II. PHẨM “THÔNG
ĐẠT hay THÔNG SUỐT”.
Phần cuối
quyển 566, Hội thứ VI, ĐBN.
Gợi ý:
Ý nghĩa của
phẩm này không khác với các phẩm “Thông Đạt” nằm rải rác trong các Hội trước.
Nhưng cách diễn đạt thâm thúy hơn. Kinh nhấn mạnh về việc học tập và thực hành
10 pháp Ba la mật thì thông đạt tuệ tức có thể sang được bờ kia.
Tóm lược:
Khi ấy, có Thiên vương tên là Tối
Thắng (1), từ chỗ
ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân Phật, phủ vai bên trái, gối phải quỳ sát đất,
chắp tay cung kính bạch Thế Tôn:
- Con có chút nghi, muốn hỏi Phật,
nếu được Thế Tôn cho phép, con mới dám thưa.
Phật bảo trời Tối Thắng:
- Thiên Vương! Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác tùy theo mối nghi sẽ giải thích cho ngươi.
Trời Tối Thắng được Phật cho phép,
vui mừng hớn hở, liền bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát làm
sao tu học một pháp mà có thể thông đạt
tất cả pháp?
Phật bảo Tối Thắng:
- Lành thay! Lành thay! Ngươi có thể
thưa hỏi Như Lai nghĩa sâu xa như thế. Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe và suy nghĩ
kỹ, Ta sẽ giải đáp điều nghi cho ngươi.
Trời Tối Thắng bạch:
- Cúi xin Thế Tôn! Con nguyện được
nghe.
Phật bảo Tối Thắng:
- Thiên vương nên biết! Các đại Bồ tát tu học một pháp mà có thể
thông đạt tất cả pháp, pháp đó là Bát
nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ tát tu học Bát nhã Ba la mật thì có thể thông đạt
bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, phương tiện thiện xảo, diệu
nguyện, lực, trí Ba la mật (2).
Này Thiên
vương! Thế nào là các Bồ tát tu học Bát nhã Ba la mật thì có thể thông đạt bố thí Ba la mật?
Thiên vương nên biết! Nếu đại Bồ tát
tu học Bát nhã Ba la mật thì có thể hành diệu
pháp thí Ba la mật. Nghĩa là
dùng tâm thanh tịnh không có điều mong cầu, thuyết pháp cho người chẳng cầu
danh lợi, chỉ vì diệt khổ, chẳng thấy mình là người thuyết, chẳng thấy người
kia nghe; không hai không khác, vì lìa tự tánh.
Nếu đại Bồ tát tu học Bát nhã Ba la
mật thì có thể hành Vô úy thí Ba la mật
(3). Nghĩa là quán hữu tình giống như cha mẹ, anh em, bà con thân thích,
làm cho tất cả mọi người đều gần gũi mình. Vì sao? Vì từ vô thỉ đến giờ lưu
chuyển trong sáu nẻo đều làm bà con thân thích. Nếu các hữu tình ở chỗ nguy nan
sợ hãi, còn đem thân mạng mà cứu giúp họ, huống lại đem tâm não hại họ. Chẳng
thấy mình là người bố thí sự không sợ hãi cho người kia, chẳng thấy kia là
người nhận; không hai không khác, vì lìa tự tánh.
Nếu đại Bồ tát tu học Bát nhã Ba la
mật thì có thể hành Bố thí Tư sanh Ba la
mật. Nghĩa là tùy theo hữu tình cần dùng những vật gì thì bố thí cho họ
những vật ấy và dạy cho họ tu hành mười thiện nghiệp đạo. Chẳng thấy mình là
người bố thí của cải riêng của mình cho người kia, chẳng thấy kia là người thọ
nhận; không hai, không khác, vì lìa tự tánh.
Nếu đại Bồ tát tu học Bát nhã Ba la
mật thì có thể hành Bố thí bất vong báo Ba
la mật. Nghĩa là khi hành bố thí chẳng mong cầu quả báo. Bồ tát bố thí tự
nhiên như thế, chẳng thấy mình là người bố thí, chẳng cầu quả báo và chẳng thấy
quả báo của sự bố thí; không hai không khác, vì lìa tự tánh.
Nếu Bồ tát tu học Bát nhã Ba la mật
thì có thể hành Đại bi thí Ba la mật.
Nghĩa là thấy hữu tình bần cùng, già bệnh, không có người cứu giúp, phát khởi
tâm đại bi mà phát thệ nguyện: Khi ta đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, làm
chỗ nương tựa cho các hữu tình, vì các hữu tình nên đem chút căn lành hồi hướng
Bồ đề, cũng chẳng phân biệt mình là người cứu tế, kia là người nhận lãnh; không
hai, không khác, vì lìa tự tánh.
Nếu đại Bồ tát tu học Bát nhã Ba la
mật thì có thể hành Cung kính thí Ba la
mật. Nghĩa là tùy theo hữu tình cần vật gì, liền tự kính dâng, chẳng để cho
người nhận mong chờ mỏi mệt, chẳng thấy mình là người hành thí cung kính, chẳng
thấy kia là người nhận lãnh; không hai, không khác, vì lìa tự tánh.
Nếu đại Bồ tát tu học Bát nhã Ba la
mật thì có thể hành tôn trọng thí Ba la
mật. Nghĩa là đối với hữu tình phát sanh tưởng như bậc Sư tăng, hoặc tưởng
như cha mẹ, với tâm tôn trọng mà bố thí. Nếu không có tài vật để ban cho thì dùng thiện ngôn mà cho, chẳng thấy mình
là người hành thí tôn trọng, chẳng thấy kia là người nhận lãnh; không hai,
không khác, vì lìa tự tánh.
Nếu đại Bồ tát tu học Bát nhã Ba la
mật thì có thể hành Cúng dường thí Ba la
mật. Nghĩa là thấy bảo tháp, hoặc thấy chỗ ở của chư Tăng thì nên dọn quét,
rưới nước, đem các thứ hương hoa và đèn sáng v.v... cúng dường. Nếu thấy tôn
tượng và chánh pháp khuyết tổn thì nên siêng năng tu sửa, biên tập. Nếu thấy
Tăng chúng thì nên đem thức ăn uống, đồ nằm, thuốc men để cúng dường, chẳng
thấy mình là người làm việc cúng dường, chẳng thấy kia là người nhận lãnh;
không hai, không khác, vì lìa tự tánh.
Nếu đại Bồ tát tu học Bát nhã Ba la
mật thì thường hành bố thí Vô y chỉ Ba
la mật. Nghĩa là khi thực hành bố thí chẳng nghĩ: Nguyện nhờ bố thí này
được sanh cõi trời, người, làm vua trời, người, giàu sang, phú quý, hưởng thọ
sự vui suớng, cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng chẳng chấp thủ,
mong cầu, vì không sở đắc.
Này Thiên
vương! Đó gọi là các đại Bồ tát tu học Bát Nhã, có thể thông đạt bố thí Ba la
mật.
Này Thiên
vương! Thế nào là các Bồ tát tu học Bát nhã Ba la mật có thể thông đạt tịnh giới Ba la mật?
Thiên vương nên biết! Nếu đại Bồ tát
tu học Bát nhã Ba la mật thì có thể hành tịnh giới Ba la mật. Nghĩa là các Bồ
tát suy nghĩ: Phật ở trong tịnh giới chỉ dạy Tỳ nại da, thuyết giới Kinh tương
ưng với Biệt giải thoát, Bồ tát nên học, chẳng thấy giới tướng và người thọ
trì, chẳng đắm trước giới kiến, cũng chẳng chấp trước ngã; tất cả đều không
hai, không khác, vì lìa tự tánh.
Nếu đại Bồ tát tu học Bát nhã Ba la
mật thì có thể hành tịnh giới Ba la mật. Nghĩa là các Bồ tát suy nghĩ: Quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật chẳng phải chỉ thọ trì tịnh giới liền
đắc, cần phải học khắp giới hành Bồ tát, giới tánh trong mát, tịch tĩnh vô
sanh, tất cả đều không hai không khác vì lìa tự tánh.
Nếu đại Bồ tát tu học Bát nhã Ba la mật thì có
thể hành tịnh giới Ba la mật, nghĩa là các Bồ tát suy nghĩ: Thế nào là trì giới
có thể dứt trừ phiền não?
Phiền não có ba thứ là: Tham, sân,
si. Mỗi phiền não này lại có ba bậc là thượng, trung, hạ. Muốn dứt trừ phiền
não phải biết đối trị. Kẻ tham tăng thượng tu
quán bất tịnh. Kẻ sân tăng thượng tu quán
từ bi. Kẻ si tăng thượng tu quán
duyên khởi. Chẳng thấy năng quán và pháp sở quán, không hai không khác, vì
lìa tự tánh.
Nếu đại Bồ tát tu học Bát nhã Ba la
mật thì có thể hành tịnh giới Ba la mật. Nghĩa là các Bồ tát suy nghĩ: Bồ tát
xa lìa tư duy bất chánh như thế nào? Là các Bồ tát chẳng phát khởi tâm: Ta hành
tịch tịnh, hành hạnh viễn ly, hành Không, còn các Sa môn, Bà la môn v.v... khác
đều không hành viễn ly, hành Không v.v... lại thích ở chỗ huyên náo tạp nhiễm.
Nếu Bồ tát hành Bát Nhã thấy không hai không khác, biết lìa tự tánh, lìa tức
diệt tà niệm.
Nếu đại Bồ tát học Bát nhã Ba la mật
thì có thể hành tịnh giới Ba la mật, nghĩa là các Bồ tát dù biết các pháp lìa
mà vẫn sợ tội. Như Phật đã nói nên trì tịnh giới, tu các phước nghiệp cho đến Bát
nhã Ba la mật. Đối với tội nhỏ nhưng mối lo lớn, chẳng giữ trong lòng. Vì Thế
Tôn dạy: “Ví như thuốc độc nhiều ít đều có hại”.
Nếu đại Bồ tát tu học Bát nhã Ba la
mật thì có thể hành tịnh giới Ba la mật.
Nghĩa là các Bồ tát thường sanh sợ hãi tương ưng với Tín hạnh. Giả sử ở chỗ
vắng vẻ đơn độc một mình, không có bạn bè, có Sa môn v.v... đem các thứ vật báu
như vàng, bạc, lưu ly, trân châu gởi cho Bồ tát. Bồ tát không khởi tâm tham lấy các thứ đó, mà suy nghĩ: Thế Tôn thường
dạy, thà phải tự cắt thịt nơi thân mình mà ăn, chứ của cải của người không cho
thì chẳng lấy.
Nếu đại Bồ tát tu học Bát nhã Ba la
mật thì có thể hành tịnh giới Ba la mật. Nghĩa là các Bồ tát trì giới vững
vàng. Nếu các ác ma và quyến thuộc của ma dùng
sắc đẹp để thử Bồ tát, Bồ tát đối với sắc đẹp kia tâm chẳng dao động mà tư
duy: Thế Tôn thường dạy, sắc v.v... các pháp đều như mộng, huyễn hóa, không
hai, không khác, vì lìa tự tánh.
Nếu đại Bồ tát tu học Bát nhã Ba la
mật thì có thể hành tịnh giới Ba la mật. Nghĩa là các Bồ tát tuy siêng năng trì
giới nhưng chẳng mong cầu ngôi vua trời, người, thân lìa ba lỗi, miệng dứt bốn lầm, ý tránh ba tội. Trì giới chẳng
thấy ta trì, chẳng thấy giới tướng; không hai, không khác, vì lìa tự tánh.
Này Thiên
vương! Đó gọi là các Bồ tát tu học Bát
Nhã có thể thông đạt tịnh giới Ba la mật.
Này Thiên
vương! Thế nào là các Bồ tát tu học Bát nhã Ba la mật có thể thông đạt an nhẫn Ba la mật?
Thiên vương nên biết! Nếu đại Bồ tát
tu học Bát nhã Ba la mật thì có thể hành an nhẫn Ba la mật. Nghĩa là các Bồ tát
thường học nội nhẫn, hoàn toàn chẳng
lệ thuộc ưu sầu khổ não, cũng học ngoại
nhẫn. Nếu người đánh đập, mắng chửi, khi dễ, cướp đoạt, lăng nhục, hoàn
toàn không sân giận, cũng học pháp nhẫn
như Thế Tôn dạy: Thật tánh sâu xa không pháp, không ngã, không sanh, tịch tịnh,
tức là Niết bàn.
Nghe nói như thế, tâm không kinh sợ,
suy nghĩ: Chẳng học pháp ấy làm sao có thể đắc sở cầu là quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề, có thể lợi ích an vui cho các loài hữu tình cùng tận đời vị lai.
Suy nghĩ kỹ: Các độc tham, sân, si như thế là ở chỗ nào khởi lên? Nhân duyên
nào sanh? Nhân duyên nào diệt? Quán sát
đúng như thật đều chẳng thấy có năng sanh, sở sanh, năng diệt, sở diệt. Tâm
nhẫn như thế liên tục chẳng dứt, ngày đêm các thời không xen hở; đối với
cảnh nhẫn không có tâm lựa chọn, nghĩa là đối với quốc vương, cha mẹ, Sư trưởng
v.v… mình phải tu nhẫn cả sự gia hại khác.
Bồ tát hành nhẫn chẳng vì sự trả ơn,
danh lợi, nhân nghĩa, sợ hãi, xấu hổ. Bồ tát nên hành nhẫn tự nhiên như thế.
Nếu người kia gia hại, đánh đập, nhục mạ, xâm chiếm, cướp đoạt, khinh khi, lăng
nhục, tâm cũng chẳng lay động. Nếu Bồ tát ở ngôi vua, địa vị đại thần v.v... có
người bần tiện hủy mắng, sỉ nhục, hoàn toàn không vội vàng tỏ thái độ thị uy: Ta
ở ngôi vị cao sang nên theo pháp là phải quở phạt, mà chỉ nghĩ: Thuở xưa ta ở
chỗ Phật Thế Tôn phát thệ nguyện rộng lớn là đối với tất cả hữu tình ta đều cứu
giúp, khiến cho được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nay nếu khởi tâm sân
thì trái với nguyện xưa.
Ví như thầy thuốc giỏi, phát lời thề
như vầy: Thế gian đui mù ta đều chữa lành. Nếu mắt mình không sáng thì đâu có
thể chữa lành cho ai được. Như thế, Bồ tát vì trừ tối tăm cho người mà tự mình
phát sanh giận dữ thì làm sao cứu họ cho được? Chẳng thấy mình nhẫn và sự nhẫn
được; không hai, không khác, vì lìa tự tánh.
Này Thiên
vương! Đó gọi là các đại Bồ tát tu học
Bát Nhã có thể thông đạt an nhẫn Ba la mật.
Này Thiên
vương! Thế nào làm cho các Bồ tát tu học Bát Nhã có thể thông đạt tinh tấn Ba la mật?
Thiên vương nên biết, nếu đại Bồ tát
tu học Bát nhã Ba la mật thì có thể hành tinh tấn Ba la mật. Nghĩa là các Bồ
tát đối với chúng sanh chưa diệt, khiến diệt, chưa độ khiến độ, chưa thoát
khiến thoát, chưa an khiến an, chưa giác khiến giác. Khi Bồ tát hành tinh tấn
như thế, có các ác ma làm đình trệ, nói với Bồ tát: “Thiện nam tử! Bạn chớ tu
hạnh này, luống uổng nhọc nhằn. Vì sao? Vì ta xưa kia từng tu hạnh này nhưng
hoàn toàn không có lợi ích chân thật. Ta từ xưa đến nay thấy nhiều Bồ tát tu
học hạnh này và đều thối lui. Bạn nên hồi tâm tu đạo Nhị thừa, lấy quả Nhị thừa
để tự diệt độ”.
Bồ tát nghe xong liền biết là ác ma,
bảo: “Ngươi hãy lui đi! Tâm ta vững chắc giống như kim cương, chẳng phải vì lời
sai lầm của ngươi có thể làm thối thất đạo Bồ đề. Ngươi cố gây trở ngại, luôn
luôn tự khổ”. Ma nghe lời này liền biến. Nếu Bồ tát chưa đắc Bát nhã Ba la mật,
tu năm pháp Ba la mật trước, trải qua trăm ngàn kiếp, hành tinh tấn như thế còn
chưa có thể vượt qua, huống là bậc Nhị thừa. Như thế, Bồ tát tu hành Bát nhã Ba
la mật, thành tựu Phật pháp, đều lìa các việc ác. Mặc dù hành tinh tấn, chẳng
mau chẳng chậm mà phát nguyện lớn: Mong ta được thân giống như Thế Tôn, có nhục
kế trên đỉnh đầu, có lông trắng giữa chặng mày, Phật chuyển pháp luân, ta cũng
có thể.
Ví như vàng ròng, các ngọc báu trang
sức thì đẹp đẽ, Bồ tát tinh tấn cũng như thế, lìa các cấu uế, nghĩa là lìa các
sự lười nhác biếng trễ, mỏi mệt, chẳng tự rõ biết, chẳng suy nghĩ đúng... nhờ
đấy có thể đạt được phước đức trí tuệ thanh tịnh thù thắng để trang nghiêm,
thân chẳng mỏi mệt, tâm chẳng chán lười. Tất cả pháp ác bất thiện làm trở ngại
đạo đều bị diệt trừ, các pháp trợ đạo hướng đến Niết bàn đều khiến tăng trưởng;
một chút ác chẳng khởi, huống chi nhiều.
Giả sử như Hằng sa thế giới mười
phương, trong đó tràn đầy lửa lớn như ngục Vô gián, ở thế giới này chỉ có một
hữu tình có thể độ được. Bồ tát vì hữu tình ấy còn cứu độ, huống là nhiều hữu
tình. Các Bồ tát này chẳng nghĩ: Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng dễ đắc
được. Bồ tát tu hành như cứu lửa cháy đầu, cần phải trải qua trăm ngàn ức kiếp,
gánh nặng như thế thật khó mang vác, mà chỉ nghĩ: Chư Phật quá khứ, hiện tại
đều tu hạnh này, chứng đại Bồ đề. Ta cũng như thế, nên chính mình tu tập. Thà
trăm ngàn kiếp ở trong địa ngục độ thoát các hữu tình, chứ hoàn toàn không bỏ
họ để mau tới Niết bàn.
Bồ tát khi tinh tấn tu hành như thế,
tâm chẳng tự cao, đối với người chẳng tự ti, chẳng thấy pháp năng hành và sở
hành; không hai, không khác, vì lìa tự tánh.
Này Thiên
vương! Đó gọi là các đại Bồ tát tu học Bát Nhã có thể thông đạt tinh tấn Ba la
mật.
Này Thiên
vương! Thế nào là các đại Bồ tát tu học Bát Nhã có thể thông đạt tịnh lự Ba la mật?
Thiên vương nên biết! Nếu đại Bồ tát
tu học Bát nhã Ba la mật thì có thể hành tịnh lự Ba la mật. Nghĩa là các Bồ tát
trồng sâu căn lành, đối với Đại thừa, đời đời kiếp kiếp tu nhiều diệu hạnh, gần
gũi bạn lành, chẳng sanh trong nhà bần tiện, tà kiến v.v... thường sanh trong
dòng họ Sát đế lợi, Bà la môn v.v... chánh tín Tam bảo, tăng trưởng pháp lành;
nhờ căn lành đời trước, phát khởi ý nghĩ: Hữu tình ngày đêm trôi lăn các nẻo,
luân hồi trong khổ não chẳng dừng, đều do tham ái. Bồ tát nghĩ xong, khởi tâm
nhàm chán, xa lìa, biết các xấu xa từ hư vọng phân biệt mà xuất sanh.
Trong Kinh, Thế Tôn dùng vô số
phương tiện giảng thuyết: Tội lỗi của
dục như gươm dài, mâu ngắn, như dao, như rắn, như bọt, như bèo, nhơ nhớp bất
tịnh, thay đổi vô thường. Vì sao người trí lại tham đắm pháp này? Vừa cạo
râu tóc xuất gia tu đạo, chưa thấy cho là thấy, chưa đắc cho là đắc, chưa chứng
cho là chứng; phải nghe thuyết thọ trì hoặc thế tục đế, hoặc thắng nghĩa đế,
như thật tu hành, như pháp quán sát, đó là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ,
Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định, xa lìa huyên
náo tạp nhiễm, chẳng màng danh dự, cũng chẳng cầu cung kính cúng dường, thân
tâm tinh tấn thường không lười bỏ. Tư duy tâm này phần nhiều đi cảnh nào? Là
thiện, là ác hay là vô ký? Nếu đi cảnh ác thì tức tốc chấm dứt. Nếu đi vô ký
cũng nên rời bỏ. Nếu đi cảnh thiện thì lập tức siêng năng tinh tấn, cố gắng làm
cho tăng trưởng căn lành thù thắng.
Vì muốn đối trị pháp ác bất thiện
nên lấy ba mươi bảy Bồ đề phần pháp mà trị. Các Ác nghiệp bất thiện đó là:
Tham, sân, si.
Tham lại có ba bậc là thượng, trung,
hạ:
Tham bậc thượng là nghe tên cảnh dục, lòng vui mừng
hớn hở, chẳng quán lỗi của dục, chẳng sanh nhàm lìa, tìm tòi phi lý, không có
xấu hổ. Người không xấu hổ, như một mình đi đến đâu, tâm thường nghĩ về cảnh
dục, liên tục chưa từng tạm nghỉ; chỉ thấy tốt đẹp, chẳng biết tội lỗi. Cha mẹ,
thầy bạn quở trách sự tham dục kia cũng không xấu hổ, vì chẳng biết nên phát
khởi tranh cãi. Như thế gọi là người không xấu hổ. Loại này chết sẽ đọa nẻo ác.
(Q.566, ĐBN)
Tham bậc trung là khi lìa cảnh dục,
dục tâm chẳng khởi.
Tham bậc hạ là chỉ cùng nói cười,
dục tình liền hết.
Sân cũng có ba bậc: Sân bậc thượng
là tức giận. Nếu phát khởi thì tâm mê, mắt loạn, hoặc tạo nhiệp vô gián, hoặc
hủy báng chánh pháp, hoặc tạo các nghiệp trọng tội khác, hơn ngũ vô gián nhiều
gấp trăm ngàn lần.
Sân bậc trung là do sân giận, tạo
các việc ác, lập tức sanh hối hận.
Sân bậc hạ là tâm không hiềm hận,
chỉ miệng chê trách, liền ăn năn.
Si cũng có ba bậc, nên biết đúng lý,
mặc dù quán như thế mà biết các pháp đều như huyễn, như mộng, tiếng vang, bóng
hình, bóng sáng, quáng nắng, sự biến hóa và ảo ảnh. Vì hư vọng điên đảo, thấy
chẳng thật. Cảnh giới bên ngoài diệt thì
trong tâm vắng lặng, chẳng thấy năng hành và pháp sở hành; không hai, không
khác, vì lìa tự tánh.
Này Thiên
vương! Đó gọi là các đại Bồ tát tu học Bát Nhã có thể thông đạt tịnh lự Ba la
mật.
Này Thiên
vương! Thế nào là các Bồ tát tu học Bát Nhã có thể thông đạt Bát nhã Ba la mật?
Thiên vương nên biết! Nếu các đại Bồ
tát tu học Bát nhã Ba la mật thì có thể hành Bát nhã Ba la mật. Đó là các Bồ tát chánh trí, quán sắc, thọ,
tưởng, hành, thức, chẳng thấy sắc sanh, chẳng thấy sắc tập, chẳng thấy sắc
diệt; thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế. Vì sao? Vì tự tánh đều là Không,
không có chơn thật, chỉ có hư giả thi thiết danh tự mà hành Bát nhã Ba la mật,
giáo hóa các hữu tình, trọn chẳng vì nói không nghiệp không quả. Mặc dù biết
các pháp đều như huyễn, mộng, vang, tượng, bóng sáng, ánh nắng, biến hóa, thành
tầm hương, hư dối, không có ngã, hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ
phu, bổ đặc già la… mà thường tuyên nói có nghiệp có quả.
Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật như
thế, quyến thuộc của ma chẳng được tiện lợi. Vì sao? Vì các Bồ tát này gần gũi
bạn lành, thành tựu pháp trợ Bồ đề, lìa pháp thế gian, hoan hỷ khen ngợi chánh
pháp sâu xa các các đức Như Lai. Chư thiên, Ma, Phạm và Sa môn, Bà la môn
v.v... trừ Phật chánh trí, không ai bằng được. Chẳng thấy năng hành và pháp sở
hành; không hai, không khác, vì lìa tự tánh.
Này Thiên
vương! Đó gọi là các đại Bồ tát tu học Bát Nhã có thể thông đạt Bát nhã Ba la
mật.
Này Thiên vương! Thế nào là các đại Bồ tát tu học Bát
nhã Ba la mật có thể thông đạt phương tiện thiện xảo Ba la mật?
Bồ tát học Bát nhã Ba la mật, hành Phương tiện thiện
xảo Ba la mật, Bồ tát khéo hồi hướng Vô thượng Chính đẳng Bồ đề. Nếu thấy hoa
quả thế gian tốt đẹp thường đem cúng dường chư Phật Bồ tát, ngày đêm sáu thời
từng không tạm bỏ, đem thắng thiện đây hồi hướng Bồ đề. Nếu nghe Khế Kinh Như
Lai nói nghĩa pháp sâu xa thì hoan hỷ tin nhận, ưa thích thọ trì đọc tụng và
nói lại cho người khác, đem diệu thiện này hồi hướng Bồ đề.
Nếu thấy bảo tháp, hình tượng Như
Lai thì liền đem các thứ hương hoa cúng dường, nguyện loài hữu tình lìa hương
phá giới, được hương giới thanh tịnh. Quét rưới đất bụi, nguyện các hữu tình uy
nghi tề chỉnh. Hoa lọng đèn lồng, nguyện các hữu tình đều lìa buồn bực. Vào
Tăng già lam (chùa hay tịnh xá),
nguyện các hữu tình đều vào Niết bàn; ra khỏi chỗ Tăng trụ, nguyện các hữu tình
ra khỏi cảnh ma. Thấy cửa Tăng mở, bèn phát nguyện: Đem trí xuất thế vì các hữu
tình mở cửa chưa mở, đều khiến ngộ nhập. Nếu thấy cửa đóng, nguyện các hữu tình
đóng cửa ba cõi, hoặc bốn nẻo ác.
Nếu được ngồi yên, nguyện các hữu
tình ngồi tòa Bồ đề. Nếu nằm hông phải, nguyện các hữu tình đều chứng Niết bàn.
Lúc ngồi nằm, dậy, nguyện các hữu tình lìa các mê lầm. Nếu khi rửa chân, nguyện
các hữu tình lìa bụi nhơ.
Nếu khi lạy Phật, hay nhiễu bên phải
bảo tháp, nguyện các hữu tình đều sẽ thành Phật, được trời người cung kính,
chẳng lấy đó làm vui mừng.
Nếu có ngoại đạo tà kiến khó giáo
hóa, bèn nghĩ: Nếu ta có làm thầy họ thì họ vẫn giữ sự kiêu mạn, chắc chắn
chẳng chịu tin. Hãy làm đồng học, hoặc làm đệ tử; tuy ở trong chúng của họ mà
giới hạnh đa văn hơn các ngoại đạo, nhân đây hàng phục họ, được họ tôn trọng
làm thầy, thì lời nói chắc chắn được tin nhận. Hủy bỏ tà pháp, nói chánh Niết
bàn, làm cho nhập vào giáo pháp thanh tịnh của Như Lai, tấn tu phạm hạnh tịnh
lự đẳng trì, đắc thần thông thù thắng, tu tất cả diệu thiện.
Thấy người đa dục hóa làm nữ nhơn
đẹp đẽ, khiến cho kẻ kia say mê, trong khoảng chốc lát thị hiện vô thường, nhan
sắc biến đổi, sình trương bủn nát, hôi thối, khiến cho chán ghét, nhờm gớm và
khởi tâm nhàm chán, xa lìa, liền hoàn phục hình cũ là hình tượng Bồ tát, nhân đó
nói pháp yếu sâu xa, khiến cho kẻ kia phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác,
tu hạnh Đại thừa, thành quả Vô thượng.
Thấy người Đại thừa xa lìa bạn lành
quen biết, tuy siêng năng tinh tấn học đạo Nhị thừa nhưng đối với quả đó không
thể chứng đắc, mất pháp lợi nơi Đại thừa Vô thượng, quán căn tánh của người
kia, thuyết Đại thừa cho họ, làm cho người đó hồi tâm, nhập đạo Vô thượng.
Người chưa phát tâm, giáo hóa làm cho phát tâm. Nếu đã phát tâm thì khuyên
khiến cho bền vững. Thấy người trì giới phạm tội nhẹ, chẳng hiểu để trình bày
sám hối nên lo sợ buồn rầu, thối lui; do đó không thể tấn tu đạo cao đẹp, thì
liền thuyết pháp cho họ, khiến họ mau sám hối để trừ diệt, tâm lìa buồn rầu,
tấn tu đạo cao đẹp. Các chúng Bồ tát ấy thiểu dục tri túc, chuyên cầu pháp lợi.
Vì các hữu tình thuyết về sự cúng dường Như Lai. Do đó liền thành tựu sáu Ba la
mật:
Thuyết pháp cúng dường, đó là bố thí
Ba la mật.
Hành động chẳng trái với lời nói, đó
là tịnh giới Ba la mật.
Các thiên ma v.v... chẳng thể não
loạn, đó là an nhẫn Ba la mật.
Tâm tiếp nối nhau chẳng biết mỏi
mệt, đó là tinh tấn Ba la mật.
Chuyên tâm nhất niệm, chẳng duyên
cảnh khác, đó là tịnh lự Ba la mật.
Thuyết pháp cúng dường, lìa ngã, ngã
sở, đó là Bát nhã Ba la mật.
Chẳng thấy năng hành và pháp sở
hành; không hai, không khác, vì lìa tự tánh.
Này Thiên vương! Đó gọi là Bồ tát tu
học Bát Nhã có thể thông đạt phương tiện
thiện xảo Ba la mật.
Này Thiên vương! Thế nào là các đại Bồ tát tu học có
thể thông đạt diệu nguyện Ba
la mật.
Thiên vương nên biết! Nếu đại Bồ tát tu học Bát nhã Ba
la mật thì có thể hành diệu nguyện Ba la mật. Nghĩa là các Bồ tát có các sở
nguyện chẳng vì được hưởng vui sướng khoái lạc thế gian, cũng chẳng vì mình cầu
ra khỏi ba cõi, tu đạo Nhị thừa, chứng Niết bàn an lạc, mà chỉ nguyện tất cả hữu tình đều nhập vào cõi Vô
dư Bát Niết bàn trước, mình thành chánh giác sau cùng. Người chưa phát tâm
thì giáo hóa làm cho phát tâm. Nếu đã phát tâm rồi thì làm cho họ tu đại hạnh.
Đã tu đại hạnh rồi thì làm cho được Bồ đề. Đắc Bồ đề rồi thì khuyên mời thuyết
pháp, lần lượt cho đến sau khi vào Niết bàn, dùng bảy báu tốt đẹp xây tháp, tôn
trí xá lợi, thiết lập sự cúng dường, làm cho vô lượng chúng đạt được phước vô
biên. (Q.566, ĐBN)
Lại phát nguyện rằng: Các thế giới
có Phật thành Chánh giác đều không thiên ma và các ngoại đạo làm rối loạn.
Nguyện do tự trí phát tâm vô thượng, chẳng nhờ duyên ngoài tuy phát mà thối lui
Lại phải nguyện: Ta thường ở thế
gian thành thục hữu tình, khiến cho đạt được lợi ích an lạc. Nguyện các Bồ tát
v.v... mới phát tâm, nếu nghe Như Lai thuyết pháp sâu xa, ngộ nhập đúng như
thật, tâm không kinh sợ. Nguyện các hữu tình đắc đại trí tuệ, đều thông suốt
hoàn toàn vô biên Phật đạo, vô biên Phật cảnh, vô biên đại bi, làm lợi ích vô
biên các loài hữu tình.
Các Bồ tát này phần nhiều lại nguyện tự thân thường sanh ở nước nhơ
uế, chẳng sanh cõi tịnh. Vì sao? Vì như có người bệnh mới nhờ thầy thuốc,
nếu không có bệnh tật thì thầy thuốc vô dụng. Bồ tát khi phát diệu nguyện như
thế, chẳng thấy năng hành và pháp sở hành; tất cả không hai, không khác, vì lìa
tự tánh.
Này Thiên vương! Đó gọi là các đại
Bồ tát tu học Bát Nhã có thể thông đạt
diệu nguyện Ba la mật.
Này Thiên vương! Thế nào là các đại Bồ tát tu học Bát
nhã Ba la mật có thể thông đạt Lực Ba la mật?
Thiên vương nên biết! Nếu các đại Bồ tát tu học Bát
nhã Ba la mật thì có thể hành Lực Ba la mật. Nghĩa là các Bồ tát có thể hàng
phục Thiên ma, dẹp trừ ngoại đạo, đầy đủ
năng lực phước đức trí tuệ, tu hành tất cả Phật pháp, chứng biết tất cả
Phật cảnh, dùng năng lực thần thông đem đầu sợi lông nhấc châu Thiệm bộ hoặc
cõi bốn châu, hoặc cõi Đại thiên đến vô lượng thế giới như cát sông Hằng trong
10 phương, rồi để lại chỗ cũ mà không hề tổn hại; hoặc dùng năng lực thần
thông, ở giữa hư không lấy các thứ báu bố thí cho loài hữu tình, có thể nghe và
thọ trì tất cả pháp mà chư Phật thuyết ở vô lượng, vô biên thế giới trong mười
phương, chẳng thấy năng hành và pháp sở hành; tất cả không hai, không khác, vì
lìa tự tánh.
Này Thiên vương! Đó gọi là các đại
Bồ tát tu học Bát Nhã có thể thông đạt
Lực Ba la mật.
Này Thiên vương! Thế nào là đại Bồ tát tu học Bát Nhã
có thể thông đạt Trí Ba la mật?
Thiên vương nên biết! Nếu các đại Bồ
tát tu học Bát nhã Ba la mật thì có thể hành Trí Ba la mật. Nghĩa là các Bồ tát
quán sát năm uẩn sanh chẳng phải thật sanh, diệt chẳng phải thật diệt, tư duy
năm uẩn đều rốt ráo Không, không có ngã, hữu tình, dòng sanh mạng, khả năng
sanh khởi, sự dưỡng dục, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi; phàm phu điên đảo
hư vọng chấp trước, phàm phu, chúng sinh sai lầm chấp ngã. Năm uẩn không phải
là ngã, trong uẩn không có ngã. Ngã không phải là năm uẩn, trong ngã không có
uẩn. Phàm phu ngu muội không như thật biết lăn lóc sinh tử như vòng lửa quay.
Kẻ phàm phu ngu si vọng chấp là có, nhưng tất cả pháp tự tánh vốn Không, không
sanh, không diệt. Duyên hợp lại gọi là sanh, duyên lìa tan thì bảo là diệt;
thật không có sanh diệt, tánh chẳng phải Có, nên chẳng thể nói sanh; tánh chẳng
phải Không nên chẳng thể nói là diệt. Các Bồ tát này đối với tất cả cảnh, không
pháp nào là không thông suốt. Tu hành Trí Ba la mật này, Nhị thừa, ngoại đạo
chẳng thể ngăn cản. Dùng trí quán sát, từ khi mới phát tâm cho đến Niết bàn đều
thấu suốt tất cả, có thể dùng một pháp
mà biết tất cả cảnh, đạt tất cả cảnh chẳng lìa một pháp. Vì sao? Vì chơn
như là một như (4). Thế nên khi các Bồ tát tu trí này chẳng thấy năng tu và
pháp sở tu; tất cả không hai, không khác, vì lìa tự tánh. (Q.566, ĐBN)
Này Thiên vương! Đó gọi là các đại
Bồ tát tu học Bát Nhã có thể thông đạt
Trí Ba la mật.
Đó gọi là Bồ
tát tu học một pháp, có thể thông đạt tất cả pháp.
Thích nghĩa:
(1). Thiên
vương nói trong Hội này có tên là Tối Thắng, Kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã
(TTVBN) gọi là “Bát bà la”, nhân vật chính được Phật Thích Ca Mâu Ni trao cho
chánh pháp trong Hội thứ VI này.
(2). Tất cả
Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Bát Nhã, Phương tiện,
Nguyện, Lực và Trí Ba la mật: (十波羅蜜) Phạm: Daza-pàramità. Gọi đủ: Thập Ba la mật
đa. Hán dịch: Thập thắng hạnh, Thập độ, Thập đáo bỉ ngạn. Mười hạnh thù thắng
mà Bồ tát phải tu tập đầy đủ để đạt đến Đại Niết bàn.
I. Thập Ba La Mật. Sáu Ba la
mật chính cộng thêm 4 Ba la mật phụ: Phương tiện, Nguyện, Lực, Trí thành 10 là:
1. Thí Ba la mật (Phạm: Dànapàramità): Có 3 thứ là Tài thí, Pháp thí và Vô úy
thí. 2. Giới Ba la mật (Phạm: Zìlapàramità): Giữ giới và thường tự xét. 3. Nhẫn
Ba la mật (Phạm: Kwàntipàramità): Nhẫn nại chịu sự bức hại. 4. Tinh tiến Ba la
mật (Phạm:Viryapàramità): Gắng sức tiến tu, không biếng nhác. 5. Thiền Ba la
mật (Phạm: Dhyànapàramità): Tập trung tư tưởng khiến tâm an định. 6. Bát nhã Ba
la mật (Phạm: Prajĩàpàramità): Mở ra trí tuệ chân thực, hiểu rõ thực tướng các
pháp. 7. Phương tiện Ba la mật (Phạm: Upàya-pàramità): Dùng các phương pháp
gián tiếp để khơi mở trí tuệ. 8. Nguyện Ba la mật (Phạm: Praịidhàna-pàramità):
Thường giữ gìn nguyện tâm và thực hiện các nguyện tâm ấy trong việc tu tập hằng
ngày. 9. Lực Ba la mật (Phạm: Balapàramità): Năng lực bồi dưỡng những thiện hạnh
thực tiễn và phân biệt chân ngụy. 10. Trí Ba la mật (Phạm: Prajĩàpàramità): Trí
tuệ có năng lực rõ biết tất cả các pháp. Mười Ba la mật đều lấy tâm bồ đề làm
nhân. Kinh Giải thâm mật quyển 4 cho rằng lý do ngoài 6 Ba la mật còn thiết lập
thêm 4 Ba la mật là vì Phương tiện Ba la mật giúp đỡ cho 3 Ba la mật Thí, Giới
và Nhẫn; Nguyện Ba la mật là giúp đỡ cho Tinh tiến Ba la mật; Lực Ba la mật là
giúp đỡ cho Thiền Ba la mật; Trí Ba la mật là giúp đỡ cho Bát nhã Ba la mật.
Mật giáo đem 10 Ba la mật phối hợp với 10 vị Bồ tát và đặt ở viện Hư không tạng
trong Mạn đồ la Thai tạng giới để biểu thị cho phúc đức và trí đức của bồ tát
Hư Không Tạng. Tức về phía bên phải an vị 5 Bồ tát Thí, Giới, Nhẫn, Tinh tiến
và Thiền, thuộc về Liên hoa bộ, biểu thị
Phúc môn; về phía bên trái an vị 5 Bồ tát Bát nhã, Phương tiện, Nguyện, Lực
và Trí, thuộc về Kim cương bộ, biểu thị
Trí môn. Lại đem 10 ngón tay phối hợp với 10 Ba la mật, tức Thí là ngón út
bên phải, Giới là ngón vô danh bên phải, Nhẫn là ngón giữa bên phải, Tinh tiến
là ngón trỏ bên phải, Thiền là ngón cái bên phải, Bát nhã là ngón út bên trái,
Phương tiện là ngón vô danh bên trái, Nguyện là ngón giữa bên trái, Lực là ngón
trỏ bên trái và Trí là ngón cái bên trái. Thủ ấn của mỗi Ba la mật như hình vẽ
dưới đây: Thí Ba la mật Giới Ba la mật Nhẫn Ba la mật.
II. Thập Ba La Mật. Mười Ba la
mật được nêu trong Phật truyện kinh “Bản sinh” tiếng Pàli là: Đàn (Thí), Thi
(Giới), Bát nhã, Tì lê da (tinh tiến), Sằn đề (nhẫn), Xả thế (phủ nhận thế gian
và tự kỷ), Chân thực (không nói lời dối trá làm hại chân thực), Quyết ý (ý mình
đã quyết không để lay động), Từ (không màng lợi riêng, vì tất cả hữu tình mà
trụ nơi từ tâm), Xả (không vì khổ vui mừng giận mà động tâm). Giai vị tu hành
10 đức mục này được gọi là Ba la mật địa (Phạm: Pàramitàbhùmi).- Từ điển Phật
Quang.
(3). Vô úy thí là bố thí những điều không sợ
hay nói khác là bảo vệ trước bạo quyền áp đặt về vất chất cũng như tinh thần để
cho những chúng sanh bé cổ thấp giọng sống được an lòng, không sợ hãi.
(4). Đoạn
Kinh này trong Thắng Thiên Vương Bát Nhã nguyên văn chữ Hán như sau: “以智觀察從初發心至入涅槃皆悉明了。能以一法知一切境。一切境界即是一法。何以故。如如一故”. (Âm: Dĩ trí
quan sát tòng sơ phát tâm chí nhập Niết bàn giai tất minh liễu。năng dĩ nhất
Pháp tri nhất thiết cảnh 。nhất thiết
cảnh giới tức thị nhất Pháp 。hà dĩ cố 。như như nhất
cố). Việt dịch: Dùng trí
quán sát, khi mới phát tâm đến nhập Niết bàn, đều hiểu rõ tất cả. Có thể lấy
một pháp để biết tất cả các cảnh; tất cả cảnh giới đều là một pháp. Vì sao? Vì Như Như là một.
Sở dĩ, chúng
tôi nêu ra vấn đề vì muốn nhấn mạnh là Kinh TTVBN dịch từ “chơn như” là Như hay
Như Như.
Sơ giải:
Phẩm này nói
về tu tập thọ trì mười Ba la mật. Người nào thông đạt các Ba la mật này thì có
thể đến được bờ kia. Vì vậy, phẩm này mới có tên là "Thông Đạt".
Thông đạt những gì? Thông đạt bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, thiền định,
Bát Nhã, phương tiện, nguyện, lực, trí Ba la mật tức gọi là thông đạt tuệ hay
nói khác là Giác ngộ, được Nhất thiết trí trí và đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề. Kinh nói: “Đó gọi là Bồ tát tu học một pháp, có thể thông đạt
tất cả pháp” mà sang được bờ kia.
Đây là một
phẩm có lối diễn đạt hết sức bình dị giản lược nhưng vô cùng uyên áo. Chỉ cần
ngộ nhập vào Bát nhã Ba la mật là thông đạt tất cả. Nói như vậy, nhưng hành
không phải dễ, phải trải qua không biết bao gian khổ thử thách có khi mất ba A
tăng kỳ kiếp như Phật Thích Ca Mâu Ni mới có thể thành đạt. Nhưng dù sao đây
cũng là các chỉ dẫn cần thiết cho những ai ấp ủ Bồ đề tâm, tu Bồ tát đạo, trên
nguyện chứng Vô Thượng Bồ đề, dưới hóa độ chúng sanh. Tu 10 pháp này cũng được
xem là tu lục độ vạn hạnh trước là độ mình sau độ người tất cả được an vui giải
thoát.
Điều làm cho
người đọc phẩm này cảm thấy động tâm
vì tinh thần cao cả hy sinh của những ai tu Bồ tát đạo: Quên mình mới có thể hy
sinh cho kẻ khác. Đó là cái khó làm trong cuộc đời đầy uế trọc tham sân si này.
Có làm như vậy hạnh nguyện vuông tròn mới xứng danh Bồ tát Ma ha tát. Ở đây
không phải Phật dạy bảo trao truyền riêng cho Thắng Thiên vương các pháp môn
thắng diệu này, mà ở đây Phật “khai thị” cho tất cả những người con Phật trong
tinh thần hy sinh quên mình vì kẻ khác.
Câu đáng nhớ
trong phẩm này khi Phật bảo Thắng Thiên Vương Bát Nhã đối với lục Ba la mật và
phương tiện xảo:
“Thuyết pháp cúng dường, đó là bố
thí Ba la mật.
Hành động chẳng trái với lời nói, đó
là tịnh giới Ba la mật.
Các thiên ma v.v... chẳng thể não
loạn, đó là an nhẫn Ba la mật.
Tâm tiếp nối nhau chẳng biết mỏi mệt,
đó là tinh tấn Ba la mật.
Chuyên tâm nhất niệm, chẳng duyên
cảnh khác, đó là tịnh lự Ba la mật.
Thuyết pháp cúng dường, lìa ngã, ngã
sở, đó là Bát nhã Ba la mật.
Chẳng thấy năng hành và pháp sở
hành; không hai, không khác, vì lìa tự tánh.
Này Thiên vương! Đó gọi là Bồ tát tu
học Bát Nhã có thể thông đạt phương tiện
thiện xảo Ba la mật”.
Chúng ta sẽ
còn trở lại vấn đề này từ pháp hội thứ XI cho đến hết pháp hội thứ XVI, tức sáu
pháp hội cuối cùng, thuyết riêng về sáu pháp đáo bỉ ngạn trước khi chấm dứt Đại
Bát Nhã Ba la mật.
---o0o---