh… Các pháp không tự thấy các pháp, các pháp cũng không
thấy các pháp khác, các pháp như vậy là như vậy, bởi vì nó như vậy, chẳng lúc
nào chẳng như, nên gọi là Như như, các pháp như tức bình đẳng và bình đẳng đây được
coi là tịnh.
Nếu hành giả
Bát Nhã quán và thấy biết như vậy mà không kinh, không sợ, không hối thì biết
có thể tu hành Bát Nhã và có cơ hội đắc Nhất thiết trí trí, đắc Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác, thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, lăn bánh xe pháp,
độ vô số hữu tình.
2. Vô sở trụ:
Vì biết tất
cả pháp là không, vô sở hữu bất khả đắc, nên không bám trụ vào bất cứ pháp nào.
Một khi có chỗ bám thì liền có dính mắc, hành theo sở hành nên điên đảo được
mất có không. Vì có bám nên có chấp, vì chấp cho nên có chướng. Vì vậy, trong
Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài Quán Tự Tại mới gọi Xá lợi Phất mà bảo
rằng: “Này Xá Lợi Phất! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là
không, không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng lại như thế. Này Xá Lợi Phất!
Tướng Không của các pháp không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không
thêm không bớt. Cho nên trong tướng Không, không có sắc, không có thọ tưởng hành
thức; không có mắt tai mũi lưỡi thân ý; không có sắc thanh hương vị xúc pháp;
không có nhãn giới cho đến ý thức giới; không có vô minh cũng không hết vô
minh, cho đến không có già chết cũng không hết già chết; không có khổ tập diệt
đạo, không có trí tuệ cũng không có chứng đắc. Vì không có chỗ được nên Bồ tát y theo Bát nhã Ba la mật đa tâm không
ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo mộng tưởng mà
đạt đến cứu cánh Niết bàn”.
Tất cả đều
không, rốt ráo không. Tất cả đều bất khả đắc, bất khả đắc cũng bất khả đắc nốt,
nên nói là tất cánh không! Vậy còn chỗ nào để trụ, chỗ nào để bám, chỗ nào để
dính mắc mà nói đến chứng hay không chứng. Nếu không trụ, không đắc, không dính
mắc thì làm gì có chướng ngại! Kinh nói “trụ chỗ
không có chỗ trụ là trụ không, nên nói là vô sở trụ, vô sở trụ đậy mới được gọi
là chân trụ”.
3. Phạm Chí Thắng quân và ly tướng:
Kinh nói
rằng: “Nếu lấy tướng tu đắc Nhất thiết trí trí ấy, Phạm chí Thắng Quân đối
Nhất thiết trí trí chẳng nên tin hiểu. Thắng Quân Phạm chí này do sức tin hiểu
quay về Phật pháp gọi tùy tín hành, mà năng đem chút ít trí quán tất cả pháp tánh không mà ngộ nhập Nhất thiết
trí trí. Đã ngộ vào rồi, chẳng thủ tướng sắc, cũng chẳng thủ tướng thọ tưởng
hành thức. Chẳng lấy vui mừng quán thấy trí đây, chẳng lấy cái nghe quán thấy
trí đây. Chẳng lấy nội sắc quán thấy trí đây, chẳng lấy ngoại sắc quán thấy trí
đây, chẳng lấy nội ngoại sắc quán thấy trí đây, cũng chẳng lìa sắc quán thấy
trí đây. Chẳng lấy nội thọ tưởng hành thức quán thấy trí đây, chẳng lấy ngoại
thọ tưởng hành thức quán thấy trí đây, chẳng lấy nội ngoại thọ tưởng hành thức
quán thấy trí đây, cũng chẳng lìa thọ tưởng hành thức quán thấy trí đây.
Thắng Quân
Phạm chí dùng các môn ly tướng như thế thảy đối Nhất thiết trí trí rất sanh tin
hiểu, gọi tùy tín hành, đối tất cả pháp đều không lấy đắm. Như vậy, Phạm chí
dùng môn ly tướng đối Nhất thiết trí trí được tin hiểu rồi, đối tất cả pháp đều
chẳng lấy tướng, cũng chẳng suy gẫm các pháp vô tướng. Như vậy Phạm chí do sức
thâm hiểu, đối tất cả pháp chẳng lấy chẳng bỏ, không chứng, không đắc. Khi Phạm
chí kia đối với sự tin hiểu cho đến Niết bàn cũng chẳng lấy đắm, vì lấy chơn
pháp tánh làm định lượng vậy.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát do Bát nhã
Ba la mật sâu xa chẳng nhiếp thọ sắc, cũng chẳng nhiếp thọ thọ tưởng hành thức.
Dù đối các pháp không sở nhiếp thọ, nếu chưa viên mãn Như Lai mười lực, bốn vô
sở úy, bốn vô ngại giải và mười tám pháp Phật bất cộng thảy, quyết chẳng giữa
đường vào bát Niết bàn. Phải biết đại Bồ tát này đối với Bát nhã Ba la mật dù
không lấy đắm mà năng thành xong Nhất thiết trí trí, lợi ích an vui tất cả hữu
tình”.
Phạm Chí
Thắng quân do sức tin hiểu quay về Phật pháp gọi tùy tín hành, mà năng đem chút
ít trí quán tất cả pháp tánh không, ngộ nhập Nhất thiết trí trí. Một khi đã ngộ
vào, không thủ tướng các uẩn, dùng các môn ly tướng đối với các pháp đều không
lấy đắm, cũng chẳng tư duy về pháp vô tướng. Đối với tất cả pháp chẳng lấy
chẳng bỏ, không chứng không đắc cho đến Niết Bàn cũng chẳng chấp đắm, Vì sao? Vì bản tánh tất cả pháp đều không,
không thể nắm giữ.
Các Bồ tát
chứng đắc Bát Nhã cũng lại như vậy. Đối với tất cả pháp không có chấp trước,
chẳng nhiếp chẳng thọ các uẩn, tu tập các pháp Phật cho được viên mãn, quyết
giữa đường không nhập Niết bàn, thì phải biết các vị tu hành Bát Nhã như thế
năng thành xong Nhất thiết trí trí, lợi ích yên vui tất cả hữu tình.
Bởi vì, một khi chấp thủ tướng thì theo tướng mà hành.
Theo tướng hành thì không tránh khỏi chướng ngại, nên Kinh bảo: Thủ đắc tướng
chỉ thêm phiền não!
4. Học các pháp như thế nào?
Kinh viết:
“Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Giả sử có người đến hỏi thế này: Huyễn sĩ nếu học Nhất thiết trí trí thì
người đó cũng có thể thành tựu Nhất thiết trí trí phải không? Được hỏi như vậy
thì con trả lời như thế nào?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ta hỏi lại ngươi, tùy ý ngươi trả lời. Huyễn khác
với sắc, thọ, tưởng, hành, thức phải không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Huyễn chẳng khác sắc, sắc chẳng khác
huyễn, huyễn chính là sắc, sắc chính là huyễn. Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều
như thế.
Phật bảo
Thiện Hiện:
- Ý ngươi
thế nào? Trong năm thủ uẩn khởi tất cả tưởng đều thi thiết là Bồ tát phải không?
Thiện Hiện
bạch:
- Đúng như
vậy! Bạch Thế Tôn!
Phật bảo
Thiện Hiện:
- Các Bồ tát
tu học Bát nhã Ba la mật cầu thẳng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tất
cả đều như huyễn sĩ tu học. Vì sao? Vì huyễn sĩ chính là năm thủ uẩn vậy. Vì
sao? Vì Ta nói năm thủ uẩn: Nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt v.v... sáu căn đều như huyễn
hóa, hoàn toàn không có thật”.
Học như
huyễn như hóa, học mà không mong cầu nắm bắt, cứ như hư không mà học, sớm thành
tựu giác ngộ, đạt Nhất thiết trí trí, mau chứng Vô thượng Bồ đề.
Chỉ riêng phẩm “Thiện Hiện” mở đầu cho pháp hội thứ V
cho chúng ta thấy văn từ của pháp hội này rất gãy gọn, tư tưởng lại rất xúc
tích dễ hiểu. Vậy, đọc thêm một pháp hội tương đương với các pháp hội khác,
không có nghĩa là vô bổ. Ôn tập tất cả Hội là để bổ túc cho nhau. Đó chính là
lợi ích của việc trì tụng Kinh điển!
---o0o---
II. PHẨM
“THIÊN ĐẾ”
Phần sau
quyển 556, Hội thứ V, ĐBN.
Tóm lược:
Khi ấy, trời Đế Thích cùng bốn vạn
Thiên tử đồng đến hội. Bốn Thiên Vương hộ thế cùng hai vạn Thiên tử đồng đến
hội. Đại Phạm Thiên Vương chủ cõi Sách ha cùng một vạn Phạm chúng đồng đến hội.
Lại có năm ngàn chúng trời Tịnh cư cũng đến dự. Nghiệp quả và ánh sáng nơi thân
của các chúng trời này ở trước oai quang của Phật đều không thể phát ra được. (Q.556, ĐBN)
Khi ấy, trời Đế Thích bạch Thiện
Hiện:
- Nay có vô lượng các Thiên tử muốn
nghe Đại đức tuyên thuyết chỉ dạy Bát nhã Ba la mật. Cúi xin Đại đức thương xót
chỉ dạy cho họ biết thế nào là Bồ tát nên
trụ Bát nhã Ba la mật.
Thiện Hiện bảo Đế Thích:
- Tôi nương thần lực của Phật tuyên
thuyết chỉ dạy Bát nhã Ba la mật cho các chúng trời chỗ nên an trụ của các Bồ
tát. Thiên tử các ông, người nào chưa phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề thì nay nên phát. Những vị đã nhập vào Chánh tánh ly sanh của Thanh văn, Độc
giác thì không thể phát tâm đại Bồ đề. Vì sao? Này Kiều thi ca! Vì những người
đó đối với giòng sanh tử đã lâu có hạn cách vậy. Trong đó nếu có vị nào phát
tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì tôi cũng tùy hỷ. Vì sao? Kiều thi ca!
Vì các bậc thắng nhân nên cầu thắng pháp. Tôi trọn đối với phẩm loại thiện
thắng kia chẳng có trở ngại.
Thế Tôn khen Thiện Hiện:
- Lành thay! Lành thay! Ông khéo
khuyên bảo các Bồ tát.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Con đã biết ơn, sao lại không trả
ơn. Nghĩa là Phật và các đệ tử quá khứ đã dạy cho các Bồ tát nhiều loại pháp
yếu, muốn làm phương tiện thâm nhập Bát nhã Ba la mật. Bấy giờ, Như Lai cũng
học trong pháp đó, nay chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển vận bánh
xe diệu pháp, làm lợi ích cho chúng con, cho nên nay con y theo lời Phật dạy:
Bảo vệ, hộ niệm các Bồ tát này, làm cho mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề, chuyển vận bánh xe diệu pháp, làm lợi ích an vui cho tất cả. Chính đó là
đáp đền ơn đức kia.
Khi ấy, Thiện Hiện bảo với Đế Thích:
- Chư Thiên các ông nên lắng nghe.
Ta sẽ nói về tướng đáng trụ Bát Nhã của các chúng Bồ tát cho các ông.
Kiều thi ca! Các chúng Bồ tát bằng
đại thệ trang nghiêm, hướng thẳng đến Đại thừa thì nên dùng tướng Không để an trụ Bát nhã Ba la mật; không nên trụ sắc,
cũng không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức. Không nên trụ quả Dự lưu, cũng không
nên trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Cũng không nên trụ
đây là sắc. Cũng không nên trụ đây là thọ, tưởng, hành, thức. Không nên trụ đây
là quả Dự lưu, cũng không nên trụ đây là quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc
giác Bồ đề. Không nên trụ sắc, thọ,
tưởng, hành, thức hoặc thường hoặc vô thường, hoặc khổ hoặc vui, hoặc ngã hoặc
vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, Không hoặc bất Không.
Không nên trụ quả Dự lưu cho đến Độc
giác Bồ đề đều là sự hiển bày vô vi, là phước điền chơn thật đáng thọ nhận cúng
dường. Không nên trụ quả Dự lưu còn trở lại bảy lần cuối cùng, chắc chắn sẽ
nhập Niết bàn. Không nên trụ quả Nhất lai chưa đạt đến Niết bàn, còn trở lại
cõi này một lần nữa, chắc chắn dứt sạch các khổ. Không nên trụ quả Bất hoàn
diệt độ ở cõi kia, không còn trở lại nữa. Không nên trụ quả A la hán ngay đời này
chắc chắn nhập vô dư Niết bàn. Không nên trụ quả Độc giác, vượt địa vị Thanh
văn, không đến địa vị Phật mà vào Niết bàn. Không nên trụ địa vị Phật, hiển bày
vô vi là ruộng phước chơn thật đáng thọ nhận sự cúng dường, vượt qua các địa vị
Thanh văn, Độc giác v.v... làm lợi ích an vui cho vô lượng, vô số hữu tình làm
cho nhập vào cảnh giới Vô dư Niết bàn. (Q.556,
ĐBN)
(Tất cả pháp đều như huyễn hóa kể cả Niết bàn)
Khi ấy, Xá lợi Tử nghĩ: Nếu như vậy
thì Bồ tát sẽ trụ ở đâu?
Thiện Hiện đọc được ý nghĩ trong tâm
Xá lợi Tử, liền bảo:
- Ý tôn giả thế nào? Tâm Như Lai trụ
ở chỗ nào?
Xá lợi Tử thưa Thiện Hiện:
- Tâm Như Lai là hoàn toàn không chỗ
trụ. Vì không trụ nên gọi là Như Lai. Nghĩa là không trụ cảnh giới hữu vi, cũng
không trụ cảnh giới vô vi, cũng không phải không trụ.
Thiện Hiện thưa:
- Bồ tát cũng vậy. Như các đức Như
Lai đối với tất cả pháp, tâm không trụ, cũng không phải không trụ. Nghĩa là các
Bồ tát đối với Bát Nhã sâu xa, dùng vô sở đắc để làm phương tiện. Nên trụ như
vậy, nên học như vậy.
Khi ấy, các Thiên tử thầm nghĩ: Tất
cả câu chú của các Dược xoa với vô số sai khác, mặc dù là bí nhiệm nhưng chúng
ta còn có thể biết, còn Đại đức Thiện Hiện đối với Bát Nhã sâu xa, tuy dùng vô
số lời lẽ để chỉ rõ nhưng chúng ta hoàn toàn chẳng hiểu được gì cả.
Đoán biết được ý nghĩ của chư Thiên,
cụ thọ Thiện Hiện bảo với họ:
- Tôi đối trong ấy không nói không
chỉ, các ngươi cũng chẳng nghe, đòi hiểu cái gì.
Khi ấy, các Thiên tử lại khởi nghĩ
này: Tôn giả Thiện Hiện đối trong nghĩa ấy muốn khiến dễ hiểu mà càng thêm sâu
sắc nhỏ nhiệm khó nổi so lường!
Biết được ý nghĩ của Thiên tử kia,
cụ thọ Thiện Hiện bảo Thiên tử:
- Có những người muốn chứng, muốn
trụ quả vị Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, bậc Độc giác và quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật thì cần phải nương vào nhẫn này mới có thể
chứng, mới có thể trụ được.
Các Thiên tử lại nghĩ: Đại đức Thiện
Hiện hôm nay muốn vì những hữu tình nào và tuyên thuyết những pháp gì?
Biết được ý nghĩ của các Thiên tử,
cụ thọ Thiện Hiện bảo với họ:
- Tôi nay muốn vì hữu tình như huyễn
thuyết pháp như huyễn. Người kia đối với sự giảng thuyết không nghe, không
hiểu, không chứng vậy.
Các Thiên tử lại nghĩ: Là người nghe
pháp và pháp như huyễn, hay là hữu tình và quả Dự lưu v.v... khác cũng đều như
huyễn cả?
Biết được ý nghĩ của Thiên tử nên
Thiện Hiện bảo với họ:
- Các loài hữu tình khác hoặc quả Dự
lưu, quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, A la hán, Độc giác, quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật cũng đều như huyễn cả.
Khi ấy, chư Thiên hỏi Thiện Hiện:
- Chẳng lẽ sự chứng đắc quả vị Vô
thượng Bồ đề của các đức Như Lai cũng đều như huyễn sao?
Thiện hiện đáp:
- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Cho
đến Niết bàn cũng như huyễn.
Các Thiên tử hỏi Thiện Hiện:
- Lẽ nào Niết bàn cũng như huyễn?
Thiện hiện bảo:
- Giả sử có pháp cao hơn Niết bàn
chăng nữa thì pháp ấy cũng lại như huyễn, huống là Niết bàn. Vì sao? Này các
Thiên tử! Vì huyễn cùng hữu tình và tất cả pháp cho đến Niết bàn không hai,
không riêng, đều bất khả đắc, bất khả thuyết vậy.
Khi ấy, Xá lợi Tử cùng Chấp Đại Tạng
Mãn Từ Tử, Đại Ẩm Quang v.v... hỏi Khánh Hỷ:
- Tư tưởng Bát Nhã sâu xa như vậy ai
là người có thể tin nhận được?
Khánh Hỷ thưa:
- Có các chúng Bồ tát Bất thối
chuyển, đối với sự thuyết Bát Nhã sâu xa này có thể tin nhận. Lại có vô lượng
hữu tình đầy đủ chánh kiến và các A la hán nguyện viên mãn đối với Bát Nhã sâu
xa… này cũng có thể tin nhận.
Khi ấy, Thiện Hiện thưa:
- Bát Nhã sâu xa được thuyết như
vậy, không ai có thể tin nhận được, là vì sao? Vì trong đây không có pháp để có
thể hiển bày, không có pháp để chỉ dạy, nên người tin nhận cũng bất khả đắc.
Khi ấy, trời Đế Thích nghĩ: Tôn giả
Thiện Hiện rưới trận mưa pháp lớn. Ta nên hóa làm hương hoa vi diệu để dâng lên
cúng dường.
Nghĩ như vậy, liền hóa ra các hương
hoa vi diệu dâng lên Thiện Hiện. Khi ấy, Thiện Hiện nghĩ: Hoa này của chư Thiên
chưa từng thấy. Hoa nhiệm mầu này nhất định chẳng phải do đất, nước, cỏ cây
sanh ra được, mà chính là từ nơi tâm của chư Thiên hóa ra.
Biết tâm niệm của Thiện Hiện, trời
Đế Thích thưa với Thiện Hiện:
- Hoa này thật chẳng phải do đất,
nước, cỏ cây sanh ra; cũng chẳng phải từ tâm chư Thiên hóa ra; vì hoa đã rải
tánh không sanh vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:
- Hoa này không sanh thì không phải
hoa.
Khi ấy, trời Đế Thích nghĩ: Tôn giả
Thiện Hiện trí tuệ rộng sâu, chẳng hoại giả danh mà nói thật nghĩa.
Nghĩ như vậy xong, bạch Thiện Hiện:
- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như
lời tôn giả dạy, các chúng Bồ tát đối với các pháp nên theo sự thuyết giảng của
tôn giả mà học.
Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:
- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói, các chúng Bồ tát đối với
các pháp đều nên theo thuyết giảng của tôi mà học.
Kiều thi ca! Các chúng Bồ tát theo
lời tôi thuyết, khi học Bát Nhã sâu xa như vậy không học theo quả Dự lưu, không
học theo quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Không học theo Bồ đề của bậc Độc
giác. Nếu không học theo các bậc này thì chính là học Nhất thiết trí trí của
chư Phật. Nếu học Nhất thiết trí trí của chư Phật thì chính là học vô lượng, vô
biên Phật pháp. Nếu học vô lượng, vô biên Phật pháp thì chính là không học sắc, thọ, tưởng, hành, thức có
tăng giảm. Nếu không học sắc, thọ, tưởng, hành, thức có tăng giảm thì không
học sắc, thọ, tưởng, hành, thức có thủ
có xả. Nếu chẳng học sắc thọ tưởng hành thức, có thủ có xả, thời chẳng học
tất cả pháp có thể nhiếp thọ và có thể
hoại diệt. Nếu chẳng học tất cả pháp có thể nhiếp thọ và có thể hoại diệt,
chúng các Bồ tát khi học như thế gọi là chơn học Nhất thiết trí trí, chóng
chứng được Nhất thiết trí trí.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện
rằng:
- Nếu các Bồ tát chẳng học Nhất
thiết trí trí có thể nhiếp thọ và có thể hoại diệt, các Bồ tát này khi học như
thế gọi là chơn học Nhất thiết trí trí, chóng chứng được Nhất thiết trí trí ư?
Thiện hiện đáp:
- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Vì lấy vô sở đắc làm phương tiện vậy.
(Bồ tát học Bát Nhã thẩm sâu nên cầu ở đâu?)
Trời Đế Thích hỏi Xá lợi Tử :
- Bồ tát học Bát Nhã sâu xa nên cầu
ở đâu?
Xá lợi Tử thưa:
- Bồ tát học Bát Nhã sâu xa nên cầu trong lời dạy của Ngài Thiện Hiện.
Trời Đế Thích hỏi Thiện Hiện:
- Nhờ thần lực của ai hộ trì mà Xá
lợi Tử nói được như thế?
Thiện hiện thưa:
- Nhờ thần lực của Như Lai hộ trì
nên khiến Xá lợi Tử nói được như vậy.
Trời Đế Thích hỏi:
- Lại thần lực của ai hộ trì mà tôn
giả có thể thuyết Bát Nhã sâu xa?
Thiện Hiện đáp:
- Nhờ thần lực của Như Lai hộ trì
nên khiến tôi có thể thuyết Bát Nhã sâu xa.
Kiều thi ca! Ông hỏi Bồ tát học Bát
Nhã sâu xa nên cầu ở đâu?
Kiều thi ca! Bồ tát học Bát Nhã sâu
xa không nên ngay nơi sắc cầu; không nên
lìa sắc cầu; không nên ngay nơi thọ, tưởng, hành, thức cầu; không nên lìa
thọ, tưởng, hành, thức cầu. Vì sao? Vì sắc chẳng phải Bát nhã Ba la mật, cũng
chẳng phải lìa sắc riêng có Bát nhã Ba la mật. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng
phải Bát nhã Ba la mật; cũng chẳng phải lìa thọ, tưởng, hành, thức riêng có Bát
nhã Ba la mật.
Trời Đế Thích bạch Thiện Hiện:
- Bát Nhã sâu xa là đại Ba la mật,
là vô lượng Ba la mật, là vô biên Ba la mật.
Thiện Hiện đáp:
- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Vì
sao? Này Kiều thi ca! Vì sắc vô biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.
Vì thọ, tưởng, hành, thức vô biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.
Lại nữa, Kiều thi ca! Sở duyên vô
biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.
Kiều thi ca! Thế nào là sở duyên vô
biên, nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên? Nghĩa là biên giới trước,
giữa, sau của tất cả pháp đều bất khả đắc, nên nó là vô biên. Pháp vô biên nên
sở duyên vô biên. Do vậy nên Bát nhã Ba la mật này cũng nói là vô biên.
Lại nữa, Kiều thi ca! Tất cả pháp vô
biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.
Kiều thi ca! Thế nào là tất cả pháp
vô biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên? Nghĩa là biên giới của
tất cả pháp không thể đạt. Vì sao? Vì biên giới trước, giữa, sau của sắc cho
đến thức đều không thể đạt. Do đó, biên giới trước, giữa, sau của Bát nhã Ba la
mật này cũng không thể đạt, nên nói vô biên.
Lại nữa, Kiều thi ca! Hữu tình vô
biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.
Kiều thi ca! Thế nào là hữu tình vô
biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên?
Kiều thi ca! Chẳng phải số lượng
loài hữu tình quá nhiều, không thể tính đếm được mà nói là vô biên.
Trời Đế Thích thưa:
- Vậy thì vì nghĩa gì nên nói như
vậy?
Thiện Hiện bảo:
- Nay tôi hỏi ông, tùy ý ông trả
lời. Ý ông thế nào? Hữu tình ấy thuộc pháp nghĩa nào?
Trời Đế Thích thưa:
- Nói hữu tình là chẳng thuộc pháp
nghĩa nào cả. Chỉ là sở nhiếp giả lập khách danh, sở nhiếp vô sự danh, sở nhiếp
vô duyên danh.
Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:
- Ý ông thế nào? Trong đây có hữu
tình chơn thật để có thể chỉ rõ chăng?
Trời Đế Thích thưa:
- Thưa không, bạch Đại Đức!
Thiện Hiện bảo:
- Vì hữu tình không thật để có thể chỉ rõ được nên nói là vô biên.
Kiều thi ca! Ý ông thế nào? Giả sử
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trải qua số kiếp nhiều như cát sông Hằng, dùng vô
biên âm thanh để nói vô lượng danh tự của loài hữu tình. Trong đây có hữu tình
chân thật có sanh có diệt không?
Trời Đế Thích thưa:
- Thưa không, bạch Đại đức! Vì sao?
Vì các hữu tình bản tánh thanh tịnh vậy.
Thiện Hiện bảo:
- Do đây nên nói hữu tình vô biên,
nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên. Vì vô tánh thẳm sâu đều vô biên
vậy.
Sơ giải:
Phẩm “Thiên
Đế” của Hội thứ V này tương đương với hai phẩm là: “Thiên Đế” (từ Q.77 đến
Q.81) và “Chư Thiên Tử”(từ Q. 81 đến Q. 82) của Hội thứ I. Nếu Quý vị không nhớ
và không tự chiết giải được, thì xin quay lại tụng đọc hai phẩm của Hội thứ I
vậy.
---o0o---