VI. PHẨM
PHÁP TÁNH (1).
Trọn quyển
569, Hội thứ VI, ĐBN.
(Tương đương với phẩm 5: Pháp Tánh, Kinh TTVBN)
Gợi ý:
Phẩm trên
chúng ta vừa thảo luận về “Pháp Giới” (từ cuối quyển 567 đến quyển 568). Phẩm
này lại nói về “Pháp Tánh”. Các Hội trước đã nhiều lần thuyết về “thập nhị Chân
Như”, không tách riêng chân như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, v.v...
thành các phẩm riêng như Hội thứ VI này. Bởi vì thập nhị chân như, tất cả đều
một như, không hai không khác. Nhưng tại sao trong Hội thứ VI lại tách pháp giới và pháp tánh ra làm hai và thuyết trong hai phẩm
khác nhau? Kinh trả lời như sau:
Tóm lược:
Quyển thứ
569
“Bấy giờ, Tối Thắng rời tòa đứng
dậy, lệch áo (2) che vai
trái, gối phải chấm đất, chắp tay cung kính bạch:
- Bạch Thế Tôn! Thật là hy hữu! Đức
Thế Tôn đã khéo thuyết đại oai thần và công đức vi diệu của chư Phật. Chư Phật
Như Lai nhờ đâu mà đắc đại oai thần công đức vi diệu này. Nguyện Thế Tôn phân
biệt giải nói.
Phật bảo Tối Thắng:
- Thiên vương nên biết, hành động
của Như Lai và kết quả đạt được thậm thâm vi diệu, không thể nghĩ bàn.
Tối Thắng bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Phật hành pháp gì mà
thậm thâm vi diệu, không thể nghĩ bàn?
Phật dạy:
- Nhân quả pháp tánh Như Lai thậm thâm vi diệu không thể nghĩ bàn, oai thần công đức và pháp đã nói ra làm
lợi lạc cho người cũng như vậy.
Tối Thắng bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Tại sao lại gọi pháp tánh thậm thâm vi diệu không thể
nghĩ bàn?
Phật dạy:
- Này Thiên vương! Pháp tánh của Như
Lai ở trong uẩn, xứ, giới của hữu tình từ vô thủy đến nay nối tiếp nhau chẳng
nhiễm phiền não, bản tánh thanh tịnh. Tất cả tâm, ý, thức không thể do duyên
khởi. Tất cả tìm cầu khác không thể phân biệt, tư duy về tà niệm không thể
duyên với suy nghĩ, xa lìa tà niệm, vô minh không sanh. Vì thế, chẳng sinh từ
mười hai Duyên, gọi là vô tướng tức pháp chẳng phải tạo tác, không sanh, không
diệt, vô tận, vô biên, tự tại thường trụ.
Thiên vương
nên biết! Các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, biết được pháp tánh thanh
tịnh như vậy nên không nhiễm trước, không dính mắc, xa lìa cấu uế, từ các phiền
não vượt lên giải thoát. Tánh này là pháp căn bản của chư Phật, nhân đây mà
sanh phước đức, trí tuệ, bản tánh minh tịnh không thể nghĩ bàn.
Này Thiên vương! Ta sẽ nói thí dụ,
ngươi nên lắng nghe, và suy nghĩ ghi nhớ.
Thiên Vương bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Cúi xin Ngài nói
cho.
Phật bảo Tối Thắng:
- Thiên vương nên biết! Ví như bảo châu như ý vô giá, là vật trang sức
sáng rỡ, trong sạch, khả ái, rất tròn và trong suốt không có vẩn đục, dù có
chôn vùi trong đất bùn qua thời gian dài, ai nhặt được đều vui mừng giữ cất cẩn
thận không cho rơi mất. Cũng vậy, pháp
tánh tuy ở trong phiền não nhưng không bị nhiễm, sau lại hiển hiện.
Này Thiên vương! Chư Phật đều biết tự tánh hữu tình rất
thanh tịnh, nhưng bị khách trần
phiền não che lấp nên chẳng thể vào được tự tánh. Do đó, Bồ tát hành sâu Bát
nhã Ba la mật nên suy nghĩ thế này: “Ta phải tinh siêng vì các hữu tình nói Bát
Nhã sâu thẳm, trừ phiền não cho họ khiến được ngộ vào. Vì tất cả hữu tình bản tánh đều thanh tịnh, phải khởi tôn trọng chẳng
nên khinh bỏ, nên xem như Đại sư mà cúng dường”. Các Bồ tát này do khởi nghĩ
này bèn năng sanh khởi Bát Nhã Đại bi.
Bồ tát hành
sâu Bát nhã Ba la mật như vậy liền chứng nhập địa vị Bất thối chuyển. Các đại
Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật nghĩ như thế này: Các phiền não đây không lực
không năng, tự thể hư dối, trái với pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì nghịch
Nhất thiết trí, thuận đường sanh tử. Pháp tánh thanh tịnh là gốc các pháp, tự tánh vốn không hư dối,
phiền não đều từ tà niệm điên đảo mà sanh.
Thiên vương
nên biết! Ví như bốn đại nương vào hư không để kiến lập, mà hư không không có
chỗ nương nên phiền não cũng vậy. Bốn đại nương nơi vào pháp tánh, pháp tánh
không có chỗ nương. Các Bồ tát thực hành Bát nhã Ba la mật quán biết rõ như
thật, nên chẳng khởi trái nghịch, vì tùy thuận nên phiền não không sanh.(3)
Các Bồ tát này quán sát phiền não,
chẳng sanh nhiễm trước là khởi nghĩ này: Nếu tự nhiễm trước, làm sao nói pháp
khiến người ra khỏi. Vậy nên Bồ tát đoạn diệt tâm nhiễm trước, như thật thuyết
giáo tháo gỡ trói buộc cho hữu tình.
Các Bồ tát suy nghĩ: Nếu trong sanh
tử có một phiền não vì lợi ích chúng sinh ta liền thọ nhận.
Các Bồ tát lại nghĩ: Xưa kia, chư
Phật hành sâu Bát nhã Ba la mật diệt các phiền não, ngày nay ta cũng như vậy.
Vì sao? Vì chư Phật Như Lai xưa ở nhân địa(4) cũng học như thế thành Bồ đề vậy.
Các Bồ tát đây do hai duyên này
phương tiện khéo léo quán biết pháp tánh. Pháp tánh như thế vô lượng vô biên bị
các phiền não che lấp, trôi theo sinh tử, chìm nổi sáu đường, suốt dòng sinh tử
luân chuyển theo chúng sinh, nên gọi là tính
chúng sinh.
Thiên vương nên biết! Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật khởi tâm nhàm chán, trừ năm cảnh dục, diệt các sự
phân biệt để tu đạo Vô thượng. Lúc đó tánh này được gọi là xuất ly, vì vượt tất
cả khổ nên gọi là vắng lặng, là pháp cứu cánh mà tất cả thế gian mong cầu. Nhất
thiết chủng trí thường trụ nhiệm mầu, nương pháp tánh này mà được tự tại, thọ
ngôi Pháp vương.
Thiên vương nên biết! Các đại Bồ tát
hành sâu Bát Nhã, quán sát giai vị trước, giữa và sau pháp tánh đều bình đẳng,
xưa nay vắng lặng, không bị các pháp làm chướng ngại, giống như hư không không
bị sắc ngại. Các Bồ tát này hành sâu Bát nhã Ba la mật, quán sát biết rõ đúng
lời chư Phật dạy, nói ra tất cả diệu hạnh như pháp tu hành. Công đức pháp tánh không thể nói hết, không có hai tướng, vượt cảnh
nhất dị, bình đẳng nhất tướng. Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật như thế có khả
năng trừ được hai tướng: Nhân tướng và pháp tướng. Tất cả phàm phu bị chấp
trước trói buộc nên không hiểu, không thấy, không rõ pháp tánh. Các Bồ tát hành
sâu Bát nhã Ba la mật thì hay thông đạt pháp tánh như thế. Nếu ở chúng sanh
cũng không hai, không khác. Vì sao? Vì trong tướng như không có sai khác.
Thiên vương nên biết! Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật, nương vào pháp tánh này để tu tập căn lành, ra vào
ba cõi, làm lợi ích cho hữu tình, tuy hiện vô thường mà chẳng chơn thật. Vì
sao? Vì các Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật như thật quán biết chơn pháp tánh. Nên đầy đủ phương tiện đại bi, nguyện lực
không bỏ hữu tình. Nhị thừa phàm phu vì không có đại bi nguyện lực như vậy, nên
không thấy pháp tánh viên mãn thanh tịnh, không thể như thật lợi ích chúng
sanh.
Thiên vương nên biết! Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật có thể quán
sát pháp tánh chơn tịnh như thế, tất cả Thánh giả như thật ngộ nhập. Không có người tu và pháp để tu, không có người thực hành và pháp để
hành, không tâm, không có pháp thuộc tâm, không nghiệp, không quả báo, không khổ,
không vui. Quán sát như thế gọi là bình đẳng, không phân chia, xa lìa tùy thuận
quảng đại, không ngã, ngã sở, không cao, không thấp, chơn thật vô tận, thường
trụ trong sáng. Vì sao? Vì tất cả Thánh pháp do đây mà thành thục, nhờ tánh
này nên các bậc Thánh hiển hiện vô biên công đức và pháp bất cộng của chư Phật
Như Lai đều từ tánh này xuất sanh. Giới, định, tuệ của tất cả Thánh giả đều từ
tánh này sanh ra. Bát nhã Ba la mật của Bồ tát, Phật đều từ tánh này sanh ra.
Tánh này vắng lặng vượt các danh tướng. Tánh này chơn thật, xa lìa điên đảo. Tánh này chẳng biến đổi nên gọi là như
Thánh trí, gọi là Đệ nhất nghĩa; chẳng có, chẳng không, chẳng thường, chẳng
đoạn, chẳng phải sanh tử, chẳng phải Niết bàn, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, lìa
nhất dị, không danh, không tướng.
Thiên vương nên biết! Các Bồ tát này
lại khởi nghĩ: Pháp tánh lìa tướng. Các
pháp lìa tướng không hai không khác. Vì sao? Vì các pháp lìa tướng tức pháp
tánh lìa tướng. Pháp tánh lìa tướng tức hữu tình lìa tướng. Hữu tình lìa tướng
tức pháp giới lìa tướng. Pháp giới lìa tướng tức các pháp lìa tướng. Lìa tướng
như thế cầu chẳng thể được. (569,
ĐBN)
(Nói pháp tánh mà cũng đề cập tới chân như)
Pháp tánh
như, hữu tình như không hai, không khác. Hữu tình như, pháp tánh như không
hai, không khác. Pháp tánh như, các pháp như không hai, không khác. Các pháp
như, chư Phật như không hai, không khác.
Pháp tánh như, như đó ba đời không trái nghịch nhau. Quá khứ như, vị lai
như không trái nghịch nhau. Vị lai như, hiện tại như không trái nghịch nhau.
Hiện tại như, quá khứ như không trái nghịch nhau. Uẩn, xứ, giới ba đời như. Uẩn, xứ, giới như tức nhiễm tịnh như.
Nhiễm tịnh như tức sanh tử Niết bàn như. Sanh
tử Niết bàn như tức các pháp như.
Thiên vương nên biết! Nói Như như chính là Bất dị; không đổi,
không sinh, không tranh, chân thực. Vì không tranh nên gọi là Như, thấy biết
như thực các pháp không sinh. Các pháp tuy sinh, nhưng Như Như bất động.
Như như tuy sanh các pháp mà như đó chẳng sanh. Đó gọi là Pháp thân thanh tịnh,
bất biến như hư không, vô đẳng đẳng, không có một pháp nào trong tam giới có
thể sánh bằng. Khắp thân chúng sinh,
không có cái tương tợ; thanh tịnh lìa cấu, xưa nay không nhiễm; tự tính trong
sáng, thanh tịnh; tự tính không sinh; tự tính không khởi. Ở tâm, ý, thức mà
không phải tánh của tâm, ý, thức; tức là
Không, Vô tướng, Vô nguyện. Khắp cõi hư không, khắp chúng hữu tình đều bình đẳng, vô lượng, vô biên, không có sai biệt.
Không phải sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Không phải địa, thủy, hỏa, phong; không lìa địa, thủy, hỏa, phong. Không phải
sanh, không lìa sanh. Tuy nghịch sanh tử nhưng chẳng thuận Niết bàn. Mắt không
thể thấy, tai không thể nghe, mũi không thể ngửi, lưỡi không thể nếm, thân
không thể xúc chạm, ý không thể biết. Không ở tâm, ý, thức, không lìa tâm, ý,
thức.
Thiên vương
nên biết! Đấy là pháp tánh. Các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba
la mật, vì thông suốt pháp tánh này nên tu hành thanh tịnh, thì Tam thiên đại
thiên thế giới, như xóm làng, thành ấp ở châu Thiệm bộ, Bồ tát đều có thể thị
hiện sắc thân. Các thân hiện ra chẳng phải sắc, chẳng phải tướng mà hiện sắc
tướng. Tuy chẳng phải hoạt động cảnh giới của sáu căn mà giáo hóa hữu tình
không dừng nghỉ, để nói rằng thân này vô thường, vô ngã, là khổ, bất tịnh. Biết
các hữu tình có tánh vắng lặng, nên thị hiện vô lượng thân hình, dùng phương
tiện thiện xảo làm cho họ nhận lãnh sự giáo hóa. Vì biết tất cả thân đều không
tác giả, không thọ giả, như gỗ đá v.v... nên nói hạnh thanh tịnh cho các hữu
tình.
Nếu hành
siêu xuất như thế thì nhập pháp giới nên được tự tại.
Các Bồ tát hành sâu Bát Nhã thông
suốt pháp tánh như thế, nên được tự tại, không có di động mà khởi trí tuệ, tự
tại trong thần thông, thị hiện các loại, an trụ tự tại mà có thể thị hiện các
oai nghi, tự tại hướng đến Nhất thiết tướng trí, tất cả các pháp, thảy đều
thông đạt.
Thiên vương nên biết! Hành sâu Bát
nhã Ba la mật được tự tại như thế là tướng vô tận. Ở khắp các chỗ, không sắc
hiện sắc. Tự tại quán sát khắp tâm hữu tình thấy tâm tánh như thật. Tự tại nhớ
nghĩ vô biên, vô số kiếp nối nhau chẳng dứt. Biến hóa tự tại, trụ tướng giải
thoát; tự tại lậu tận, nhưng vì chúng sinh, không chứng Lậu tận tự tại xuất
thế. Cảnh Thánh trí này, tự tại sâu xa, Thanh Văn, Duyên Giác không thể đo
lường; tự tại vững chắc, Ma không thể phá; có thể đến được đạo tràng, thành tựu
Phật pháp tối thắng đệ nhất; tự tại tùy thuận chuyển Đại pháp luân; tự tại điều
phục, giáo hóa tất cả chúng sinh, nhận lãnh ngôi vị đắc pháp tự tại.
(Nói pháp tánh cũng đề cập tới bình đẳng)
Thiên vương nên biết! Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật, như thật thông suốt pháp tánh sâu xa nên được tự
tại như thế, tu tự tại như thế nên được tất cả tịnh lự, giải thoát, đẳng trì,
đẳng chí, không còn lệ thuộc vào ba cõi. Vì sao? Vì xa lìa tất cả phân biệt hư
vọng, phiền não ràng buộc chấp tướng điên đảo. Nếu muốn thọ sanh thì không
còn ràng buộc, thọ sanh tự tại. Nếu muốn thị hiện diệt độ thì tùy theo sanh xứ
của mình để thị hiện diệt độ, giữ gìn Đại thừa và thành tựu Phật pháp. Ở trong
mười phương tìm cầu Phật pháp chắc chắn không thể được. Biết rõ tất cả pháp đều là Phật pháp, không thường, không đoạn. Vì
sao? Vì tìm cầu pháp này không thể được. Dùng lý như thật tìm cầu không thể
được. Pháp này không thể nói có, nói
không, cũng không có danh tướng, vượt cảnh giới này. Nếu lìa danh tướng tức
là bình đẳng. Nếu pháp bình đẳng thì không chấp trước. Vì không chấp trước
nên là pháp chơn thật. Nếu chấp chơn thật tức là hư vọng. Vì chẳng chấp trước
nên chẳng hư vọng. Vì tâm không bị chấp trước nên vô ngại. Vô ngại tức vô
chướng. Vô chướng tức không tranh. Nếu không tranh tức đồng với hư không, chẳng
lệ thuộc vào ba cõi. Nếu tất cả xứ không còn bị lệ thuộc thì pháp này vô sắc,
vô tướng, vô hình. Nếu pháp vô sắc, vô tướng, vô hình, nên biết pháp ấy tùy theo
cảnh giới kia nhưng lìa sự biết và đối tượng để biết. Vì sao? Vì trong ấy không
có một chút pháp nào để giác ngộ, có thể giác ngộ. Đó là Bồ tát hành sâu Bát
nhã Ba la mật thông suốt bình đẳng.
(Q.569, ĐBN)
Thiên vương
nên biết! Các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật quan sát pháp sanh đại từ,
đại bi, đại hỷ, đại xả hoàn toàn không thấy ngã, không thấy hữu tình cho đến
không thấy người biết và người thấy. Tuy hành bố thí nhưng không thấy có sự xả
bỏ; tuy trì tịnh giới nhưng lìa giới tướng; tuy tu tập an nhẫn nhưng tâm vô
tận; tuy tu tập tinh tấn nhưng lìa tướng ấy; tuy tu tập tịnh lự nhưng không có
sự vắng lặng; tuy tu tập Bát Nhã nhưng không có đối tượng; tuy tu tập niệm trụ
nhưng không chấp chặt; tuy tu tập chánh đoạn nhưng tâm bình đẳng; tuy tu tập thần
túc nhưng lìa hý luận, tuy tu tập căn lực nhưng không phân biệt các căn của hữu
tình và xa lìa lầm lỗi; tuy tu tập giác chi nhưng không phân biệt; tuy tu tập
chi Thánh đạo nhưng tâm vô công dụng; tuy tu tập tịnh tín nhưng không chấp
trước. Trí tuệ tự nhiên nhớ nghĩ các pháp với tâm trí bình đẳng, tu tập các
diệu định mà tâm không phân biệt, quan sát diệu tuệ mà tâm không ngừng nghỉ. Tu
tập quán chỉ tâm không có sự thấy, tu tập pháp quán tâm không có chỗ niệm. Tu
tùy niệm Phật tâm thông suốt pháp giới bình đẳng, tu tùy niệm Pháp tâm không có
chỗ trụ, tu tùy niệm Tăng nên thanh tịnh bản tâm. Giáo hóa hữu tình không có
tâm phân biệt. Tâm pháp giới bao trùm tất cả pháp. Tâm như hư không, trang
nghiêm cõi Phật. Tâm không có chỗ chứng đắc đạt Vô sanh nhẫn. Tâm không tiến
lùi đạt Bất thối chuyển, xa lìa tâm tướng, không thấy có tướng. Ở trong tam
giới dùng tâm bình đẳng, trang nghiêm tòa Bồ đề. Tâm không có chỗ giác ngộ biết
rõ tất cả pháp. Tuy chuyển pháp luân nhưng không thấy người nghe, người nói.
Tuy hiện Niết bàn nhưng biết bản tánh sanh tử bình đẳng.
Thiên vương
nên biết! Các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, quán sát các pháp như vậy
nhưng không thấy sự quán, không thấy có pháp để quán nên được thần thông tự
tại. Vì sao? Vì tâm thanh tịnh nên thấy tất cả hữu tình thanh tịnh.
Thiên vương
nên biết! Ví như hư không biến khắp tất cả, các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba
la mật cũng như vậy.
Khi thuyết pháp này ở trong chúng
hội có tám vạn bốn ngàn trời, người đều phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề, ba vạn hai ngàn Bồ tát được Vô sanh pháp nhẫn, tám vạn bốn ngàn hữu tình xa
lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh, một vạn hai ngàn Bí sô diệt sạch các
lậu tận.
Khi ấy, Phật bảo Tối Thắng:
- Thiên vương nên biết! Các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật
tâm được thanh tịnh, thâm sâu như biển cả, phước đức trí tuệ không thể đo lường
được. (Từ bình đẳng này mà sanh tâm
thanh tịnh. Nên biết bình đẳng đó chính là thanh tịnh). Bồ tát có thể thị
hiện xuất thế, các châu báu công đức chúng sinh lấy dùng, cho đến Bồ đề, không
có cạn kiệt. Phước đức Bồ tát cũng không giảm bớt, giống như biển cả sanh nhiều
châu báu. Trí tuệ Bồ tát sâu xa khó vào được, Thanh văn, Độc giác không thể
vượt qua. Thí như biển lớn thú nhỏ chẳng vào được.
Trí tuệ của Bồ tát rộng lớn vô biên.
Vì sao? Vì không chấp trước, không trụ, không sắc, không tướng. Trí tuệ của Bồ
tát từ trước về sau càng thêm sâu rộng, trước là Bồ đề tâm, về sau là Nhất
thiết trí. Pháp của Bồ tát là vậy, không cùng ở chung với phiền não và bạn ác. Trí tuệ thế gian nếu vào trong biển trí tuệ
của Phật thì chỉ là một tướng, một vị, đó là vô tướng; đạt đến Nhất thiết trí
là vị không phân biệt.
Trí tuệ Bồ tát quán sát tất cả pháp
không thấy thêm bớt. Vì sao? Vì đã thông suốt pháp tánh bình đẳng sâu xa. Năng
lực đại từ bi của Bồ tát chẳng trái với bản nguyện, là chỗ các bậc Thánh nương
tựa để vì hữu tình thuyết pháp trong vô số kiếp không cùng tận.
Này Thiên vương! Bồ tát hành sâu Bát
Nhã đạt được pháp tánh sâu xa như vậy.
Này Thiên vương! Bồ tát thông suốt
hoàn toàn pháp thế tục. Tuy nói các sắc nhưng không thật có, tìm cầu sắc ấy
chắc chắn không nắm bắt được; thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Tuy nói địa
giới nhưng không thật có, tìm cầu địa giới không nắm bắt được; thủy, hỏa,
phong, không, thức giới cũng như vậy. Tuy nói nhãn xứ nhưng không thật có, tìm
cầu nhãn xứ không nắm bắt được; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng như vậy. Tuy
nói sắc xứ nhưng không thật có, tìm cầu sắc xứ không nắm bắt được; thanh,
hương, vị, xúc, pháp xứ cũng như vậy.
Tuy nói ngã
nhưng không thật có, tìm cầu ngã này không nắm bắt được; đối với hữu tình cho
đến người biết, người thấy cũng như vậy. Tuy nói thế gian nhưng không thật có,
tìm cầu thế gian không nắm bắt được. Tuy nói pháp thế gian nhưng không thật có,
tìm cầu pháp thế gian không nắm bắt được. Tuy nói Phật pháp nhưng không thật
có, tìm cầu Phật pháp không nắm bắt được. Tuy nói Bồ đề nhưng không thật có,
tìm cầu Bồ đề không nắm bắt được.
Tất cả uẩn
xứ giới cùng tất cả pháp rốt ráo đều không đều giả thi thiết.
Thiên vương nên biết! Phàm có ngôn thuyết, gọi là Thế đế, chẳng
phải chân thực. Nếu không có Thế đế thì không thể thuyết Đệ nhất nghĩa đế.
Bồ tát thông suốt thì tục đế chẳng trái với Đệ nhất nghĩa đế. Do thông suốt nên
biết các pháp không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không đây, không
kia, xa lìa ngữ ngôn văn tự, bặt hý luận.
(Q.569, ĐBN)
Thiên vương nên biết! Đệ nhất nghĩa
thì vắng lặng, lìa ngôn ngữ, là cảnh giới của Thánh trí, là Pháp không biến
hoại. Nếu Phật xuất thế hay không xuất thế thì tánh, tướng vẫn thường trụ. Đây
gọi là Bồ tát thông suốt Đệ nhất nghĩa đế.
(Tất cả pháp không sanh không diệt)
Khi ấy, Tối Thắng bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp
không sanh, không diệt, tự tánh trống không, xa lìa thì vì sao có Phật xuất thế và chuyển Pháp luân? Vì sao Bồ tát đối
với pháp Vô sinh lại thấy có sinh?
Phật bảo Tối Thắng:
- Thiên vương nên biết! Vì các pháp
không diệt nên không sanh. Vì sao? Vì tánh không biến đổi, chỉ do người thế tục
thấy có sanh, có diệt, đó là sự thấy biết hư vọng, không chơn thật. Những Bồ
tát nào bằng phương tiện thiện xảo hành sâu Bát nhã Ba la mật, thì thấy pháp nhân duyên, biết rõ tục
đế là Không, vô sở hữu, không bền chắc, không có mà tợ như có, như huyễn hóa,
như ảo mộng, như âm vang, như bóng sáng, như ảo ảnh, như quáng nắng, như việc
biến hóa, như thành Tầm hương, lay động chẳng yên, đều do nhân duyên sanh khởi.
Các Bồ tát này dùng Bát Nhã vi diệu
quán sát các pháp Không, nói rộng cho đến từ nhân duyên sanh khởi. Các Bồ tát
này tư duy: Các pháp này thấy có sanh, có trụ, có diệt. Do nhân duyên nào mà
sanh? Do nhân duyên nào mà diệt? Tư duy như vậy rồi biết rõ như thật, do vô minh sanh các hành, do hành sanh
thức, nói rộng cho đến do hữu nên có sanh, do sanh nên có lão, do lão nên có tử
và ưu, sầu, khổ, não. Cho nên cần phải tu hành để diệt vô minh. Nếu diệt vô
minh thì mười một chi còn lại lần lượt diệt theo, như thân đã diệt thì mạng
sống đều diệt theo.
Thiên vương nên biết! Tà kiến ngoại
đạo mong cầu giải thoát, chỉ muốn đoạn
tử chẳng biết đoạn sanh. Nếu pháp không sanh thì không có diệt. Ví như có
người ném hòn đất vào sư tử, sư tử đuổi người, tức việc ném đá tự dừng. Bồ tát
cũng vậy chỉ đoạn sự sanh thì tử tự diệt. Ví như con chó chỉ đuổi theo đá mà
chẳng biết đuổi người, nên việc ném đá mãi mãi không dừng. Ngoại đạo cũng thế,
chẳng biết đoạn sanh thì không thể lìa tử. Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật
như thế thì biết rõ nhân duyên sanh diệt của các pháp. (Q.569, ĐBN)
(Tu tịnh hạnh)
Thiên vương nên biết! Các đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật, biết pháp nhân duyên Không, không thực có, không
khởi ngã mạn. Nếu sinh vào nhà Bà la môn, Sát lợi, cư sĩ, trưởng giả, thì không
khởi hai mạn tôn quý, hào phú. Nếu sinh
vào nơi bần tiện thì tự biết nghiệp đời trước không được thanh tịnh nên có quả
báo thấp kém; khởi tâm ghét bỏ, tức cầu xuất gia; suy nghĩ thế này: Như
thân ta đây, do nghiệp tạp loạn mà có; liền tu tịnh nghiệp, khiến tự thanh
tịnh, khiến người khác cũng được như vậy. Tự mình cầu độ, cũng lại độ người; tự
cầu thoát ly, cũng lại cởi trói cho người. Vì nhân duyên này tức sinh tinh tấn,
không bị biếng nhác. Pháp ác chướng đạo đều được đoạn trừ, pháp lành trợ đạo
đều nên tăng trưởng, siêng tu, tinh tấn, suy nghĩ thế này: Ta mang gánh nặng,
nên tự mình diệt tất cả phiền não, độ thoát chúng sinh, không được biếng
nhác.
Đối với Sư trưởng thân cận dù cho họ
hiểu nhiều hay ít, có trí hay không, trì giới hay phá giới thì Bồ tát đều tưởng
như Phật, cung kính đồng học. Tư duy ta đang nương Thầy học tập, tu pháp lành
chưa hoàn toàn, cần phải tu cho viên mãn, phiền não chưa diệt cần phải đoạn
diệt, giữ gìn pháp lành, xa lìa pháp ác để thành Nhất thiết trí, làm ruộng
phước đại bi, thương xót tất cả thế gian. Bậc Thiên nhơn sư là thầy của ta được
lợi lành. Tất cả trời, người đều thờ Pháp vương làm Đại sư.
Các Bồ tát này khởi suy gẫm: “Phật
nói tịnh giới, giả sử vì thân mạng cũng chẳng hủy phạm. Như Thế Tôn nói: “Thuận
theo lời Phật dạy tức cúng dường Phật”. Bà la môn, Sát đế lợi, trưởng
giả v.v… vì tín tâm thí cho các thứ ăn uống, thì ta như pháp thọ dụng, để người
thí được hưởng phước báo. Như vậy, cả hai đều được lợi ích. Bà la môn, Sát đế lợi, trưởng
giả v.v... lấy danh tự Sa môn mà kêu gọi Bồ tát nghĩ đến việc tạo ruộng phước. Bồ tát phải đúng như lý, như lượng, tu
hành chánh pháp thì hiển hiện công đức Sa môn, công đức phước điền. Bồ tát như
vậy là tự tu hành và giáo hóa người không dừng nghỉ.
Các Bồ tát này hành sâu Bát nhã Ba
la mật như thế thì thường tùy thuận thế gian, thấy kẻ giận dữ thì sanh nhường
nhịn, thấy kẻ kiêu mạn thì khởi tưởng vô ngã, thấy kẻ tà vạy thì khởi tưởng
chánh trực. Thấy người vọng ngữ thì nói lời chân thật. Thấy kẻ nói ác thì dùng
ái ngữ. Thấy kẻ cứng cỏi thì thị hiện nhu hòa. Thấy kẻ nóng giận thì sanh từ
nhẫn. Thấy kẻ theo pháp tà thì sanh đại từ. Thấy kẻ khổ não thì sanh lòng đại
bi. Thấy kẻ xan tham, tật đố thì hành bố thí.
Các Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la
mật như thế, tùy thuận trí thế gian nên được sanh cõi Phật thanh tịnh. Vì sao?
Vì trì giới không khiếm khuyết, xa lìa tạp uế, tu tâm bình đẳng. Ở chỗ hữu tình
đầy đủ các căn lành lớn, không đắm trước danh lợi. Có đức tin thanh tịnh, không
có hư vọng mong cầu, cần hành tinh tấn, tu tập không biếng nhác. Tu tập các
tịnh lự để xa lìa tán loạn. Dùng tuệ vi diệu để học tập đa văn. Các căn đầy đủ,
trí tuệ thông minh, tu đại từ để xa lìa giận dữ não hại. Nhờ nhân duyên này
được sanh về cõi Phật thanh tịnh.
Bấy giờ, Tối Thắng bạch Phật:
- Như lời Phật dạy người tu tập về
các pháp trì giới v.v… và các pháp thì được sanh cõi Phật thanh tịnh. Như vậy,
cần tu đầy đủ các pháp hay chỉ tu một pháp là được sanh ở cõi Phật thanh tịnh?
Phật bảo Tối Thắng:
- Thiên vương nên biết! Đối với các pháp ta đã nói ở trước, Bồ tát nào
chỉ tu một hạnh là đầy đủ các pháp. Như vậy, một hạnh cũng sanh về cõi Phật
thanh tịnh. Vì sao? Vì trong mỗi một hạnh đầy đủ các hạnh”.
Tu một pháp
biết tất cả pháp như tu Bát nhã Ba la mật. Tu một hạnh như tu bố thí, hay tu
tịnh giới, an nhẫn… chỉ cần tu một hạnh thì được muôn hạnh cũng
có thể sanh về cõi Phật. Đó là tu tịnh hạnh.
Các Bồ tát này sanh ở cõi Phật thanh
tịnh không bị bào thai làm ô uế. Vì sao? Vì Bồ tát đã tạo dựng tượng Phật, tu
sửa vườn Tăng, ở trước bảo tháp Phật, thoa đất thơm và đốt hương cúng dường,
rải hoa đẹp cúng dường hoặc dùng nước thơm tắm rửa tượng Phật. Ở trong vườn
Tăng, rưới nước quét dọn và láng nền. Từ tâm cung phụng Cha mẹ, Sư trưởng,
thiện hữu đồng học và các Sa môn, dùng tâm bình đẳng cung kính cúng dường. Đem
căn lành này ban cho hữu tình cùng nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề, làm cho hữu tình đều được thanh tịnh. Bồ tát như thế là được ly dục. Vì
sao? Vì tâm không chấp trước, chẳng đắm nhiễm theo bè đảng, quay lưng với trần
cảnh, xa lìa các duyên ái. Ở trong cảnh dục tâm chẳng ái nhiễm, tu hành như
thật giới Phật đã thuyết. Đối với bốn việc cúng dường ít muốn vui đủ, chỉ đủ
nuôi thân, thường hành tịch tĩnh, xa lìa các pháp. Bồ tát như thế chẳng đắm
trước việc thế tục, liền được mạng sống thanh tịnh. Không tà vạy, oai nghi
không dối trá, lời nói không lừa gạt. Nghĩa là trước mặt thí chủ lừa dối bằng
cách thể hiện bước đi ung dung, nhìn thẳng phía, không nhìn ngó hai bên, đó là
uy nghi tà mạng. Lúc không có thí chủ thì phóng túng buông lung.
Vì cầu lợi dưỡng nên có thí chủ thì
ăn nói ngọt ngào, nhỏ nhẹ, tùy thuận theo ý họ, lúc không có thí chủ thì nói
lời thô bỉ. Thấy người hành bố thí trong tâm thật có tham muốn nhưng nói rằng
không cần. Khi không được của thì sanh phiền não. Lời nói biểu hiện ít muốn mà
tâm tham cầu lợi dưỡng thật nhiều.
Các Bồ tát này không có tướng cầu
lợi dưỡng như thế. Nếu thấy thí chủ cũng không than ba y hư rách, đồ dùng thiếu
thốn, hoặc nói cần thuốc men. Lại tuyệt đối không được nói với thí chủ: “Này
thí chủ! Cho tôi vật này”, hoặc “Người kia nói tôi trì giới học rộng, đại bi,
tinh tấn. Dù khen như thế mà tôi không có đức này, tôi chỉ siêng tu thiện để
đền ơn thí chủ”.
Các Bồ tát này không nói với người
đời những lời tự khen mình chê người để cầu danh lợi như thế. Nếu thấy thí chủ
cúng thí cho người khác không sanh tâm sân hận, phiền não, không dua nịnh quanh
co để cầu nhận vật đó, không dối trá bằng cách thân thiện để hại người lấy của,
chẳng mong hạ nhục người bằng cách giỡn cợt để lấy của. Thí chủ định cúng thí
cho người được khen, hoặc người thuyết pháp, hoặc đại chúng, hoặc chưa dự định
phần chia, hoặc đã bố thí nhưng chưa cho hẳn thì Bồ tát không bao giờ chen vào
trong ấy để nhận phần. Nếu khi nhận tài vật thì không tham đắm, cho đây là vật
của ta, đây là sở hữu của ta, phải đem của vật cho các Sa môn khác, hoặc Bà la
môn, Sư Tăng, cha mẹ và các người nghèo cùng thiếu thốn, đều được bình đẳng sử
dụng. Nếu tài vật hết không lo lắng, vài ngày không được thì tâm không khổ não.
Các Bồ tát này thọ nhận vật của
người khác cúng dường, hoặc bố thí cho người, cả hai đều được thanh tịnh. Vì hạnh thanh tịnh nên tâm chẳng mệt mỏi.
Vì sao? Vì lợi ích cho hữu tình đang bị đắm chìm trong biển luân hồi sanh tử,
nên các Bồ tát này không nhàm chán. Nếu có việc ma, các khổ bức bách, tâm không
bị thối lui. Nếu người muốn hành Nhị thừa thì vì họ để thuyết pháp không có nề
hà, mệt nhọc. Bồ tát tu pháp Bồ đề phần, không hề nhàm chán.
Các Bồ tát này tinh tấn như thế là
thường tùy thuận hành theo chánh giáo của Phật. Vì sao? Vì các Bồ tát này xa
lìa sự buông lung, tâm thường cẩn thận, khéo tự giữ gìn thân, không tạo việc
ác; ngữ, ý cũng vậy. Dù sống ở hiện tại nhưng sợ vị lai, diệt sạch các pháp ác
không cho sanh ra nữa. Lời nói thường dựa vào chân lý, thường thuyết đúng giáo
pháp, chẳng nói những lời phi pháp. Bỏ nghiệp xấu ác, chuyên tu hạnh thanh
tịnh. Không hủy giáo pháp của Phật, xa lìa phiền não và pháp bất tịnh. Đó là hộ
trì chánh pháp của Như Lai, diệt sạch các pháp ác bất thiện.
Các Bồ tát này tùy thuận theo giáo
pháp thanh tịnh của Phật, nếu thấy hữu tình thì vui vẻ, mỉm cười, không hề nhăn
nhó. Vì sao? Vì tâm đã lìa tạp uế, vẩn đục, các căn thanh tịnh, xa lìa cấu bẩn,
sân nhuế, tâm không kết hận. Bồ tát như thế tức được đa văn, quán sát sanh tử
thường biết như thật về lửa tham, sân, si đốt cháy làm cho con người mê loạn.
Biết như thật về các pháp hữu vi đều vô thường, tất cả hành là khổ, các pháp là
vô ngã. Ở thế gian, hữu tình say đắm theo hý luận, phải hiểu như thật là trong
các pháp chỉ có Niết bàn là tối thắng, tịch tịnh. Nghe người thuyết pháp thì
suy nghĩ nghĩa rồi truyền trao cho người. Phát đại từ bi, khởi niệm kiên cố.
Nếu chẳng nghe pháp thì không tư, tu.
Thế nên văn
tuệ là căn bản của các chữ. Tất cả trí tuệ được sanh ra từ đây. Đã được đa
văn thì hộ trì chánh pháp. Vào thời chánh pháp diệt tận, ở đời vị lai có các
hữu tình muốn tu hành mà không gặp chánh pháp, không có người thuyết pháp thâm
sâu, thì khi ấy Bồ tát tuyên dương Bát Nhã sâu xa, để cho hữu tình tu giới,
định, tuệ. Do đó khen: “Thiện nam tử! Vào thời chánh pháp diệt tận, người nên
phát tâm Bồ đề cầu Vô thượng giác, vì muốn làm lợi lạc cho hữu tình. Kinh điển
Bát Nhã sâu xa như thế là đối tượng để tu hành của chư Phật trong ba đời. Người
siêng tu hành thì giác ngộ chẳng xa. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật không xa đại
Bồ đề. Như người trồng lúa, cây lúa đã trổ bông, nên biết kết quả thu hoạch
không xa. Cũng vậy, Bồ tát cầu đại Bồ đề mà được nghe Bát nhã Ba la mật, thì
chắc chắn Bồ tát ấy cách Phật chẳng xa.
Thiện nam tử! Xa lìa Bát Nhã sâu xa
để nương tựa vào các Kinh khác cầu Vô thượng giác, hoặc có thể chứng đắc, thì
không có lẽ ấy. Thí như con vua, bỏ vua cha mà đi đến người khác cầu làm thái
tử chắc chắn không thể được. Cũng vậy, Bồ tát cầu Nhất thiết trí cần nương Bát
nhã Ba la mật. Nếu nương vào Kinh khác cầu Nhất thiết trí thì không thể được.
Thí như bò con muốn bú sữa thì phải nhờ mẹ nó, nếu tới bò khác thì không có
sữa. Cũng vậy, Bồ tát cầu đại Bồ đề phải nương vào Bát nhã Ba la mật, nếu nương
pháp khác thì không thể chứng đắc.
Thiên vương nên biết! Các đại Bồ tát gần gũi Bát nhã
Ba la mật làm Pháp vương tử, tướng tốt trang nghiêm thân thể, các căn đầy đủ,
tu hành pháp Phật đã tu, giác ngộ điều Phật đã giác ngộ. Cứu hộ khổ não cho tất
cả hữu tình, thông suốt hoàn toàn giáo pháp của Phật đã thuyết, thường tu phạm
hạnh, xa lìa vẩn đục, giữ gìn thành trì Nhất thiết trí của chư Phật. (Q.569, ĐBN)
Đó là Bồ tát làm Pháp vương tử, được
Đế Thích, Phạm Thiên, Hộ Thế cùng tôn trọng. Vì sao? Vì hành đạo Bồ tát được
bất thối, tất cả ác ma không thể lay động. Do đó, an trụ Phật pháp, thông suốt
tất cả lý không bình đẳng, không chạy theo duyên ngoài, nên an trụ trong trí
tuệ Phật pháp. Không cùng ở chung với Thanh văn, Độc giác v.v... vượt khỏi thế
gian, trụ Vô sanh nhẫn.
Bồ tát biết như thật các phẩm
thượng, trung, hạ khác nhau về tham, sân, si của hữu tình, biết rõ như thật
phẩm loại khác nhau về tâm thiện, tâm kiên cố của hữu tình. Khi biết như thật
rồi, tùy theo mỗi một hữu tình để nói pháp đối trị, có thể giáo hóa hữu tình. Hữu
tình nào muốn thấy thân Phật được độ thoát thì Bồ tát hiện thân Phật để thuyết
pháp. Nếu muốn thấy thân Bồ tát để được độ thoát thì Bồ tát hiện thân Bồ tát để
thuyết pháp. Nếu muốn thấy thân Độc giác để được độ thoát thì Bồ tát hiện thân
Độc giác để thuyết pháp. Nếu muốn thấy thân Thanh văn để được độ thoát thì Bồ
tát hiện thân Thanh văn để thuyết pháp. Nếu muốn thấy các thân Đế Thích, Phạm
Thiên, Bà la môn, Sát đế lợi, Trưởng giả, Cư sĩ v.v... để được độ thoát thì Bồ
tát đều hiện các thân ấy thuyết pháp cho họ. Bồ tát bằng phương tiện thiện xảo
hành sâu Bát nhã Ba la mật giáo hóa, độ thoát hữu tình như thế.
Các Bồ tát này tâm tánh từ hòa,
chánh trực, uyển chuyển, không bị cấu uế như dua nịnh, ganh ghét. Tâm thường
thanh tịnh, không nói lời thô ác, hành hạnh nhẫn nhục, gần gũi hữu tình.
Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật
như thế thì ở trú xứ ấy được an ổn. Vì sao? Vì Bồ tát đầy đủ chánh kiến và
thanh tịnh kiến, thanh tịnh hạnh, các hành động trong cảnh giới tùy tâm tương
ưng. Nếu thấy tâm trái với pháp ác bất thiện và cảnh giới uế ác thì Bồ tát
chẳng nên hành.
Các Bồ tát này thấy người đồng học
hết lòng vui mừng, hoặc của hoặc pháp đều thọ dụng chung, duy hành Phật đạo,
duy Phật là Thầy.
Bồ tát như thế thì được tự tại, an
lạc, nắm giữ đầy pháp để giáo hóa hữu tình. Vì lợi ích nhiếp phục hữu tình nên
Bồ tát bố thí lợi ích, bố thí an lạc, hoặc bố thí tất cả, hoặc dùng lời lợi
ích, lời có nghĩa, lời đúng pháp, hoặc những lời tương tự để nhiếp phục hữu
tình. Đem của cải để lợi ích bình đẳng, hoặc đem thân thể lợi ích bình đẳng,
hoặc đem sinh mạng để lợi ích bình đẳng, hoặc đem vật dụng để lợi ích bình
đẳng.
Thiên vương
nên biết! Bố thí mà đem lại nhiều lợi ích chính là pháp thí. Bố thí an lạc tức
là tài thí. Bố thí vô tận là chỉ dạy chánh đạo. Lời nói có lợi ích thì sanh
pháp lành. Lời nói có nghĩa thì thấy chánh lý. Lời nói như pháp thì tùy thuận
giáo pháp của Phật. Lời nói chẳng sai khác là thuyết pháp như thật. Dùng của để
lợi ích bình đẳng là việc ăn uống, y phục v.v.... Dùng thân để lợi ích bình
đẳng là bảo vệ nhiếp phục. Dùng mạng để lợi ích bình đẳng là các thứ trân bảo
ngoài mạng sống. Vật dụng lợi ích bình đẳng là voi, ngựa v.v... tất cả tịnh
tài. Đó là các Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, tự mình làm và đem cho người
đều được bình đẳng(5).
Các Bồ tát này sanh ra với thân hình
xinh đẹp, siêng năng tu tập, oai nghi tịch tĩnh, oai nghi không dối trá, oai
nghi thanh tịnh, mọi người đều muốn nhìn. Trong ngoài đều thiện, người xem
không chán, làm vui lòng người, tất cả hữu tình đều yêu mến, tôn trọng. Ai nhìn
thấy đều phát thiện tâm, người sân hận thấy thì tâm hòa giải.
Các Bồ tát này xinh đẹp như thế, làm
chỗ nương tựa, bình đẳng bảo hộ hữu tình diệt sạch phiền não, hướng dẫn hữu
tình xa lìa sanh tử vô biên, độ thoát vô biên hữu tình vượt qua hiểm nạn của
thế gian. Làm bạn thân với kẻ không quyến thuộc, làm thầy thuốc giỏi cho kẻ
bệnh phiền não, làm người cứu hộ cho người không được cứu hộ, làm chỗ nương tựa
cho người không có chỗ nương tựa, làm ngọn đuốc Pháp cho người không ánh sáng.
Bồ tát làm y chỉ cho các hữu tình như thế để chữa trị các bệnh, như cây Thọ
vương tên là Thiện Kiến, thân cây, gốc rễ, cành lá, hoa quả, sắc hương, mùi vị
đều chữa lành bệnh. Cũng vậy, các Bồ tát này từ khi mới phát tâm cho đến cứu
cánh thường chữa lành bệnh phiền não cho hữu tình. Bồ tát có nhiều phước đức
trí tuệ thì người nào được thấy nghe đều lành bệnh.
Đó là Bồ tát có công đức tương ưng
tùy theo năng lực để làm việc cúng dường Tam bảo, người có tật bệnh thì bố thí
thuốc men, người đói khát thì bố thí đồ ăn uống, người lạnh rét thì bố thí y
phục. Hết lòng kính thờ các vị Thân giáo sư, Quỷ phạm sư, cung kính chào hỏi
người đồng học, đồng giới pháp. Tạo lập trú xứ Tăng, cấp thí ruộng vườn tùy
theo tài vật của mình để bố thí. Nếu nghe Phạm chí, Sa môn nào có danh đức, tu
chánh hạnh thì thường gần gũi để học hỏi.
Các Bồ tát này thường phát sanh hạnh
lành, đầy đủ phương tiện thiện xảo để giáo hóa cứu độ hữu tình. Thân vẫn ở yên
nơi quốc độ này mà đến vô biên quốc độ khác để hỏi chánh pháp, thị hiện cúng
dường vô biên Như Lai, hoặc thị hiện tu tập trợ Bồ đề phần, hoặc thị hiện cúng
dường vị Phật mới thành, hoặc thị hiện thân mình thành Đẳng chánh giác, hoặc vì
chúng thị hiện chuyển pháp luân vi diệu, hoặc thị hiện Niết bàn làm việc lợi
ích lớn. Người đáng độ thì thị hiện thân hóa độ, làm cho người thấy được lợi
ích. Tuy làm các việc Phật sự như thế mà chẳng tác ý, chẳng phân biệt.
Khi ấy, Tối Thắng bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bồ tát làm các việc
biến hóa như thế nào mà tâm không phân biệt?
Phật dạy:
- Này Thiên vương! Ví như mặt trời, mặt trăng chiếu soi khắp
tất cả không có phân biệt: Ta phát ánh sáng và chiếu đến chỗ nào thì các
loài hữu tình tùy theo nghiệp lực của mình để cảm nhận ánh sáng mặt trời, mặt
trăng chiếu soi ngày đêm. Cũng như vậy, các Bồ tát này tuy hiện hóa thân mà không
phân biệt. Vì sao? Vì các hữu tình đều có nghiệp lành đời trước. Xưa kia, Bồ
tát phát nguyện độ hữu tình, do sức thệ nguyện và tùy theo ý niệm của họ nên
hóa hiện thân không phân biệt.
Các Bồ tát này dùng phương tiện thiện xảo, thường làm
những việc làm như thế để giáo hóa hữu tình mau chóng hướng đến quả vị Vô
thượng Bồ đề. Vì sao? Vì các Bồ tát này bố thí viên mãn, trì giới thanh tịnh,
không thủng, không khuyết, giới phẩm thanh tịnh vượt hẳn hàng Thanh văn và Độc
giác, đầy đủ an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, xảo tiện, diệu nguyện, lực,
trí và các công đức bất cộng của Phật, vượt trên địa vị Thanh văn, Độc giác.
Thiên vương nên biết! Bồ tát sơ địa
cho đến thập địa hành sâu Bát nhã Ba la mật, tu tập các hạnh như thế chứng đắc
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Khi thuyết pháp này có hai vạn Thiên
tử xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh. Ba vạn Bồ tát được Vô sanh nhẫn.
Tám vạn bốn ngàn trời, người đều phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vô
lượng trăm ngàn Kiền đạt phược và Khẩn nại lạc nhiễu quanh núi Thứu Phong, hoan
hỷ chấp tay tán thán Như Lai. Vô lượng trăm ngàn Dược xoa vui mừng chắp tay
nhiễu quanh núi Thứu Phong, mưa nhiều loại hoa vi diệu để cúng dường chư Phật.
Ở mười phương vô lượng hằng hà sa thế giới chư Phật đều có vô lượng Bồ tát đến
tán thán: Đức Như Lai Thế Tôn khéo thuyết Bát Nhã sâu xa cho các Bồ tát. Nhờ Bát
nhã Ba la mật mà trời, người được bốn hướng, bốn quả Thanh văn(6) và quả Độc
giác Bồ đề. Cũng có Bồ tát thập địa, thập độ(7), mười lực Như Lai, bốn điều
không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám
pháp Phật bất cộng, Nhất thiết tướng trí, Nhất thiết trí trí v.v... vô biên
Phật pháp đều nhờ Bát nhã Ba la mật mà được thành tựu. Như việc thế gian đều nương hư không, hư không không có chỗ nương. Bát
Nhã sâu xa cũng như vậy, vì các pháp không có chỗ nương. Nguyện cho chúng
tôi ở đời vị lai thuyết Bát nhã Ba la mật cho các đại Bồ tát như Thế Tôn đang
tuyên thuyết ngày nay. Nói như vậy rồi cung kính rải hương hoa lên Như Lai và
chúng hội.
Lúc ấy, có vô lượng thiên thần và
các thần khác ở núi Thứu Phong trụ giữa hư không tán thán:
- Hi hữu thay thưa Thế Tôn! Chúng
con nghĩ đã có vô lượng chư Phật đến núi Thứu Phong thuyết Bát nhã Ba la mật
cho đại chúng như ngày nay không khác.
Trời Tối Thắng bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thiên thần trong
không đâu có trí huệ biết cảnh giới Phật lâu gần sai khác mà nói rằng có vô
lượng Phật đã từng ở đây nói Bát nhã Ba la mật?
Phật dạy:
- Này Thiên vương! Chúng thiên thần
đây đều là Bồ tát an trụ cảnh giới Bất khả tư nghì giải thoát, cho nên biết
được sự sai khác gần xa của cảnh giới chư Phật trong quá khứ.
Này Thiên vương! Xưa kia, Ta còn làm
Bồ tát đã từng sanh trong cảnh thiên thần ấy, thấy vô lượng chư Phật chứng đắc
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đã vì chúng hội tuyên thuyết diệu pháp cho
đến lúc nhập Niết bàn, Ta thường chấp tay kính lễ khen ngợi. Vì sao? Vì tuổi
thọ của cảnh giới thiên thần kia lâu dài, nên thấy nghe vô biên sự việc lâu xa
trong quá khứ.
Bấy giờ, trong chúng có một Thiên tử
tên là Quang Đức rời tòa đứng dậy, lệch áo che vai trái, gối phải chấm đất,
chấp tay bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Chư Phật, Bồ tát
phải ở cõi Tịnh độ, chứ tại sao Thế Tôn xuất hiện ở thế giới Kham Nhẫn đầy dẫy
ô uế xấu ác này?
Phật bảo Quang Đức:
- Thiên tử nên biết! Chỗ ở của Như
Lai không có uế ác tức là cõi Tịnh độ.
Khi ấy, Như Lai dùng thần lực làm
cho ba ngàn đại thiên thế giới đất bằng như bàn tay, đều do lưu ly tạo thành,
không có các núi gò, núi đất, chông gai, nơi nơi đều có nhiều báu, hương hoa,
cỏ mềm, suối hồ với nước tám công đức, thềm bậc bằng bảy báu, cỏ cây hoa quả
đều thuyết về pháp luân Bất thối của Bồ tát, không có pháp Thanh văn, Độc giác
khác. Tuy có Bồ tát từ mười phương đến, mà chẳng nghe tiếng gì khác, chỉ nghe
thuyết pháp Bát Nhã sâu xa. Khắp nơi hoa sen nở lớn như bánh xe, với đầy đủ màu
sắc xanh, vàng, đỏ, tía v.v… Trong các đài hoa đều có các Bồ tát ngồi kiết già,
tư duy về Đại thừa. Thấy chư Như Lai ở giữa chúng hội, thuyết pháp sâu xa cho
chúng Bồ tát; vô lượng trăm ngàn Đế Thích, Phạm Thiên, Hộ Thế cung kính cúng
dường vây quanh khen ngợi.
Thiên tử Quang Đức thấy việc như vậy
vui mừng, hớn hở, khen ngợi Phật:
- Hi hữu thay thưa Thế Tôn! Hi hữu
thay thưa Thiện Thệ! Pháp Như Lai đã thuyết chơn thật không hư dối. Chỗ ở của
Như Lai không tạp uế, tức là Tịnh độ như Phật đã thuyết không có sai khác, hữu
tình phước mỏng thấy tịnh thành uế.
Bạch Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ
v.v… được nghe công đức danh tự Bát nhã Ba la mật thì đó là điều rất là hi hữu,
huống chi là siêng năng biên chép, thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết cho người
khác.
Phật bảo Quang Đức:
- Thiên tử nên biết! Thiện nam, thiện nữ v.v… nào ở
trong vô lượng đại kiếp, đem tâm vô ngại bố thí các tài vật cho hữu tình, so
với thiện nam, thiện nữ v.v… dùng tín tâm thanh tịnh biên chép Kinh này rồi
trao cho người khác thọ trì, đọc tụng thì công đức đạt được nhiều hơn người
trước. Vì sao? Vì của thí chỉ trừ đói khát còn pháp thí thì không cùng. Vì vậy
cho nên, tài thí chỉ được quả báo ở thế gian, quả vui trời, người, được rồi lại
mất. Nếu dùng pháp thí thì được cái chưa từng được, đó là Niết bàn chắc chắn
không lui mất.
Giả sử có giáo hóa hữu tình ở ba
ngàn đại thiên thế giới đều tu tập theo mười thiện nghiệp đạo. Nếu thiện nam,
thiện nữ v.v… với tín tâm thanh tịnh thọ trì, đọc tụng Bát Nhã sâu xa, rồi
giảng thuyết cho người khác, thì được vô lượng, vô biên công đức vượt hơn người
trước. Vì sao? Vì tất cả pháp lành đều được sanh ra từ Bát nhã Ba la mật.
Giả sử có người giáo hóa hữu tình ở
ba ngàn đại thiên thế giới đều được chứng đắc bốn hướng, bốn quả, Thanh văn,
Độc giác Bồ đề. Nếu thiện nam, thiện nữ v.v… với tín tâm thanh tịnh thọ trì,
đọc tụng, biên chép Bát nhã Ba la mật, thì công đức này vượt hơn người trước vô
lượng, vô số. Vì sao? Vì Thanh văn, Độc giác đều từ Bát nhã Ba la mật sanh ra.
Nhờ Bát nhã Ba la mật này mà có Phật xuất thế. Cho nên Bát nhã Ba la mật ở chỗ
nào thì biết chỗ ấy là tòa Bồ đề vi diệu, là chỗ Như Lai chuyển pháp luân.
Thiện nam, thiện nữ v.v… nên nhớ chỗ ấy thường có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.
Vì sao? Vì tất cả chư Phật đều do Bát nhã Ba la mật sanh ra. Người nào cúng
dường hình tượng Như Lai, thì được công đức chẳng bằng công đức cúng dường Bát
Nhã sâu xa. Vì sao? Vì ba đời chư Phật đều nhờ Bát nhã Ba la mật mà có.
Thích nghĩa:
(1). Pháp tánh hay pháp tính: (法性) Phạm: Dharmatà. Pàli: Dhammatà.
Cũng gọi Chân như pháp tính, Chân pháp tính, Chân tính, Pháp bản. Chỉ cho thể tính chân thực của các pháp,
cũng tức là bản tính bất biến của hết thảy hiện tượng trong vũ trụ. Cũng là tên
khác của Chân như. Theo luận Đại trí độ quyển 32 thì Tổng tướng và Biệt
tướng của tất cả các pháp đều qui về Pháp tính. Nghĩa là các pháp đều có tướng
sai biệt và thực tướng; tướng sai biệt không cố định, là bất khả đắc. Vì bất
khả đắc nên là không (vô tự tính), cho nên Không là thực tướng của các
pháp. Tất cả các tướng sai biệt, vì tự
tính của chúng là không, nên đều là đồng nhất, gọi đó là Như. Tất cả tướng đều
qui về không, cho nên gọi không là Pháp tính. Trong Kinh Đại bảo tích quyển
52, đức Phật chỉ dạy nghĩa thực tính của các pháp, cho rằng Pháp tính không có
đổi khác, không có thêm lên, không có bớt đi, không tạo tác nhưng chẳng có gì
mà không tạo tác. Pháp tính không có phân biệt, không có sở duyên, trong tất cả
pháp, chứng đắc thực tướng cùng tột. Thông thường, có thuyết phân biệt giữa
Pháp tính và Như lai tạng, cho rằng Pháp tính và Như lai tạng có khác nhau,
nhưng cũng có thuyết chủ trương Pháp tính và Như lai tạng là đồng nghĩa. [X.
Kinh Đại phẩm Bát Nhã Q.21; Kinh Bồ tát địa trì Q.1; luận Thành duy thức Q.2;
luận Đại trí độ Q.28; Đại thừa huyền luận Q.3]. (xt. Chân Như, Chân Lý). - Phật
Quang từ điển.
(2). Thay vì
nói là kéo áo che vai trái, người dịch lại nói là "lệch áo" che vai
trái. Từ “lệch” này có vẻ hơi xa lạ.
(3). “Thiên vương
nên biết! Ví như bốn đại nương vào hư không để kiến lập, mà hư không không có
chỗ nương nên phiền não cũng vậy. Bốn đại nương nơi vào pháp tánh, pháp tánh
không có chỗ nương. Các Bồ tát thực hành Bát nhã Ba la mật quán biết rõ như
thật, nên chẳng khởi trái nghịch, vì tùy thuận nên phiền não không sanh”.
Kinh “Thắng
Thiên Vương Bát nhã Ba la mật” do Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh dịch rõ ràng,
dễ hiểu hơn: “Này đại vương! Ví như bốn đại, nương tựa nơi hư
không để đứng, nhưng hư không lại không có chỗ nương tựa. Phiền não cũng vậy,
nương vào pháp tánh, nhưng pháp tánh không có chỗ để nương”.
(4). Nhân
vị: Chỉ cho các địa vị hoặc giai vị đạt được
trong quá trình tu tập nhân hạnh đến chứng đắc quả vị tu hành.
(5). Kinh
Thắng Thiên Vương Bát Nhã ghi: “Lợi ích thí tức là thí Pháp. An lạc
thí tức thí các nhu cầu sinh sống. Vô tận thí tức thị hiện Đạo. An lạc thí là
khiến người sinh thiện. Hữu nghĩa ngữ là khiến người thấy lý. Như pháp ngữ là
tùy thuận giáo pháp của Phật. Bất dị ngữ là thuyết Pháp như thực. Tài lợi ích
bình đẳng là cái có thể ăn, có thể nuốt, có thể uống, có thể nếm, có thể liếm
và y phục, vân vân. Thân lợi ích bình đẳng là những gì cần để thu nhiếp, phòng
vệ, lợi ích thân mình, khiến người cũng thế. Mạng lợi ích bình đẳng là chân
châu, lưu ly, san hô, mã não, đa phần là ngoại mạng. Tư cụ lợi ích bình đẳng là
voi, ngựa, xe, tất cả tiền của chính đáng. Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la
mật, tự mình hành và người khác hành đều như nhau”. Người dịch tuy dùng nhiều danh từ Hán Việt. Tuy nhiên, đã lột được
nghĩa chân xác hơn.
(6). Tứ
hướng tứ quả Thanh văn:
1- Con
đường dẫn vào bốn quả Thanh văn gọi là tứ
hướng (bốn hướng).
2- Tứ quả Thanh văn là: 1/. Tu đà
hoàn (Dự lưu): 2/. Tư đà hàm (Nhất lai). 3/. A na hàm (Bất hoàn, Bất lai). 4/.
A la hán (Vô học).
Tu đà hoàn (Dự lưu) hoàn tất việc
trừ sạch các Kiến hoặc trong tam giới (còn gọi là 88 kiết sử), chứng được Ngũ
thập tâm trong Kiến đạo, xong giai đoạn nầy gọi là Dự lưu hướng, thể nhập địa
vị Tu đạo, là đạt Dự lưu quả (nói khác Dự lưu hướng là giai vị Kiến đạo, Dự lưu
quả là giai vị Tu đạo). Tiến vào giai vị Tư đà hàm (Nhất lai), hành giả phải
giải trừ 6 phẩm đầu trong 9 phẩm phiền não Tư hoặc, là chứng được quả vị nầy.
Rồi hành giả tiến vào giai vị A na hàm (Bất lai), phải giải trừ sạch ba phẩm
phiền não Tư hoặc còn lại. Trong giai vị A la hán cuối cùng, hành giả giải trừ
vĩnh viễn mọi phiền não, và thể nhập Niết bàn. Tứ hướng tứ quả đã thích nghĩa
trong phần thứ I, Tổng luận. Ở đây lặp lại để giải thích cách thức tu tập như
thế nào để được bốn hướng và bốn quả. Đây giải thích chi tiết hơn.
(7). Thập độ
(十土): Mười cõi
nước được lập ra tùy theo thắng đức chân như của mỗi Địa mà Bồ tát Thập địa
chứng được. Đó là: Biến hành độ, Tối thắng độ, Thắng lưu độ, Vô nhiếp thụ độ,
Loại vô biệt độ, Vô nhiễm tịnh độ, Pháp vô biệt độ, Bất tăng giảm độ, Trí tự
tại độ và Nghiệp tự tại độ. [X. Đại pháp uyển nghĩa lâm chương Q.7, phần cuối].
(xt. Chân Như). - Phật Quang từ điển.
Có nhiều tự
điển khác giải thích thập độ là thập Ba la mật. Trong phẩm này thập độ chính là
Mười cõi nước được lập ra tùy theo thắng đức chân như của mỗi Địa mà Bồ tát
Thập địa chứng được như giải thích ở trên.TB
Sơ giải:
1. Nói về pháp tánh:
Trong phần
luận giải về pháp giới, chúng ta có nói uẩn xứ giới là cửa ngỏ tiếp xúc của
nhân sinh và vũ trụ. Và cũng từ cửa này mà sanh cảm thọ tốt xấu, nhiễm tịnh
v.v... nên sanh bệnh. Do khách trần chuyển nên tâm chuyển. Vì vậy, mới bảo hợp
trần thì bội giác, nên sanh bệnh, bệnh từ ngoài vào. Ở đây, phẩm “Pháp Tánh”,
Phật bảo:
“Từ vô thỉ các uẩn, xứ, giới luôn luôn nối tiếp nhau
trong chúng sinh, nhưng thể của pháp
tánh luôn thanh tịnh không bị ô nhiễm. Tất cả tâm ý thức không thể nương
vào đó phát khởi; cho nên không từ mười hai nhân duyên mà sinh. Đó gọi là vô
tướng, chẳng phải là tác pháp, tự tướng của nó thường trụ không sinh, không
cùng tận, không biên giới.
Bậc Bồ tát thực hành Bát nhã Ba la
mật, biết được pháp tánh thanh tịnh như vậy, nên xa lìa được cấu uế, không bị
nhiễm trước, cho nên vượt qua phiền não đạt đến giải thoát. Tánh này tức là
pháp căn bản của chư Phật; công đức trí tuệ nhân nơi đây mà phát sinh, thể tánh
của nó sáng suốt thanh tịnh, không thể nghĩ bàn”.
Pháp tánh tự
tánh thanh tịnh, vắng lặng, không nhiễm ô, còn gọi là Phật tánh, cái sẵn có của
mỗi chúng sanh. Nhưng nếu bị khách trần hư vọng phân biệt nhiễm trước, trôi lăn
trong sáu đường, thì gọi là chúng sanh tánh. Vì chúng sanh tánh luôn luôn trôi
nổi, sanh diệt vô thường. Nhưng các Bồ tát thực hành Bát nhã Ba la mật, biết
được pháp tánh thanh tịnh như vậy, xa lìa được cấu uế, không bị nhiễm trước, cho nên vượt qua phiền
não đạt đến giải thoát.
Đây là vấn
đề thường được nêu lên nếu không muốn nói là tranh luận: Thế nào là Bản hữu, thế
nào là Tu sanh? Bản hữu là cái bản
lai tự có của mỗi chúng sanh, đối lại với cái gọi là Tu sanh, do tu hành mà có. Cả hai thứ
này khởi thủy ngang nhau gọi chung là
Bản hữu tu sanh. Bất luận là hữu tình
phi tình, bản tính của chúng vẫn đầy đủ muôn đức, ở Thánh không tăng, ở phàm
không bớt. Nhưng vì khách trần mà bị ô nhiễm trôi lăn, nên phải tu để trở về cái bản
nguyên của thuở ban đầu nên gọi là Tu sanh.
Pháp Tướng
Tôn nói trong A Lại Da Thức (còn gọi là thức thứ tám) có hai loại chủng tử: 1.
Gọi là tiên thiên, hạt giống sẵn có
từ lâu, đó là các chủng tử sạch (thí dụ như đậu màu trắng); 2. Loại chủng tử
thứ hai gọi là hậu thiên, từ chủng
tử sạch này do khách trần làm ô nhiễm, nó biến thành các chủng tử dơ (thí dụ
như đậu màu đen). Nói như vậy có nghĩa A Lại Da Thức là nơi tàng chứa các chủng
tử của tất cả các pháp (nên được gọi là Tàng Thức). A Lại
Da Thức hay Tàng Thức sanh khởi các pháp của thế giới hiện tượng, rồi các pháp
này lại huân tập hình thành nên các chủng tử mới trong A Lại Da Thức. Các chủng
tử mới này sanh diệt liên tục của từng sát na có thể là sạch hay dơ (thí dụ như
đậu trắng và đậu đen lẫn lộn). Giống
như đứa bé mới sanh ra không biết gì, trong trắng ngây thơ nên trong A lại gia
thức có toàn chủng tử sạch (toàn đậu trắng). Đó là nói theo “lý tưởng”. Nhưng
càng lớn lên do huân tập nếp sống bên ngoài nên chủng tử mới được tạo nên có dơ
có sạch (đậu đen trắng lẫn lộn). Bây giờ, muốn trở thành một người tốt, Thánh
thiện thì phải lượm các hột đen thúi vứt đi(1).
“Thiên vương nên biết! Các đại Bồ
tát hành sâu Bát nhã Ba la mật có thể quán sát pháp tánh chơn tịnh như thế, tất cả Thánh giả như thật ngộ nhập.
Không có người tu và pháp để tu, không có người thực hành và pháp để hành,
không tâm, không có pháp thuộc tâm, không nghiệp, không quả báo, không khổ,
không vui. Quán sát như thế gọi là bình đẳng, không phân chia, xa lìa tùy thuận
quảng đại, không ngã, ngã sở, không cao, không thấp, chơn thật vô tận, thường
trụ trong sáng. Vì sao? Vì tất cả Thánh pháp do đây mà thành thục, nhờ tánh này
nên các bậc Thánh hiển hiện vô biên công đức và pháp bất cộng của chư Phật Như
Lai đều từ tánh này xuất sanh. Giới, định, tuệ của tất cả Thánh giả đều từ tánh
này sanh ra. Bát nhã Ba la mật của Bồ tát, Phật đều từ tánh này sanh ra. Tánh
này vắng lặng vượt các danh tướng. Tánh này chơn thật, xa lìa điên đảo. Tánh
này chẳng biến đổi nên gọi là Thánh trí, là Đệ nhất nghĩa; chẳng có, chẳng
không, chẳng thường, chẳng đoạn, chẳng phải sanh tử, chẳng phải Niết bàn, chẳng
nhiễm, chẳng tịnh, lìa nhất dị, không danh, không tướng”.
Ở đây Phật
thuyết bản tánh hay tự tánh chúng sanh (Tâm) vốn thanh tịnh, bất nhiễm, nhưng
vì khách trần mà sanh ra có nhiễm có tịnh: Phật, Bồ tát “thực hành Bát nhã Ba la mật, biết được pháp tánh chơn tịnh, nên xa lìa được
cấu uế, không bị nhiễm trước, cho nên vượt qua phiền não đạt đến giải thoát”.
Trong khi chúng sanh “bị các phiền
não che lấp, trôi lăn trong sinh tử, chìm nổi sáu đường, suốt dòng sinh tử luân
chuyển theo chúng sinh, nên gọi là tính chúng sinh”.
Một khi Như
Lai tạng tánh nằm trong triền phược (Như Lai tại triền) thì bị lưu chuyển trong
sáu đường thì gọi là mê, mê tức chúng sanh. Nếu Như Lai thoát khỏi mọi ràng
buộc (Như Lai xuất triền) thì được rỗng rang tự tại nên nói là ngộ, ngộ tức
Phật. Đây là lối giải thích mê ngộ tùy theo Như Lai tạng tánh cũng giống như
lối giải thích về chủng tử của Pháp Tướng Tôn.
Pháp tánh tự tánh vắng lặng, nhiệm mầu. Nhưng chúng
sanh không biết lại nương vịn khách trần, sanh ra hư vọng phân biệt nhiễm trước
nên bị luân chuyển trôi lăn. Chúng sanh
không thật chúng sanh, 5 uẩn không phải là chúng sanh. Nên chư Phật Bồ tát hành
sâu Bát Nhã biết bản tánh các pháp (tức pháp tánh) chơn tịnh, nên không bị các
pháp chuyển mà trái lại có thể chuyển các pháp, nên không rời đạo tràng mà có
thể chuyển pháp luân khắp cả 10 phương thế giới.
Vì vậy, Kinh
bảo: “Pháp tánh thanh tịnh là gốc các
pháp, tự tánh vốn không hư dối, phiền não đều từ tà niệm điên đảo mà sanh”.
“Giới, định, tuệ của tất cả Thánh
giả đều từ tánh này sanh ra. Bát nhã Ba la mật của Bồ tát, Phật đều từ tánh này
sanh ra. Tánh này vắng lặng vượt các danh tướng. Tánh này chơn thật, xa lìa
điên đảo. Tánh này chẳng biến đổi nên gọi là Thánh trí, gọi là Đệ nhất nghĩa;
chẳng có, chẳng không, chẳng thường, chẳng đoạn, chẳng phải sanh tử, chẳng phải
Niết bàn, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, lìa nhất dị, không danh, không tướng”. Đó là pháp tánh.
Chúng tôi
nghĩ với những giải thích cặn kẽ như trên có thể soi sáng cái gọi là pháp tánh.
2. Tại sao nói pháp tánh là tên khác của Chân như?
Phẩm này nói
về “Pháp Tánh” nhưng cũng đề cập đến Chân như giống như phẩm “Pháp Giới” trước
đây:
“Pháp tánh như, hữu tình như không
hai, không khác. Hữu tình như, pháp tánh như không hai, không khác. Pháp tánh
như, các pháp như không hai, không khác. Các pháp như, chư Phật như không hai,
không khác. Pháp tánh như, như đó ba
đời không trái nghịch nhau. Quá khứ như, vị lai như không trái nghịch nhau. Vị
lai như, hiện tại như không trái nghịch nhau. Hiện tại như, quá khứ như không
trái nghịch nhau. Uẩn, xứ, giới ba
đời như. Uẩn, xứ, giới như tức nhiễm tịnh như. Nhiễm tịnh như tức sanh tử Niết
bàn như. Sanh tử Niết bàn như tức các pháp như”.
“... Nói Như như chính là Bất dị;
không đổi, không sinh, không tranh, chân thực. Vì không tranh nên gọi là Như,
thấy biết như thực các pháp không sinh. Các pháp tuy sinh, nhưng Như Như bất
động. Như như tuy sanh các pháp mà như đó chẳng sanh. Đó gọi là Pháp thân thanh tịnh, bất biến như hư không, vô đẳng
đẳng, không có một pháp nào trong tam giới có thể sánh bằng. Khắp thân chúng
sinh, không có cái tương tợ; thanh tịnh lìa cấu, xưa nay không nhiễm; tự tính
trong sáng, thanh tịnh; tự tính không sinh; tự tính không khởi. Ở tâm, ý, thức
mà không phải tánh của tâm, ý, thức; tức là Không, Vô tướng, Vô nguyện. Khắp
cõi hư không, khắp chúng hữu tình đều bình đẳng, vô lượng, vô biên, không có
sai biệt. Không phải sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không lìa sắc, thọ, tưởng,
hành, thức. Không phải địa, thủy, hỏa, phong; không lìa địa, thủy, hỏa, phong.
Không phải sanh, không lìa sanh. Tuy nghịch sanh tử nhưng chẳng thuận Niết bàn.
Mắt không thể thấy, tai không thể nghe, mũi không thể ngửi, lưỡi không thể nếm,
thân không thể xúc chạm, ý không thể biết. Không ở tâm, ý, thức, không lìa tâm,
ý, thức.
Thiên vương nên biết! Đấy là pháp tánh”.
Trước hết
phải nói đoạn kinh này có thể xem là một định nghĩa ngắn gọn về chân pháp giới
của tất cả pháp.
Từ “Như” hay
“Như như” là chỉ Chân như của tất cả pháp. Đoạn Kinh trên nói về chân như này.
Đó là một “quan niệm” quan trọng của Đại thừa giáo, chỉ thể tính tuyệt đối cuối
cùng của vạn hữu. Như đó là như như bất động, thường như, chẳng lúc nào chẳng
như. Nó như vậy bởi vì nó như vậy, nằm ngoài mọi lý luận nhận thức. Như này nhằm chỉ cái ngược lại của thế giới
hiện tượng thuộc thân tâm. Tri kiến được Chân như tức là Giác ngộ, vượt ra
khỏi thế giới nhị nguyên, chứng được cái nhất thể của khách thể và chủ thể. Như
này đồng nghĩa với Như Lai tạng, Phật tính, Pháp thân. Như này cũng chính là
Không như Đại Trí Độ Luận của Bồ tát Long Thọ đã nói trong thích nghĩa nói
trên. Chúng ta không lấy làm lạ trong kinh hay luận những từ sau đây được xem
như có thể thay thế cho nhau để chỉ về thật tính của các pháp: Chơn như, Pháp
giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, bất hư vọng tánh,
bất biến dị tánh, ly sanh tánh, bất tư nghì giới, hư không giới, đoạn giới, ly
giới, diệt giới, vô tánh giới, vô tướng giới, vô tác giới, vô vi giới, an ẩn
giới, tịch tĩnh giới, pháp định, pháp trụ, bổn vô, thật tế, Tánh Không…
Vì vậy, Kinh
điển Đại thừa mới xếp loại chân như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh… hay
nói rộng “thập nhị chân như” cùng một thể loại như nhau. Bởi vì chúng là anh em với nhau trong cùng
bào thai của Như Lai, nên đồng một như không hai không khác, không cùng tận.
Sau khi thuyết về chân như như thế, rồi Phật bảo Tối Thắng Thiên Vương: “Đấy
là pháp tánh”.
3. Tại sao nói pháp tánh lại đề cập đến bình đẳng
tánh?
“Ở trong mười
phương tìm cầu Phật pháp chắc chắn không thể được. Biết rõ tất cả pháp đều là Phật pháp, không thường, không đoạn. Vì
sao? Vì tìm cầu pháp này không thể được. Dùng lý như thật tìm cầu không thể
được. Pháp này không thể nói có, nói
không, cũng không có danh tướng, vượt cảnh giới này. Nếu lìa danh tướng tức là
bình đẳng. Nếu pháp bình đẳng thì không chấp trước. Vì không chấp trước nên là
pháp chơn thật. Nếu chấp chơn thật tức là hư vọng. Vì chẳng chấp trước nên
chẳng hư vọng. Vì tâm không bị chấp trước nên vô ngại. Vô ngại tức vô chướng.
Vô chướng tức không tranh. Nếu không tranh tức đồng với hư không, chẳng lệ
thuộc vào ba cõi. Nếu tất cả xứ không còn bị lệ thuộc thì pháp này vô sắc, vô
tướng, vô hình. Nếu pháp vô sắc, vô tướng, vô hình, nên biết pháp ấy tùy theo
cảnh giới kia nhưng lìa sự biết và đối tượng để biết. Vì sao? Vì trong ấy không
có một chút pháp nào để giác ngộ, có thể giác ngộ. Đó là Bồ tát hành sâu Bát
nhã Ba la mật thông suốt bình đẳng”.
Tất cả những
điều thuyết giảng trên là nói xa nói gần về chân như, pháp giới, pháp tánh,
bình đẳng tánh. Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật chỉ cần quán
thấy một trong các pháp này thì thâm nhập thập nhị chân như, thấu triệt thật
tướng của tất cả pháp, nên mới có nhìn bình đẳng thanh tịnh trên mọi sai biệt
của tất cả vạn hữu trần gian.
Phẩm “Bình
Đẳng”, quyển 570, Hội thứ VI, ĐBN. Nói:
- “Thiên vương nên biết! Các pháp
quán bình đẳng, tự tánh của nó tịch
tĩnh, không sanh không diệt, nên gọi là bình đẳng. Tất cả phiền não hư vọng
phân biệt, tự tánh tịch tĩnh, không sanh không diệt, nên gọi là bình đẳng. Danh
tướng phân biệt, tự tánh tịch tĩnh, không sanh không diệt, nên gọi là bình
đẳng. Điên đảo diệt, không khởi phan duyên nên gọi là bình đẳng. Tâm năng duyên
vô minh, hữu ái diệt; vì si ái diệt, hoàn toàn tịch tĩnh, không còn chấp trước
ngã và ngã sở nên gọi là bình đẳng. Vì ngã và ngã sở chấp vĩnh viễn không còn
nên danh sắc tịch tĩnh, gọi là bình đẳng. Vì danh sắc diệt nên biên kiến không
sanh, gọi là bình đẳng. Vì thường đoạn diệt nên thân kiến tịch tĩnh, gọi là
bình đẳng”.
Chúng sanh
bình thường thấy bình đẳng là tướng bên ngoài của các pháp như nước bình đẳng
chỉ một mực ngang nhau, đó là cái thấy bình đẳng nằm bên ngoài. Nhưng thân tâm
tịch tĩnh, cũng nói là bình đẳng. Đó là cái bình đẳng nằm bên trong, bên trong
khó thấy nên nói là nhận thức ở tầng cao hơn.
Cũng cùng đoạn kinh trên, nói tiếp:
“Thiên vương nên biết! Nói ngã là
không đến không đi, không có chơn thật, là pháp phân biệt hư vọng, từ vọng
sanh, cũng là hư vọng. Nếu các Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng phương
tiện thiện xảo quán pháp như vậy thì lìa xa hư vọng, nên gọi là tịch tĩnh bình
đẳng.
Thiên vương nên biết! Năng chấp, sở
chấp gọi là lửa, xa lìa gọi là tịch tĩnh, hoặc chướng là lửa, xa lìa là tịch
tĩnh. Nếu các Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo,
như thật biết năng chấp, sở chấp và các phiền não diệt thì thiện pháp tăng
trưởng. Đoạn trừ năng chấp, sở chấp và các phiền não, nhưng không thấy sanh
cũng không thấy diệt, nên gọi là bình đẳng. Tu hết thảy chủng loại Ba la mật xa
lìa ma chướng, nhưng không thấy có tu cũng không thấy có lìa nên gọi là bình
đẳng”.
(Phẩm “Bình
Đẳng” kế tiếp sẽ thuyết rõ nghĩa này)
4. Các pháp không sanh không diệt:
“Phật bảo Tối Thắng:
- Thiên vương nên biết! Vì các pháp
không diệt nên không sanh. Vì sao? Vì tánh không biến đổi, chỉ do người thế tục
thấy có sanh, có diệt, đó là sự thấy biết hư vọng, không chơn thật. Những Bồ
tát nào bằng phương tiện thiện xảo hành sâu Bát nhã Ba la mật, thì thấy pháp nhân duyên, biết rõ tục
đế là Không, vô sở hữu, không bền chắc, không có mà tợ như có, như huyễn hóa,
như ảo mộng, như âm vang, như bóng sáng, như ảo ảnh, như quáng nắng, như việc
biến hóa, như thành Tầm hương, lay động chẳng yên, đều do nhân duyên sanh khởi.
Các Bồ tát này dùng Bát Nhã vi diệu
quán sát các pháp Không, nói rộng cho đến từ nhân duyên sanh khởi. Các Bồ tát
này tư duy: Các pháp này thấy có sanh, có trụ, có diệt. Do nhân duyên nào mà
sanh? Do nhân duyên nào mà diệt? Tư duy như vậy rồi biết rõ như thật, do vô minh sanh các hành, do hành sanh
thức, nói rộng cho đến do hữu nên có sanh, do sanh nên có lão, do lão nên có tử
và ưu, sầu, khổ, não. Cho nên cần phải tu hành để diệt vô minh. Nếu diệt vô
minh thì mười một chi còn lại lần lượt diệt theo, như thân đã diệt thì mạng
sống đều diệt theo.
Thiên vương nên biết! Tà kiến ngoại
đạo mong cầu giải thoát, chỉ muốn đoạn
tử chẳng biết đoạn sanh. Nếu pháp không sanh thì không có diệt”.
Quan niệm
con người vốn bản hữu, tự tánh thanh tịnh, bất nhiễm đối với tri thức thường
tục là một điều khó nuốt, khó tiêu hóa. Bây giờ, nói vạn hữu không sanh không
diệt nữa lại càng không thể chấp nhận được. Đối với con người trần tục ai cũng
thấy có sanh trụ dị diệt. Con người sanh ra lớn lên, già chết... ai cũng thấy
như vậy, nên khi nói các pháp không có sanh không có diệt, không ai tin nhận.
Phật quan niệm các pháp hiện hữu là do nhân duyên, duyên hợp thì gọi là sanh,
duyên tan thì gọi là diệt. Như nói vô minh sanh hành, hành sanh thức, thức sanh
lục xứ, lục xứ sanh xúc, xúc sanh thọ,
thọ sanh ái, ái sanh thủ, thủ sanh hữu, hữu sanh sanh, sanh sanh lão tử. Khi vô
minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt... cho đến sanh diệt thì lão
tử diệt. Một chuỗi dài sanh diệt vô cùng tận, nhưng không ai biết nguyên do của
sanh diệt là do duyên hợp (duyên khởi hay duyên sanh). Chặt đứt mắc xích duyên
sanh thì không còn tử nữa.
Chư Phật
không thấy sanh, các pháp sở dĩ có sanh là do duyên hợp, khi duyên rã rời thì
gọi là diệt. Diệt nhưng chẳng có gì gọi là diệt, chỉ là biến thể chớ không phải
biến mất. Vì biết như vậy nên chư Bồ tát mới đạt được Vô sanh pháp nhẫn mà
chứng Vô Thượng Bồ đề.
Bồ tát biết
như vậy nên đoạn sanh, giết cái mầm sanh thì làm gì có tử. Còn chúng sanh sợ tử
nên chỉ muốn đoạn tử để sống hoài. Nên phải lăng lóc chịu khổ trong luân hồi.
Hết sanh rồi tử, hết tử rồi sanh bất tận chẳng bao giờ yên!
Đó gọi là
“quan niệm”không sanh không diệt.
5. Tu tịnh hạnh:
Các Bồ tát
biết tu Bát nhã Ba la mật, biết nhân duyên không, không thực có, không khởi ngã
mạn, nên khi sanh trong cảnh nghèo nàn khổ cực tự biết nghiệp đời trước không được thanh
tịnh nên có quả báo thấp kém, liền bỏ cuộc đời, xuất gia tu tịnh hạnh mong
thoát khỏi cảnh tối tăm. Tự mình cầu
độ, cũng lại độ người; tự cầu giải thoát, cũng lại giải thoát người. Vì nhân duyên này tức sinh tinh tấn tu
phạm hạnh mà đoạn trừ được phiền não.
“Các Bồ tát này hành sâu Bát nhã Ba
la mật như thế thì thường tùy thuận thế gian, thấy kẻ giận dữ thì sanh nhường
nhịn, thấy kẻ kiêu mạn thì khởi tưởng vô ngã, thấy kẻ tà vạy thì khởi tưởng
chánh trực. Thấy người vọng ngữ thì nói lời chân thật. Thấy kẻ nói ác thì dùng
ái ngữ. Thấy kẻ cứng cỏi thì thị hiện nhu hòa. Thấy kẻ nóng giận thì sanh từ
nhẫn. Thấy kẻ theo pháp tà thì sanh đại từ. Thấy kẻ khổ não thì sanh đại bi.
Thấy kẻ xan tham, tật đố thì hành bố thí”.
Đó là hành
của Bồ tát, gọi là hành Bồ tát hạnh hay Bồ tát đạo, hành như thế mới siêu xuất,
mới xứng đáng mang danh Bồ tát.
“Lợi ích thí tức là thí Pháp. An lạc
thí tức thí các nhu cầu sinh sống. Vô tận thí tức thị hiện Đạo. An lạc thí là
khiến người sinh thiện. Hữu nghĩa ngữ là khiến người thấy lý. Như pháp ngữ là
tùy thuận giáo pháp của Phật. Bất dị ngữ là thuyết Pháp như thực. Tài lợi ích
bình đẳng là cái có thể ăn, có thể nuốt, có thể uống, có thể nếm, có thể liếm
và y phục, vân vân. Thân lợi ích bình đẳng là những gì cần để thu nhiếp, phòng
vệ, lợi ích thân mình, khiến người cũng thế. Mạng lợi ích bình đẳng là trân
châu, lưu ly, san hô, mã não, đa phần là ngoại mạng. Tư cụ lợi ích bình đẳng là
voi, ngựa, xe, tất cả tiền của chính đáng. Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la
mật, tự mình hành và người khác hành đều như nhau”.
Bố thí thì
buông bỏ vạn duyên, xả bỏ tất cả trong ngoài tức biết thương xót hữu tình, nên
nói là có tâm bình đẳng mới có thể hóa độ tất cả chúng sanh.
“... Các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã
Ba la mật quan sát pháp sanh đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả hoàn toàn không
thấy ngã, không thấy hữu tình cho đến không thấy người biết và người thấy. Tuy
hành bố thí nhưng không thấy có sự xả bỏ; tuy trì tịnh giới nhưng lìa giới
tướng; tuy tu tập an nhẫn nhưng tâm vô tận; tuy tu tập tinh tấn nhưng lìa tướng
ấy; tuy tu tập tịnh lự nhưng không có sự vắng lặng; tuy tu tập Bát Nhã nhưng
không có đối tượng; tuy tu tập niệm trụ nhưng không chấp chặt; tuy tu tập chánh
đoạn nhưng tâm bình đẳng; tuy tu tập thần túc nhưng lìa hý luận, tuy tu tập căn
lực nhưng không phân biệt các căn của hữu tình và xa lìa lầm lỗi; tuy tu tập
giác chi nhưng không phân biệt; tuy tu tập chi Thánh đạo nhưng tâm vô công
dụng; tuy tu tập tịnh tín nhưng không chấp trước. Trí tuệ tự nhiên nhớ nghĩ các
pháp với tâm trí bình đẳng, tu tập các diệu định mà tâm không phân biệt, quan
sát diệu tuệ mà tâm không ngừng nghỉ. Tu tập quán chỉ tâm không có sự thấy, tu
tập pháp quán tâm không có chỗ niệm. Tu tùy niệm Phật tâm thông suốt pháp giới
bình đẳng, tu tùy niệm Pháp tâm không có chỗ trụ, tu tùy niệm Tăng nên thanh
tịnh bản tâm. Giáo hóa hữu tình không có tâm phân biệt. Tâm pháp giới bao trùm
tất cả pháp. Tâm như hư không, trang nghiêm cõi Phật. Tâm không có chỗ chứng
đắc đạt Vô sanh nhẫn. Tâm không tiến lùi đạt Bất thối chuyển, xa lìa tâm tướng,
không thấy có tướng. Ở trong tam giới dùng tâm bình đẳng, trang nghiêm tòa Bồ
đề. Tâm không có chỗ giác ngộ biết rõ tất cả pháp. Tuy chuyển pháp luân nhưng
không thấy người nghe, người nói. Tuy hiện Niết bàn nhưng biết bản tánh sanh tử
bình đẳng.
... Các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã
Ba la mật, quán sát các pháp như vậy nhưng không thấy sự quán, không thấy có
pháp để quán nên được thần thông tự tại. Vì sao? Vì tâm thanh tịnh nên thấy tất
cả hữu tình thanh tịnh”.
Tất cả những
dẫn chứng nói trên cốt nêu lên lối tu tịnh hạnh. Chỉ cần tu một trong lục độ
vạn hạnh như tu tịnh giới thành công thì được gọi là Thánh. Không ai trong cõi
đời này có thể tự hào là suốt đời không bao giờ phạm lỗi, chỉ có bậc đạo hạnh
sâu dày mới có thể làm được, nên mới được xưng tụng là Thánh nhân. Vì vậy, Kinh
bảo học một pháp thì biết muôn pháp, học một hạnh thì được muôn hạnh.
Nên Phật bảo
Tối Thắng Thiên Vương:
- “Thiên vương nên biết! Đối với các pháp ta đã nói ở trước, Bồ tát nào
chỉ cần tu một hạnh là đầy đủ các pháp. Như vậy, một hạnh cũng sanh về cõi Phật
thanh tịnh. Vì sao? Vì trong mỗi một hạnh đầy đủ các hạnh”.
Tu tịnh hạnh
như vậy là sẵn sàng dọn mình để chứng Thánh, trở thành Bồ tát Bất thối chuyển;
lên Đẳng giác, rồi vào Diệu giác, thì chỉ cần đợi một đời nữa sẽ được nhất sanh
bổ xứ, ngôi vị Pháp vương.
Suy ra cho
cùng, tất cả suối, lạch, sông, ngòi lớn nhỏ đều đổ vào đại dương chẳng khác nào
như tu Lục độ vạn hạnh để được tịnh hạnh, chứng Thánh mà tế độ chúng sanh.
Nhưng chẳng có gì khó khăn hơn là tu Bồ tát hạnh hay Bồ tát đạo, gian nan thử
thách quá nhiều. Nên trong phẩm trước “Niệm Trụ Đẳng” cũng như phẩm “Pháp Tánh”
này Phật dạy tu tịnh hạnh quá thiết tha. Vậy, phải thọ trì những khuyến dẫn
trên của chư Phật để được công tròn quả mãn.
Thích nghĩa cho phần lược giải này:
(1). Đây là
thí dụ lý tưởng về tâm của một đứa bé mới ra đời với A lại da thức chứa toàn
chủng tử sạch, nhưng theo Duy Thức Học không giản dị như vậy. Một người sanh
ra, tùy theo nghiệp quả: Nếu tiền kiếp là Bồ tát thì trong A Lại Da Thức có sẳn
các chủng tử vô lậu (thí dụ như toàn đậu trắng) thì khi tái sanh sẽ thuộc bậc
Thánh. Nếu trong tiền kiếp là một tội phạm thì trong A Lại Da Thức có sẵn chủng
tử hữu lậu lẫn vô lậu (đậu đen đậu trắng lẫn lộn) khi tái sanh: Nếu tội lỗi
nhiều thì đậu đen nhiều, nếu tội lỗi ít thì đậu trắng nhiều. Muốn trở thành
thánh thiện ở hiện đời hay tương lai thì phải tu, tu để loại bỏ chủng tử xấu
(đậu đen). Khi loại bỏ tất cả chủng tử
xấu rồi (đậu đen hư thối vứt đi), còn lại chủng tử tốt (toàn đậu trắng) thì
chứng Thánh. Đạo Phật quan niệm bản hữu tức thiên chất của con người sanh ra
đều có Phật tánh, nhưng vì khách trần làm nhiễm ô nên phải tu để trở về cái bản
nhiên thanh tịnh của thuở ban đầu.
Chú ý:
Duy Thức Học
là một môn học rất khó. Muốn hiểu nó thì phải đọc thêm Kinh sách. Ở đây chúng
tôi chỉ nói đại cương thôi. Nếu quý vị có hứng thú xin đọc quyển sách căn bản
gọi là Duy Thức Học nhập môn, bản dịch của HT. Thích Thiện Hoa, nhà xuất bản
Tôn Giáo, Hà nội - Phật lịch 2547- DL 2003.
---o0o---